"Ta muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém cá tràng-kình ở Biển Đông, quét sạch bờ-cõi để cứu dân ra khỏi nơi đắm-đuối chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu, cong lưng làm tỳ-thiếp cho người ta." ** Triệu Thị Trinh **

 

 hvhien --- tws1

William Butler Yeats

W.B. Yeats: Mùa Thu, Thiên Nga và Thi Nhân

 

W. B. Yeats (1865-1939) là một thi sĩ, chính trị gia, kịch tác gia Ireland (hay Ái nhĩ lan). Trước năm 1922, toàn bộ Ireland còn là thành phần của Kingdom of Great Britain and Ireland. Ông đoạt giải Nobel văn chương năm 1923. Lý do ông được trao tặng giải Nobel thi ca: "vì thi ca luôn luôn đầy cảm hứng của ông, thực hiện trong hình thức nghệ thuật cao độ, đem đến sự biểu hiện của tinh thần cả một dân tộc [Ireland]".(1)

Ông sinh ra ở Dublin, thủ phủ và thành phố lớn nhất bên bờ biển phía đông của Ireland; cha là luật sư kiêm hoạ sĩ chân dung nổi tiếng. Ông học ở London, trung tâm điểm của đế quốc Anh và Dublin, thủ đô của Ireland, nhưng nghỉ hè ở nhà nghỉ mát gia đình ở vùng Connaught, miền tây Ireland. Anh em ông lúc thiếu thời sống trong trào lưu xã hội "cuối thế kỷ " ("fin de siècle”) của London, giai đoạn cuối thế kỷ thứ 19 ở châu Âu, với tư tưởng bi quan, chán chường, “cynicism”, cho rằng văn minh dẫn đến sa đoạ, và trong chính trị nghi ngờ các giá trị dân chủ tự do, tư sản. Tuy nhiên ông vẫn hăng say hoạt động tích cực trong những hội văn chương đang cố gắng phục hồi nền văn chương riêng của Ireland, với niềm tin đoàn kết và thống nhất văn hoá sẽ là nền tản chung cho một quôc gia Ireland đang đòi độc lập.

Tập thơ đầu tay của ông xuất hiện năm 1887. Cùng với Lady Gregory, ông sáng lập Nhà hát Ái Nhĩ Lan (Irish Theater, sau này đổi thành Abbey Theater) và ông là nhà viết kịch chính (cho đến khi John Synge tham gia vào phong trào). Các kịch bản của ông lấy đề tài về những huyền thoại của Ireland, phản ảnh sự say mê của tác giả đối với lãnh vực thần bí và tâm linh, và điều này nay ít được nhắc tới. Ông hoạt động tích cực trong một số hội "khoa học huyền bí", như Hermetic Order of the Golden Dawn, liên hệ tới các môn tử vi bói toán, bói bài, phong thuỷ địa lý (theo lối tây phương, geomancy). Yeats công nhận rằng nghiên cứu về các ngành huyển bí cần thiết cho sự sáng tác của ông. Ông tham dự các buổi cầu hồn, cầu cơ và bị lôi cuốn vào những tín ngưỡng huyền bí của Ấn giáo. Tuy nhiên ông vẫn cho mình sinh ra là tín đồ Thiên Chúa giáo, không bao giờ nghi ngờ sự hiện hữu của linh hồn và của Chúa.

Sự nghiệp của ông gồm những tác phẩm nổi tiếng sau đây:

1)The Countess Cathleen (1892). Kịch thơ; nhân vật chính, Nữ Bá tước Cathleen, bán linh hồn cho quỷ để cứu đám tá điền của mình, để họ khỏi phải bán linh hồn của chính họ hầu thoát khỏi nghèo khó. Nhờ hy sinh như vậy mà linh hồn bà bá tước được cứu rỗi sau này..

2)The Land of Heart’s Desire (1894). Kịch thơ, về một bé gái từ cỏi tiên cố gắng thuyết phục một cặp vợ chồng trẻ từ bỏ sự phù du của trần gian để qua "vùng đất con tim mong ước", ở đó niềm vui là sự khôn ngoan ('joy is wisdom') và nhan sắc không bao giờ tàn phai.

3) Cathleen ni Houlihan (viết chung với Lady Gregory, 1902). Cathleen ni Houlihan là biểu tượng của dân tộc Ireland, thúc dục hai vợ chồng trẻ mới cưới tranh đấu và hy sinh cho dân tộc của họ thoát ách đô hộ của người Anh. Chuyện xoay quanh cuộc cách mạng năm 1798 của người Irish muốn độc lập.

4) The King’s Threshold (viết chung với Lady Gregory, 1904). " Thềm cửa nhà vua", dựa trên một huyền thoại Ái nhĩ lan. Seanchan là nhà thơ (bard) bị nhà vua từ chối không cho tham dự triều đình. Ông ta tuyệt thực đến chết trước ngưỡng cửa triều đình. Câu chuyện nêu lên vai trò cần thiết của nghệ thuật trong đời sống đất nước, cũng như nghệ thuật vượt qua khỏi các ràng buộc và ranh giới chính trị.

5) Deirdre (1907). Viết về sự tích của nhân vật nổi tiếng nhất huyền thoại Ái nhĩ lan. Deirdre là con gái của người kể chuyện của nhà vua. Trước khi ra đời, pháp sư triều đình đã tiên đoán cô sẽ rất đẹp, nhưng vua chúa cũng như người lực sẽ tranh dành người đẹp và máu sẽ đổ, nhiều anh hùng sẽ bị lưu đày. Nhiều người khuyên nên giết đứa bé đi, nhưng nhà vua muốn giữ lại, để chính mình hưởng nhan sắc của nó sau này. Lúc Deidre lớn lên, số mạng dẫn dắt đến những cuộc tình ngang trái, đau thương và đẩm máu như đã tiên tri.

Bài thơ sau đây, “The Wild Swans at Coole”, nói về Coole Park, nơi Yeats cùng các văn nghệ sĩ thường tụ họp tại nhà của Lady Gregory (Isabella Augusta), kịch tác gia mà cũng là người phụ nữ quyền thế tích cực trong các hoạt động kịch nghệ và phục hồi văn chương Ireland cùng với Yeats. Yeats sáng tác năm bài thơ nói về Coole Park :"The Wild Swans at Coole", "I walked among the seven woods of Coole", "In the Seven Woods", "Coole Park, 1929" , "Coole Park and Ballylee, 1931".

“The Wild Swans at Coole” viết năm 1917 lúc ông chừng 52 tuổi, những con thiên nga tượng trưng cho người yêu và nàng thơ Maud Gonne, nổi tiếng về sắc đẹp cũng như về hoạt động chính trị cho nước Ireland độc lập, đã đi lấy chồng năm 1903.(2)

Theo truyền thống châu Âu, Tiểu Á (Asia Minor), thiên nga tượng trưng cho sự tinh khiết, ánh sáng, sự dịu dàng, nhan sắc. Văn hoá Ả rập, Ấn độ cũng như Á Đông xem thiên nga như tiên nữ đến từ cỏi trên. Ngược lại, trong thời cổ đại, thiên nga tượng trương cho nam tính: những con thiên nga trắng kéo xe cho thần mặt trời Apollo. Thần Zeus đến "cặp kè" hoàng hậu Leda (mẹ nàng Helen thành Troy) dưới dạng một con thiên nga (như trong bức tranh nổi tiếng “Leda và Thiên nga” của Leonardo da Vinci). Do đó, vẻ đẹp thiên nga tráng lệ đấy sức sống cũng nhắc nhở thi sĩ đến tuổi về chiều của chính mình. (3)

 hvhien --- tws2

The Wild Swans at Coole

 

'The trees are in their autumn beauty,

 

The woodland paths are dry,

 

Under the October twilight the water

 

Mirrors a still sky;

 

Upon the brimming water among the stones

 

Are nine-and-fifty swans.

 

 

The nineteenth autumn has come upon me

 

Since I first made my count;

 

I saw, before I had well finished,

 

All suddenly mount

 

And scatter wheeling in great broken rings

 

Upon their clamorous wings.

 

 

I have looked upon those brilliant creatures,

 

And now my heart is sore.

 

All's changed since I, hearing at twilight,

 

The first time on this shore,

 

The bell-beat of their wings above my head,

 

Trod with a lighter tread.

 

 

Unwearied still, lover by lover,

 

They paddle in the cold

 

Companionable streams or climb the air;

 

Their hearts have not grown old;

 

Passion or conquest, wander where they will,

 

Attend upon them still.

 

 

But now they drift on the still water,

 

Mysterious, beautiful;

 

Among what rushes will they build,

 

By what lake's edge or pool

 

Delight men's eyes when I awake some day

 

To find they have flown away?

 

 

'The trees are in their autumn beauty,

 

The woodland paths are dry,

 

Under the October twilight the water

 

Mirrors a still sky;

 

Upon the brimming water among the stones

 

Are nine-and-fifty swans.

 

 

The nineteenth autumn has come upon me

 

Since I first made my count;

 

I saw, before I had well finished,

 

All suddenly mount

 

And scatter wheeling in great broken rings

 

Upon their clamorous wings.

 

 

I have looked upon those brilliant creatures,

 

And now my heart is sore.

 

All's changed since I, hearing at twilight,

 

The first time on this shore,

 

The bell-beat of their wings above my head,

 

Trod with a lighter tread.

 

 

Unwearied still, lover by lover,

 

They paddle in the cold

 

Companionable streams or climb the air;

 

Their hearts have not grown old;

 

Passion or conquest, wander where they will,

 

Attend upon them still.

 

 

But now they drift on the still water,

 

Mysterious, beautiful;

 

Among what rushes will they build,

 

By what lake's edge or pool

 

Delight men's eyes when I awake some day

 

To find they have flown away?

 

William Butler Yeats

 

(Độc giả có thể nghe đọc bài thơ này ở:

 

https://www.youtube.com/watch?v=wdic4rNp_gY)

 

 

Thiên nga hoang trong Công viên Coole

 

Cây khoe sắc trong mùa thu,

 

Các lối đi khắp rừng khô ráo,

 

Hoàng hôn tháng mười mặt nước

 

Phản chiếu khung trời bình yên;

 

Trên vùng nước tràn qua ghềnh đá,

 

Năm mươi chín con thiên nga.

 

 

Mười chín thu đến với ta

 

Từ ngày đếm chúng lần đầu;

 

Ta thấy đàn chim, chưa kịp đếm xong,

 

Bất chợt vụt phóng lên

 

Bay lượn lưa thưa những vòng tròn hở rộng

 

Những đôi cánh lao xao.

 

 

Ta từng ngắm những sinh vật sáng chói này,

 

Và giờ đây tim ta nhức nhối.

 

Tất cả đã đổi thay, từ buổi hoàng hôn,

 

Cũng bên bờ hồ này, lần đầu ta nghe

 

Điệu nhạc chuông cánh chim trên không,

 

Ngày đó bước ta nhanh nhẹn hơn.

 

 

Chúng bơi trong dòng nước lạnh

 

Hiền lành hay leo lên không gian;

 

Trái tim vẫn chưa già;

 

Niềm đam mê hay mộng chinh phục, dù phiêu dạt về đâu,

 

Vẫn theo chúng bền lâu.

 

 

Nhưng giờ đây trôi giạt trên mặt nước lặng yên,

 

Đầy bí ẩn, xinh đẹp;

 

Chúng sẽ làm tổ trong khu sậy nào đây,

 

Cho mắt người đời thưởng thức,

 

Nơi bờ hồ nào, ao nào, còn tôi một hôm thức giấc

 

Biết chim đã xa bay?

 

Hồ Văn Hiền [tạm] dịch

 

12 tháng 11, năm 2014

 

Les cygnes sauvages à Coole

  

   Les arbres, les voici dans leur beauté d’automne,

     À travers bois les chemins sont secs,

     Sous le crépuscule d’octobre les eaux

     Reflètent un ciel tranquille ;

     Sur les hautes eaux, passant entre les pierres,

     Vont les cygnes, cinquante et neuf.

    

     Le dix-neuvième automne est descendu sur moi

     Depuis que je les ai comptés pour la première fois ;

     Je les vis, avant d’en avoir pu finir le compte,

     Qui s’élevaient soudain

     Et s’égayaient en tournoyant en grands cercles brisés

     Sur leurs ailes tumultueuses.

    

     J’ai contemplé ces créatures brillantes

     Et maintenant mon cœur est douloureux.

     Tout a changé depuis qu’au crépuscule

     Pour la première fois, sur ce rivage,

     À entendre le carillon de leurs ailes au-dessus de ma tête

     Je marchais d’une marche plus légère.

    

     Toujours sans se lasser, en couples d’amants,

     Ils rament dans les froids,

     Les complices courants, ou grimpent dans les airs ;

     Leurs cœurs n’ont pas vieilli ;

     Passions ou conquêtes, où qu’ils partent errer,

     Leur font toujours escorte.

  

     Mais maintenant ils glissent sur les eaux tranquilles,

     Mystérieux et pleins de beauté ;

     Parmi quels joncs feront-ils leur nid,

     Sur la rive de quel lac, de quel étang

     Raviront-ils d’autres yeux lorsque je m’éveillerai

     Et trouverai, un jour, qu’ils se sont envolés ?

(Traduit de l’anglais par Jean Yves Mason)(4)

References:

  1. 2.http://aterriblebeautyisborn.com/the-wild-swans-at-coole/
  2. 3.Udo Becker. The Continuum Encyclopedia of Symbols
  3. 4.http://www.editions-verdier.fr/v3/oeuvre-cygnescoole.html
  4. 1.Theo website của cơ quan cấp giải Nobel.
  5. 5.http://www.golden-dawn.com/eu/displaycontent.aspx?pageid=151-biography-w.-b.-yeats
  6. 6.Wikipedia : các bài về một số tác phẩm của Yeats.
  7. 7.Yoon Kiho: A Poet’s Dream in the King’s Threshold.
  8. http://yeatsjournal.or.kr/index.php?document_srl=9029&mid=Issue
  9. (Có một báo của Hàn quốc chuyên về Yeats: “The Yeats Journal of Korea”!.)
  10. Hồ Văn Hiền

Ngày 12 tháng 11, năm 2014