Ý Thức Ký Hiệu Học

7. Sơ Thảo

Systemic Functional Linguistics

Hệ Thống Chức Năng Ngôn Ngữ

 

(Tiếp Theo)

 

Vào gần cuối thế kỷ 20, nhiều lý thuyết xoay hướng về tìm hiểu văn bản và đặt ra những câu hỏi nhắm vào cơ bản của ngôn ngữ, của giao tiếp xã hội, và nhất là của ý nghĩa diễn đạt, thông tin và truyền thông. Ví dụ: Văn bản ảnh hưởng người đọc như thế nào? Chúng ta cấu tạo văn bản ra sao? Vì sao văn bản lại có ý nghĩa khác nhau tùy người đọc? Văn bản và văn hóa hổ tương bổ xứng nhau như thế nào? Những trả lời hiện có đi từ nghiêm túc như các lý thuyết văn học và nghiên cứu văn hóa cho đến những khái niệm văn chương bởi cảm tính.

Hệ thống Systemic Functional phân tích được khai triển trở thành một phần nền móng tìm hiểu ngôn ngữ cá nhân và xã hội, thể hiện trong bộ sách của Michael Halliday, gồm có mười cuốn, Collected Works, 2002-2003.

Các lý thuyết gia bao giờ cũng nói rất khó hiểu, lý do, họ nói đến một công thức chung, một giải quyết chung, một bí ẩn chung, một 'hàm số' nhân văn chung; có tính bao quát. Ví dụ, họ sử dụng hệ thống ngôn ngữ toán học: X+Y=Z.

 Chúng ta cần sử dụng hệ thống ngôn ngữ bình dân để có thể cảm thấu dễ dàng. Ví dụ, 2+8=10, rất dễ hiểu. Dù cho trừu tượng hơn một chút, cũng không phải không thể hiểu, ví dụ: Anh+Em = Con. Nếu ở diện tâm cảm, Anh+Em = Buồn. Hệ Thống Chức Năng Ngôn Ngữ là phương pháp, phương tiện tìm hiểu tương quan giữa ngôn ngữ và phạm vi chứa đựng văn cảnh ngữ cảnh trong mạch văn. Dẫn đến việc viết điều gì cụ thể, liên quan thực tế, sẽ dễ được cảm nhận hơn là viết về một tư tưởng, một loại công thức chung nào đó. Ngược lại, một công thức ý tưởng chung sẽ dễ dàng thuyết phục người đọc. Ví dụ: " Những neo thuyền yêu đương thường dễ đứt / Khiến bao chiều trên bến tịch liêu / vắng con tàu sân ga thường héo hắt / Vắng em lòng anh thấy quạnh hiu...(Ảo Ảnh, Y Vân.)" rất dễ cảm vì ai cũng có liên hệ thực tế với neo thuyền, tình mong manh, sân ga không con tàu....Còn như Saint Exupery nói, " Khi hai người yêu nhau, họ không nhìn nhau mà cùng nhìn về một hướng." Khó hiểu hơn vì kinh nghiệm thông thường cho hai người yêu nhau là nhìn nhau. Chẳng những nhìn nhau mà còn nhìn say đắm. Cho đến khi nào, hiểu ra cái ý ám chỉ của Saint Exupery thì mới được thuyết phục lâu dài và cảm nhận sự cao thượng.

 Từ Ngữ Trong Tổng Thể Văn Cảnh và Mạch Văn

 Hệ Thống Chức Năng Ngôn Ngữ dùng ba phương tiện trực tiếp vào ngữ cảnh/ mạch văn trong tất cả các cấp bậc ngôn ngữ. Nhất là sự phân biệt giữa hệ thống ngôn ngữ nói và hệ thống ngôn ngữ viết. Tìm hiểu ngôn ngữ hàng ngày là điều cần thiết trong mọi liên quan giao tế, từ thân tình cho đến kinh doanh, ngoại giao:

 Phương Thức Biến Số Biểu Hiện ( The register variables of mode.) Sự phản hồi và vai trò của ngôn ngữ.

 Ví dụ ngắn và tạm này, vừa giải trí cho văn ý khô khan vừa cho thấy vị trí của chữ trong văn cảnh, ngữ cảnh và mạch văn có thể biểu lộ ý tứ người sử dụng cho dù họ cố ý hoặc vô tư.

 "Anh mãi mãi yêu em" và "Anh yêu em mãi mãi". Có thể là cách sử dụng do thói quen hoặc ngẫu nhiên về vị trí từ "mãi mãi". Nhưng nếu đặt ra ảnh hưởng của vô thức và cá tình, thì vị trí từ "mãi mãi" trong câu, liên hệ với từ ngữ trước và từ ngữ sau, cho thấy một khía cạnh phân tích khác:

 "Anh mãi mãi yêu..." cho thấy người sử dụng thuộc mẫu người lý tưởng. Xem cái mãi mãi là quan trọng. Chính cái mãi mãi là điều âm thầm mà ông cảm kích dù em này, nếu không, có lẽ sẽ có em khác.

 "...yêu em mãi mãi", cho thấy người sử dụng thuộc mẫu người thực tế. Xem nhân vật nữ là quan trọng. Mãi mãi chỉ phụ thuộc vào người nữ này.

 Cả hai cùng yêu, có thể cùng cường độ say mê nhưng ngay từ ban đầu, đã có khuynh hướng khác biệt. Một bên, nếu có điều gì làm cho ông mất lòng tin, mất ý nghĩa mãi mãi, sẽ dẫn đến chia tay, ly dị. Một bên, nếu người yêu không chứng tỏ được sự trung thành, thì tan rả.

 Dĩ nhiên, cần phải đọc toàn thể văn bản để xem ngôn ngữ người sử dụng thuộc hệ thống nào, cấp bậc nào, lý tưởng hoặc thực dụng, thì mới dám xác quyết nhân vật. Đặc biệt, lời nhạc vì phụ thuộc âm độ cao thấp nên vị trí của chữ đa phần tùy thuộc vào xướng âm và vần nhịp.

 Systemic Functional Linguistics trong Sơ Đồ Đèn Đường (15)

 KyHieuHoc Phan8 Anh1 NguYen

 Sự ngưng lại, dừng lại được ám chỉ và mã hiệu bởi đèn đỏ, chậm lại bởi đèn vàng, đi bởi đèn xanh. Từ ý nghĩa đến hành động qua sự nhận thức trong công thức chung: Nội dung đến mã hiệu rồi biểu hiện. Hệ thống diễn đạt của đèn đường thông dụng hầu như khắp thế giới, điều đó có nghĩa, Systemic Functional Linguistics có hiệu quả rất phổ thông.

 Áp dụng sơ đồ đèn đường vào ngôn ngữ, cho thấy:

 KyHieuHoc Phan8 Anh2 NguYen

Dĩ nhiên trong từ vựng học sẽ phức tạp hơn hệ thống đèn đường. Ngôn từ còn có thể mã hiệu (code) bởi âm thanh lúc nói. Đa phần âm thanh sẽ xác định tâm tư của người sử dụng. Cũng một tiếng gọi "Anh ơi", từ một người phụ nữ, mà có khi nghe cảm xúc đê mê, có khi phải làm thinh hoặc bỏ chạy.

 Ngoài âm thanh, còn cử chỉ thân xác đính kèm theo ngôn ngữ. Liếc mắt đưa tình mà miệng nói ngược lại. "Hân hạnh được gặp ông" mà bắt tay hờ hững. "Chúng ta cần xây dựng quê hương" mà thọc tay túi quần.....Ký hiệu ngôn ngữ là ký hiệu phức tạp nhất trong các loại ký hiệu vì ngoài nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa ám chỉ còn nghĩa ngầm, nghĩa ngoài ký hiệu, nghĩa của hoàn cảnh.

 Đưa vào một công thức chung:

 KyHieuHoc Phan8 Anh3 NguYen

Công thức chung chẳng những là sự phát sinh dây chuyền và tất yếu vì nhu cầu trong các bộ môn chuyên biệt hoặc các cấp bậc ngôn ngữ đặc thù, công thức chung còn có vị trí quan trọng trong văn bản văn chương; thường thấy xuất hiện trong những câu trích ngôn (quote) hoặc ca dao tục ngữ, ví dụ:

Ăn cây nào rào cây nấy.

Con sâu làm rầu nồi canh.

 Nhất là trong thơ, những câu thơ này thường phát sinh từ trực giác có dề dày và bề sâu của kinh nghiệm. Thơ đến từ cảm xúc và từ trí tuệ. Trí tuệ thể hiện qua tư tưởng, cảm xúc thể hiện qua kinh nghiệm. Không có kinh nghiệm trong tứ thơ, ngôn ngữ chỉ là những ngữ cảnh giả tạo. Còn sáng tạo, thể hiện ở đâu? Ở tứ và ngôn ngữ thơ. Trực giác là sinh lực quan trọng bậc nhất cho thơ. Qua nó, sáng tạo sáng lên như sấm chớp. Qua nó, tứ và ảnh xuất hiện thần kỳ. Qua nó, cá tính đóng dấu và ký tên. Qua nó, ngôn từ nói lên tài hoa, tài năng của tác giả. Ví dụ,

 “người ta có thể đổi màu như kỳ nhông
từ hồng lãng mạn sang nâu hiện thực
hay sặc sỡ thời trang chủ nghĩa
Trong trường hợp nào cũng không nên ăn bã mía
nhả ra từ những kẻ rụng răng”

 (Trích: Ở Nhà Mùa Hè Với Chiếc Remote Control, Phan Nhiên Hạo.)

 " Người ta có thể đổi màu như kỳ nhông" và "Không nên ăn bã mía nhả ra từ những kẻ rụng răng," là những câu mang ý nghĩa chung, làm cho bài thơ có sức sống lâu dài.

 Câu và Mệnh Đề

 Trong khi đa số những phương pháp phân tích ngôn ngữ chú trọng đến đơn vị "câu" trong văn bản, HTCNNN chú trọng đến "mệnh đề". Một trong những cống hiến nổi bật của M.A.K. Halliday là chức năng của văn phạm. Trong tác phẩm A Introduction to Functional Grammar của ông, chẳng những để lại những kết quả hữu hiệu của chức năng văn phạm tây phương, còn cho cả thế giới những khái niệm về chức năng này, cho dù khác hệ thống văn phạm như ngôn ngữ Trung Hoa, ngôn ngữ Phạn.

 Trong chương, The Architecture of Language, Kiến Trúc Ngôn Ngữ, ông cho rằng ngôn ngữ trao đổi giữa người và người, giữa người và tương hệ xã hội là do diễn trình của lời nói/chữ viết được xây dựng theo luật lệ, quy tắc chung của hệ thống ngôn ngữ của một dân tộc. Vị trí văn bản viết rất quan trọng đối với nhân loại vì trí nhớ và hồi ức sẽ bị lãng quên và sai lầm, trong khi văn bản sẽ tồn tại lâu dài hơn.

 Do đó, chức năng văn phạm là chức năng đầu tiên và căn bản của diễn đạt. Văn viết của người Việt hiện nay có cơ bản đồng dạng với văn phạm tây phương, nhất là văn phạm của Pháp, nhưng qua thời gian dài, không có cơ quan chủ động như Hàn Lâm Viện, đã khiến văn phạm của người Việt tự biến, tự diễn và tự chế.

 Theo các nhà tư tưởng về Hệ Thống Chức Năng Ngôn Ngữ, mệnh đề là cấu trúc và diễn trình ngắn nhất, đơn giản nhất của văn phạm để mang ý nghĩa diễn tả. Cách sử dụng mệnh đề sẽ tạo ra phong thái (style) và sắc điệu (tone) của văn bản.

 Dùng mệnh đề rõ tạo văn bản dễ theo dõi; mệnh đề ngắn tạo văn bản sáng; mệnh đề đều tạo văn bản có nhịp điệu, ví dụ:

 Đen đúa. Sần sùi. Không đáng một xu

 Vụt gốc xoài, quạ không thèm mổ

 Quăng tận ổ, kiến không thèm bu

 Phơi giữa trại tù, kẻ thù không ngó

 Đó là một trong hai hòn đá cổ sơ

 Chỉ có em và tôi cất giữ

 Rời nhau ra. Lặng lẽ. Dư thừa

 Hợp đôi lại, chúng làm ra lửa

 [...]

 (Trích Hòn Đá Làm Ra Lửa. Trần Dạ Từ)

 Dùng mệnh đề dài, nhiều mệnh đề phụ, tạo văn bản phức tạp, thường khi khó theo dõi và phai nhạt tiết tấu. Thơ sử dụng mệnh đề dài, câu dài với mục đích chuyên chớ những ý tưởng và cảm xúc không chứa được trong ít chữ. Đó cũng là một trong những lý do thơ sử dụng tượng trưng, ẩn dụ, biểu tượng để tránh sự dông dài. Sử dụng những mệnh đề dài, những câu phức tạp trong thơ đòi hỏi bản lãnh của thi sĩ, ví dụ:

 Chúng tôi đã từng là một chủng tộc rất cao lớn, thân xác chúng tôi vượt quá cỡ những chiếc quan tài của chúng tôi.

 Không biết bao lâu mới có thể trồng được một trong những cỗ quan tài đẹp đẽ này. Cần rất nhiều nước, nắng, phân bón để mỗi cỗ quan tài trưởng thành.

 Ngay cả cỗ quan tài nhỏ nhất cũng có người mua. Những cỗ quan tài hình dáng kỳ cục nhất cũng có người lựa chọn.

 Cỗ quan tài vừa cho hai người: một cặp vợ chồng, kẻ trên người dưới. Cỗ quan tài này thì vừa cho ba người.

 Mặc dù không phải là hiếm, những cỗ quan tài hồng vẫn rất có giá trị. Bọn ăn trộm quan tài luôn nhổ bật chúng lên vào lúc nửa đêm.

 ( Ở Vườn Trồng Quan tài. Đinh Linh. Ngọc Hải dịch.)

 Thứ tự trong cấu trúc của văn bản:

 Từ / cụm từ / mệnh đề / câu / đoạn / bài /

 chương / phần / bộ / sách.

 Cấu trúc của văn bản không chỉ thể hiện qua những ngôn ngữ, ngôn từ cụ thể mà còn bao gồm những ngôn ngữ vắng mặt, được hiểu ngầm theo quy luật văn phạm, quy luật bất thành văn hoặc theo mạch văn riêng của tác giả.

 Độc đáo nhất của văn bản chính là chất sắc điệu của diễn tiến. Mỗi tác giả thành danh thường có mỗi cách trình bày diễn tiến riêng tạo ra chất sắc điệu riêng của họ. Chất này đậm đặc như thơ Bùi Giáng, văn Mai Thảo. Chất này loãng thì văn chương tiếp cận với đồng phục. Chất này keo đặc thì văn chương khó hiểu và xa lánh người đọc. Sự cân bằng và mức độ cân bằng trong chất sắc điệu là điểm quan yếu mà mỗi người viết phải tự chọn lựa.

 Khái Niệm Phân Tích Phê Bình Nói và Viết, Critical Discourse Analysis.

 Khởi đầu có mục tiêu tìm hiểu về xã hội và chính trị trên ký hiệu diễn đạt. phát từ lý thuyết phê bình của trường phái Frankfurt trước Đệ Nhị Thế Chiến; Sau lan rộng sang ngôn ngữ và qua thập niên 1980 đã hiện diện trong xã hội học, tâm lý học, và một số khoa học nhân văn khác.

 Khái niệm này nhắm vào phương thức (mode) tiếp cận ký hiệu trong phân tích và phê bình. Hữu dụng để phân tích truyện, hùng biện, xã hội học và dân tộc học...

 Trong phạm vi bài viết, CDA (Critical Discourse Analysis) nhắm vào sự tự nhiên và đương nhiên tương phản giữa nói/viết và xã hội. Nói một cách khác, diễn tiến ngôn từ và ngôn ngữ đối với cấu trúc của xã hội là mục tiêu của CDA. Điểm nhấn: Ngôn ngữ chính là hành động biểu lộ của xã hội.

 Về bản chất này, câu hỏi được nêu ra, văn chương là hành động biểu lộ của xã hội hay là sự phản ảnh xã hội? Thơ văn là hành động biểu lộ của độc giả (do tác giả đại diện) hoặc là sự phản ảnh của độc giả đối với xã hội? Sự tương quan giữa văn chương và xã hội cho thấy ngày nay hai sự thể thực tế này gắn bó với nhau, liệu tác giả có gắn bó với độc giả?

 Nếu sự sử dụng ngôn ngữ để tương tác thuộc về trật tự tiểu mô trong xã hội; còn quyền lực, thống trị, bất bình đẳng của xã hội là trật tự vĩ mô, thì giá trị văn chương làm sao lớn hơn giá trị xã hội? Nhưng thực tế chứng minh văn chương sống lâu hơn xã hội.

 Khó có thể tách rời ảnh hưởng tất yếu của xã hội trong văn chương. Và nếu văn chương không phục vụ cho xã hội, e rằng không còn bao nhiêu độc giả và một hôm nào sẽ biến mất. Chính xã hội đã nuôi sống văn chương và nghệ thuật cao cấp nuôi văn chương sống bất tử. Hai phương diện này không cần sự cân bằng mà cần sự dung nhập để viết một thành hai.

 Phân Tích Bài Thơ "Đi Dạo " của Rainer Maria Rilke (18)

 Mắt trông thấy ngọn đồi đầy nắng.

 dù còn xa đường mới khởi hành.

 Đã nắm được những gì không thể bắt;

 đồi phát quang đến tận khoảng xa

 chạm đến ta dù ta không thể đến,

 nó hóa thân dường như khó nhận ra,

 đã cảm thấy, làn sóng rung âm điệu

 nối trả lời âm điệu sóng trong ta...

 nhưng có lẽ chỉ gió vờn trên mặt

 (Từ bản dịch Anh Ngữ bởi Robert Bly.)

 Những câu thơ chính để tạo bài thơ:

 Mắt trông thấy ngọn đồi đầy nắng.

 Đã nắm được những gì không thể bắt;

 đồi phát quang đến tận khoảng xa

 chạm đến ta dù ta không thể đến,

 đã cảm thấy, làn sóng rung âm điệu

 nhưng có lẽ chỉ gió vờn trên mặt.

 Rút ngắn thành những mệnh đề đơn giản:

 Mắt thấy đồi nắng

 nắm những gì không thể bắt

 đồi phát quang

 chạm đến ta

 cảm sóng âm điệu

 chỉ gió vờn.

 Càng đơn giản hóa bài thơ chừng nào càng dễ nắm bắt ý tác giả chừng nấy. Miễn đừng cắt mất những tứ và ý chính tạo dựng bài thơ.

 Bài thơ nói lên tâm cảnh của tác giả trong một lần đi dạo đến một ngọn đồi. Từ đàng xa ông đã thấy nắng trên đồi và tưởng tượng ngọn đồi tự phát ra ánh sáng, chạm đến ông, cho dù ông đi mà có khi không đến. Từ tưởng tượng đó, cảm giác siêu nhiên hiện hình, ông thấy mình nối kết, thông giao, tình tự với ngọn đồi. Làn sóng giữa người và ngọn đồi bắt lấy nhau cho dù thực tế chỉ là làn gió mát.

 Thi sĩ Rainer Maria Rilke là gạch nối giữa thời cổ điển và thời hiện đại, với nét đặc thù của một tâm hồn nhạy cảm trong tâm sự bi quan. Chính những tưởng tượng của ông đã mang thơ ông ra khỏi hiện thực và bày tỏ những ước mơ và khát vọng giao tiếp với sự vật chung quanh. Dĩ nhiên, phong cách diễn đạt trữ tình của ông đã dẫn vào trường phái thơ Lãng Mạn về sau.

 Ngu Yên

=====================================

 Ghi:

 (17) Những sơ đồ từ " An Introduction to Systemic Functional Linguistics" của Suzanne Eggins, đã được vẽ lại và chú thích tiếng Việt.

 (18)

 A Walk

 My eyes already touch the sunny hill.

 going far ahead of the road I have begun.

 So we are grasped by what we cannot grasp;

 it has its inner light, even from a distance

 and charges us, even if we do not reach it,

 into something else, which, hardly sensing it,

 we already are; a gesture waves us on

 answering our own wave...

 but what we feel is the wind in our faces.

 Rainer Maria Rilke (1875-1926) Robert Bly dịch.

 Tài liệu này tuy trích trong An Application of Systemic Functional Grammar on Rilke's poem, 'A Walk'. by Mubarak Ali Lashari và Faraz Ali Bughio. University of Sindh, Jamshoro. Tuy nhiên hai tác giả trên đã phân tích bài thơ bằng văn phạm trên bản dịch tiếng Anh của Robert Bly, thiển nghĩ khó chính xác vì thơ của Rilke thường viết bằng tiếng Đức và đôi khi bằng tiếng Pháp; nên phần phân tích văn phạm đã không được sử dụng. Thay thế bằng phân tích đơn giản hóa văn bản.