Buông Thả Hoặc Cẩn Trọng?
Bài Thơ Cảm Động Không Sướt Mướt
Mẹ ơi,
Tại sao dòng sông cười?
Sao hả, vì mặt trời thọc lét dòng sông.
Mẹ ơi,
Tại sao dòng sông hát?
Vì chim Chiền Chiện khen ngợi tiếng sông.
Mẹ ơi,
Tại sao dòng sông lạnh?
Vì sông nhớ có lần yêu tuyết rơi.
Mẹ ơi,
Sông mấy tuổi?
Sông bằng tuổi mùa xuân mãi mãi không già.
Mẹ ơi,
Tại sao sông không bao giờ dừng lại?
Ừ, con biết không bởi vì mẹ biển cả
đang chờ dòng sông con trở về nhà.
Xem phim tình cảm Đại Hàn, vai chính vai phụ khóc sướt mướt, nhiều khi lòng cảm thấy khôi hài. Xem phim Mỹ, đầy cảnh ngộ mà ít nước mắt. Đôi khi màn ảnh khô ráo mà cảm động khiến vợ tôi rơi lệ. Thơ cũng không khác gì phim. Nghệ thuật tuy nhiều khía cạnh nhưng lòng người chỉ có cảm động. Cảm động vì ngoại cảnh. Cảm động từ nội tâm. Giá trị thơ là cảm xúc nội tâm. Không ở nơi ngoại cảnh hời hợt. Người làm thơ chủ dùng ý tứ chữ nghĩa ngoại cảnh để "kích động" lòng người là việc lầm lẫn. Như nghệ thuật sân khấu cải lương, Thanh Nga Thành Được khóc sướt mướt chỉ làm rơi lệ khán giả đa cảm. Trong vở kịch Thành Cát Tư Hãn của Vũ Khắc Khoan, khi nhân vật Sơn Ca tự móc mắt mình, gây biết bao là rúng động cho người xem. Không phải vì cảnh móc mắt mà vì giá trị của sự móc mắt.
Những ngoại cảnh xây dựng trong thơ dùng để dẫn cảm xúc lên cao độ hoặc vào tâm điểm, chỉ cần diễn tả đủ không nên kéo dài như phim bộ: Xen vào quá nhiều những cảnh, những pha không cần thiết để trám thời giờ. Gây nhàm chán cho người xem. Rồi vào phút cuối, gấp quá, cho chết hết. Những ngoại cảnh này có thật hay không, không quan trọng. Vai trò của ngoại cảnh này để đào sâu, tô đậm, giải thích không lời hoặc tượng trưng những sinh hoạt trong bài thơ.
Đa số thơ Việt từ thời ảnh hưởng phong trào Lãng Mạn của Pháp trở thành đa cảm. Lấy rung động làm lực sáng tác và dùng cảm xúc thúc đẩy chữ nghĩa vào bài thơ. Mãi cho đến hôm nay, ngày 31 tháng 12 năm 2013, ngày cuối năm, dòng thơ đa cảm vẫn tồn tại và vẫn được hoan nghinh khắp báo chí, trang mạng và người đọc. Phải chăng vì người Việt đa sầu đa cảm hoặc vì sáng tác và thưởng ngoạn không chấp nhận những thứ gì ra khỏi phạm vi của cảm xúc lãng mạn? Dĩ nhiên, chúng ta đang nhìn về đa số.
Vì cảm xúc lấn áp tâm tư và "chọn" chữ nghĩa ý tứ sáng tác thơ nên thơ thường hời hợt. Người đang buồn than khóc thì khó suy tư điều gì thâm trầm, khó nhận lấy ý tưởng nào khác hơn là vật vã với niềm đau. Sáng tác chăm chú theo cảm xúc khi cuồn cuộn khi phiêu bồng, trong cơn miên mang như vậy, làm gì có cơ hội đào sâu ý tứ thơ.
Vì cảm xúc bị giới hạn bởi những tâm sự thông thường, những tình cảm lập lại, những tình huống xã hội ... nên khi cảm xúc chủ động sáng tác thường bị nhai lại, tự mình bắt chước mình hoặc bắt chước người khác. Do đó, thơ thường giống nhau, khác chăng là chi tiết phong cảnh, tâm tư, tên gọi...và tên tác giả.
Cảm xúc rất cần cho sáng tác nghệ thuật nhưng không phải là động lực duy nhất và mạnh nhất của sáng tạo.
Tanikawa dựng ngoại cảnh với nhiều chi tiết nhỏ nhặt trong bài thơ Hình Ảnh Gia Đình, cho người đọc "nhìn" ra được màu sắc, ánh sáng, tâm trạng và không khí của các biểu tượng, hình ảnh sinh hoạt với nhau.
Đựng đầy nước
Chiếc bình sành
Thức ăn cháo để trước
Muỗng gỗ
Rượu trái Quất
Tất cả sắp trên
Chiếc bàn lớn,
Người đàn ông
Mặc áo vải thô
Tư thế ngồi
Đôi tay rắn chắc
Râu quai tua tủa
Mắt nhìn đăm đăm
Hướng về
Phía mãi âm u.
Người đàn bà
Ngực đầy đặn
Quấn tóc
Đặt tay trìu mến
Trên vai người đàn ông.
Cậu bé
Lông mi cong
dính bụi bẩn
Như thể bất ngờ
quay nhìn lại.
Người lớn
Trong hình treo tường
Bên cạnh tấm lịch
Chờ đợi dịu dàng
Con chó như gấu
Ngáp bên ngưỡng cửa.
Trên bàn thờ đơn sơ
Một ngọn đèn mờ tỏ
Đêm dài lắng yên
Bình minh khởi sáng.
Thơ của Tanikawa: Chữ đơn giản. Ý phức tạp, ngâm dài chiều sâu. Tứ bình thường được tuyển chọn kỹ từ những tầm thường chung quanh đời sống. Sinh hoạt của các yếu tố này, mới là ưu điểm của Tanikawa. Đa số những sinh hoạt trong thơ ông dường như thấy sao nói vậy nhưng không phải. Ông rất khéo léo bình thường hóa sinh hoạt giữa hình ảnh, ý tứ để gửi gấm những suy tư về đời sống và nội tâm. Mới đọc thoáng qua dễ có cảm giác như ông tả cảnh nhưng đọc lại đôi lần sẽ thấy tác dụng những cảnh trí trong dạng tượng trưng hoặc trừu tượng. Những điều tác giả muốn chia xẻ, không ở trong bài thơ. Đúng truyền thống của thơ Nhật, chữ và tứ chỉ là những chiếc cầu để băng qua, tiến vào một nơi khác. Nơi thơ thật sự đang chờ đợi.
Đúng đắn hơn, thơ khác văn ở chỗ không cưu mang nội dung "dài" trong bài thơ. Nội dung của bài thơ chỉ là những gì cần thiết, một khung nét đại cương hoặc một sinh hoạt tượng trưng hoặc một đề "toán" tâm tư hoặc là những thứ gì bằng chữ, bằng ảnh, bằng tứ, bằng ý mà qua đó trình bày một nội dung sâu sắc hơn đồ sộ hơn, trí tuệ hơn, tâm tình hơn. Thi sĩ Octavio Paz đã từng bàn luận về chuyện lột củ hành. Lột củ hành để tìm hiểu cái gì ở trong lõi, sẽ chẳng thấy gì. Nhưng chăc chắn bị cay mắt, chảy nước mắt, xổ mũi. Người đọc bị cay mắt xổ mũi không phải vì hời hợt cảm nhận những lời thơ hời hợt mà vì lột nhiều lớp võ của bài thơ. Càng lột càng thấm thía, càng mắt cay, càng ách-xì.
Nỗi Buồn
Nỗi buồn
Nửa trái táo lột võ
Không phải ẩn dụ
Không phải thơ
Chỉ đơn thuần, có đó
Nửa trái táo lột võ
Nỗi buồn
Đơn thuần, có đó
Nhật báo chiều hôm qua
Đơn thuần có đó
Đơn thuần có đó
Vú nàng ấm nồng
Đơn thuần có đó
Đêm xuống
Nỗi buồn
Xa rời chữ nghĩa
Xa rời con tim
Đơn thuần có đó
Những chuyện hôm nay
Hãy bước lên trang mạng: http://www.poetryinternationalweb.net/pi/site/poet/item/21377/Shuntaro-Tanikawa
đọc những bài thơ của ShuntaroTanikawa.
Hãy quên đi huyền thoại: "...Có khốn khó thì thơ mới hay..." Điều này đã khiến biết bao nhiêu người làm thơ tự tạo cho mình những đau đớn không cần thiết, những máu chảy đỏ bằng phẩm, những nỗi buồn gượng gạo hoặc bắt chước chung chung. Không có nỗi buồn nào giống nỗi buồn nào, cho dù cùng một người. Người thường, thấy buồn giống nhau. Thi sĩ, thấy buồn khác nhau.Mỗi nỗi buồn có tên riêng, có tuổi riêng, chân dung hình hài riêng. Người xưa nói về thi ca, của trời trăng gió kho vô tận. Đúng là như vậy nhưng khi lấy vào tay mình, nhất định phải là của riêng.
Nhiều khốn khó, tệ hơn khốn khó, chưa chắc thơ đã hay, huấn chi là giả khốn khó.
Tanikawa gửi đến người đọc một bài thơ của một người không có khốn khó, đang có vừa đủ, có hơn một chút và không có gì để viết. Vậy mà có biết bao nhiêu điều kéo theo cái không viết, từ Toba 1 đến Toba 7...
Toba 1
Tôi không có gì để viết
Hình hài tôi vừa đủ dưới mặt trời
Vợ tôi rất đẹp
Con tôi mạnh khỏe
Nói thật với bạn
Tôi không phải thi sĩ
Chỉ giả dạng làm thơ
Tôi được sinh ra rồi bỏ đó
Hãy xem, mặt trời đổ nắng xuống đá cuội
khiến đại dương nhìn thấy đậm hơn
Ngoài sự tĩnh lặng lúc trưa trong ngày
Tôi không có gì để nói
cho dù bạn đang đổ máu vì quê hương
A, hào quang này mới là vĩnh cửu!
Toba 2
Tôi không muốn biến lúc này nên bất tử
Được như bây giờ cũng tốt thôi
Cho dù biết cách bắt giữ thời gian thoáng chốc
Mặt trời vẫn tiếp tục về tây
Chữ nghĩa đơn thuần
viết trên cát
không bằng ngón tay
bằng trái tim hân hoan nhanh chóng đổi thành ảm đạm
Những đứa con giống tôi
Những đứa con không giống tôi
đều làm tôi vui sướng
Lẫn lộn theo võ ốc, đá cuội và mẻ chai
Tim tôi rơi lại hành tinh bên bờ biển
vừa cứng rắn lại vừa dễ tổn thương
Toba 3
Bà cụ tìm kiếm trên bãi cát lượm những cây khô
Từ cửa sồ khách sạn nhìn ra cảnh chân trời
Hỡi những ai đang sống đói khổ
Cứ thẳng tay nguyền rủa tôi
Tôi luôn luôn sống ấm no
Ngay cả bây giờ tôi thừa mứa
Tối thiểu tôi muốn được các người căm hờn
Bà cụ, lời vừa nói giúp được gì cho bà?
Tôi không muốn đền bù thêm gì nữa
Điều làm tôi khó chịu là những gì bà có trong tay
cảnh chân trời bà không chịu ngắm
Tôi nghe tiếng nhạc So-na của Clementi (1) nhè nhẹ
Không ai chuyện trò
Thật thoải mái quá
GHI:
(1) Muzio Clementi (24-1-1752 đến 10-3-1832). Nhạc sư người Ý. Từng thi nhạc với danh sư Mozart cùng thời tại Holy Roman Emperor Joseph 2 vào ngày 24 tháng 12 năm 1781. Được hoàng đế chấm ngang nhau.
Toba 6
Biển -
dù chỉ một chữ thôi cũng chứa đựng giả dối
Nhưng tôi nhất định nói chữ này
đối diện với sóng dâng cao trước khi bão tố
Biển!
Rồi tôi lặng tiếng
Chìm vào bóng đêm, vợ tôi,
duỗi cánh tay rám nắng
Hình hài em không cần ẩn dụ
môi khoá chặt môi
mồ hôi trơn trợt
Rồi chúng tôi rên rỉ
Lúc này tiếng rên ấm ức ngọt ngào
bên tai kích thích, thân thiện hơn biển
Toba 7
Với miệng tôi bực bội ngậm lại
lần nữa bất công với lời nói
Trong khi tự ngược đãi
Tôi nghe thủy triều lên trong đêm
Tôi viết:
tất cả thi ca là chữ trống không
rồi tôi tiếp tục viết
Bất ngờ con gái thức dậy nửa đêm
Khóc thút thít một hồi
Tôi muốn được nói thật
Dù người lính hấp hối cũng không thành thật
Tàn thuốc lá rớt trên bắp vế
Tôi không còn mộng mơ
tuy nhiên rất buồn ngủ
Đọc những bài thơ Toba của Tanikawa, nhận ra được sự kềm chế cảm xúc của ông trong chữ nghĩa. Có cảm giác như một võ sĩ Samurai đang ghìm thanh gươm, cẩn trọng trước khi xuất chiêu. Và mỗi thế đánh đều chuẩn định. Vừa đủ chết. Không cạn quá để đối thủ còn sức phản công. Không sâu quá kẻo gươm bị dính vào xác thù, vướng vít.
Những điều rất nhỏ nhặt tầm thường được lồng vào một khung nhân bản lớn. Những quen thuộc thường hằn được dàn dựng để phản ảnh ba chiều, bốn chiều của sự việc mâu thuẫn trong đời sống. Không có điều gì to tát trong thơ Tanikawa nhưng đều đều những lưu lượng dòng thơ chảy qua cảm nhận cho cảm tưởng thú vị và đồng ý.
Cảm xúc là điều cần thiết trong thơ nhưng lợi dụng chữ nghĩa để cảm động người đọc, thuyết phục người đọc đa cảm là chuyện sai lầm. Giá trị của thơ không phải là tạo ra phản ứng vui buồn, cho dù phản ứng vui buồn là kết quả của đọc thơ. Giá trị của thơ là tạo ra cái "hơn" của giá trị đã có trong lòng độc giả, cao hơn nữa là tạo ra cái "hơn" của giá trị đang có, đang được nhìn nhận trong thời đại. Chữ hơn dùng ở đây có nghĩa đẹp hơn, hay hơn, giá trị hơn...
Thơ Việt trước thời thơ Lãng Mạn, đa số là những bài thơ cẩn trọng với cảm xúc. Thơ Đường, Thơ Hài Cú, cẩn trọng với cảm xúc và đa số thơ thế giới hôm nay, cẩn trọng với cảm xúc...
Thi sĩ Shuntaro Tanikawa đến hôm nay đã là thi sĩ đương đại của Nhật bản. Ông được thế giới tìm đọc và thơ ông vẫn như một võ sĩ samurai cầm viết.
______________________________________________________________________________
Shuntaro Tanikawa
Sinh 1931 tại Tokyo, Nhật.
Thi sĩ và dịch giả. Giải American Book năm 1989. Gồm có hơn 60 tác phẩm về thi ca.
______________________________________________________________________________
River
Mother,
Why is the river laughing?
Why, because the sun is tickling the river.
Mother,
Why is the river singing?
Because the skylark praised the river's voice.
Mother,
Why is the river cold?
It remembers being once loved by the snow.
Mother,
How old is the river?
It's the same age as the forever young springtime.
Mother,
Why does the river never rest?
Well, you see it's because the mother sea
is waiting for the river to come home.
( River. Thơ của Shuntaro Tanikawa. Nhật Bản. Dịch bởi Harold Wright. Trích trong The Vintage Book Of Contemporary World Poetry. Edited bởi J.D. McClatchy. Vintage Book, New York.)
Family Portrait
Filled with water
There's a jar
Eating of gruel begins
Wooden spoons
Berry wine
All is supported
By a heavy table,
There's a man
Wearing coarse cloth
Sitting
Strong arms
Fierce beard
Eyes fixed
In a gaze
At a filed still dark.
There's a woman
Large breasts
Coiled-up-hair
Hot hands
On the man's shoulders.
There's a child
His curved brow
Smeared with dirt
As if surprised
He turns around.
The old people
In the picture on the wall
Beside a calendar
Are gently waiting
A dog like a bear
Yawns by the door.
At a simple altar
A flame is glowing
The night is quietly
Beginning to dawn.
(Trích cùng sách. Dịch bởi Harold Wright.)
Sadness
Sadness
A half-peeled apple
Not a metaphor
Not a poem
Merely there
A half-peeled apple
Sadness
Merrely there
Yesterday's evening paper
merely there
Merely there
A warm breast
Merely there
Nightfall
Sadness
Apart from words
Apart from heart
Merely there
The things of today
( Trích cùng sách. Dịch bởi Harold Wright )
Toba 1
I have nothing to write about
My flesh is bared to the sun
My wife is beautiful
My children are healthy
Let me tell you the truth
I am not a poet
I just pretend to be one
I was created, and left here
Look, the sun cascades among the boulders
making the sea look darker
Other than this quiet at the height of the day
I have nothing I want to tell you about
even if you are bleeding in your country
Ah, this everlasting radiance!
Toba 2
I don’t want to make this moment eternal
It is fine to own this moment just as it is
Even I have a way to seize a transient moment
The sun is already moving on
These words are merely
written on the sand
not with my fingers
but with my cheerful heart that shifts quickly to gloom
My children look like me
My children don’t look like me
Either way it pleases me
Along with sea shells, pebbles and pieces of broken bottles
my heart is left at the water’s edge of a planet
just as hard and vulnerable
Toba 3
The old woman is looking at the sand as she gathers brushwood
I am looking at the horizon from my hotel window
You, who have lived through hunger,
please go ahead and torture me
I have always lived with my belly full
Even now I am belching
The least I can wish is to deserve your hatred
Old woman, what could my words do for you?
I do not wish to atone for anything any more
What strangles me is what you have in your hand
the horizon you will not look at
I hear Clementi’s sonatina faintly
No one speaks to me
What deep comfort
Toba 6
Sea –
even this single word contains deceit
But I insist on saying it
facing the waves rising before a storm
Sea! . . .
then I am left speechless
Into this darkness, my wife,
stretch out your suntanned arms
Your body needs no metaphors
a mouth sealing a mouth
scentless sweat sliding
But we groan
The groan is now a sweet murmur
to my heated ear, closer than the sea
Toba 7
With my sulky mouth shut
again I am unjust to words
As my punishment
I hear the ocean tide through the night
I write:
all poetry is empty words
and I continue writing
My child wakes up suddenly in the middle of the night
she sobs quite a while
I want to be honest
Even a dying soldier is not honest
My cigarette ashes fall on my lap
I will not dream now
though I am so sleepy
© 1968, Shuntaro Tanikawa
From: Tabi (Journey)
Publisher: Kyuryudo, Tokyo, 1968
© Translation: 2011, Takako Lento
From: The Art of Being Alone: Poems 1952–2009
Publisher: Cornell Univ. East Asia Program, 2011, 978-1933947570