Chóng Mặt

 

Bác sĩ Hiền trả lời một bịnh nhân than chóng mặt mỗi khi thay đổi tư thế:

Chóng mặt  là một triệu chứng bao gồm nhiều nguyên nhân khác nhau.

Vertigo: Chóng mặt chúng ta nói ở đây được định nghĩa là cảm giác chuyển động trong lúc thực tế mình không di động (motion), hoặc cảm thấy di động quá mức trong lúc mình chỉ làm một cử động nào đó. Người chóng mặt có thể cảm thấy mọi vật chung quanh chạy vòng vòng hoặc cảm tưởng mình lắc lư muốn té về trước hoặc về sau, như cảm giác say sóng lúc đi trên biển.

17Chvhiencm1

 

Fig 1: Tai trong (internal ear) : “mê đạo” (labyrinth) (Source: Wikipedia)

Thường vertigo gây ra do bịnh lý của một bộ phận trong phần tai trong (internal ear) còn  gọi là “mê đạo” (labyrinth) vì nó gồm nhiều ống chứa đầy một chất dịch nối liền với nhau. Mê đạo thu nhận những tín hiệu về âm thanh (thính giác), từ bộ phận gọi là gọi là con ốc [cochlea]). Những tín hiệu về phương hướng, vị trí cơ thể đến từ phần của mê đạo gọi là tiền đình (vestibule). Những tín hiệu này được chuyền qua não bộ bằng thần kinh tiền đình (vestibular nerve), là một thành phần của dây thần kinh số 8 (8th cranial nerve, vestibulocochlear nerve).

Nếu vì một lý do gì đó, tiền đình một bên bị rối loạn sẽ gởi những tín hiệu sai lạc, là chúng ta cảm thấy sự vật  chung quanh xoay vòng vòng (vertigo, spinning sensation) hoặc "lắc lư con tàu đi" (say sóng, dizziness, imbalance).

Trong labyrinth  có một phòng nhỏ trong xương  gọi là  tiền đình (vestibule), chứa một túi nhỏ (saccule and utricle)  gắn liền với  3 ống nhỏ , tròn (ống bán khuyên), nằm trên 3 mặt bằng khác nhau nhưng  gắn liền chụm vào  nhau (superior [or anterior], posterior and lateral semicircular canals/ducts), chứa đầy môt chất dịch lỏng (endolymph).

Mỗi lần đầu chúng ta quay qua lại, gật đầu, ngẩng đầu, nước dịch này di chuyển trong các ống semicircular canals  và kích thích các tế bào lông (hair cells, cilia) trong  ống. Các tế bào này phát tín hiệu vào não bộ, não bộ phân tích để biết phương hướng mới của cơ thể trong lúc di chuyển.Trong utricle và saccule (=otolith organs), có những vật nhỏ gọi là "đá tai" (otolith; oto=tai, lith =đá; nhưng thật ra là những tinh thể rất nhỏ kết tụ với nhau); chúng di động lúc đầu chúng ta lên xuống cao thấp, di chuyển trước sau, phải trái bên này qua bên kia, chúng cho biết vị trí đầu chúng ta so với chiều trọng lực (sức hút quả đất, gravity); (ví dụ lúc đi thang máy chạy lên khác chạy xuống) và gia tốc (acceleration; ví dụ lúc xe chúng ta ngồi chạy vọt lên). (fig 2)

a) Bịnh chóng mặt từng cơn lành tính tuỳ thuộc tư thế (Benign Paroxysmal Positional Vertigo/ BPPV)

Trong một số trường hợp như bị đánh vào đầu, nằm lâu bất động trong một tư thế nào đó lúc giải phẫu tai hay chữa răng, các "đá tai" này chạy lạc vào trong các ống bán khuyên, tạo nên tín hiệu bất thường làm chóng mặt. Bịnh nhân bị chóng mặt từng cơn, tái đi tái lại, thường khởi xướng bởi một thay đổi trong vị trí của đầu mình. Mỗi cơn kéo dài chừng một phút thì giảm, đi kèm theo với hai tròng mắt di động, giật nhịp nhàng (nystagmus); có thể làm lảo đảo, nôn mửa. Bác sĩ chữa bằng cách đặt đầu bịnh nhân vào nhiều tư thế khác nhau để tìm cách đưa các "đá tai" ra khỏi vòng bán khuyên.

17Chvhiencm2

Fig 2: Trong utricle và saccule (=otolith organs), có những vật nhỏ gọi là "đá tai" (otolith; oto=tai, lith =đá; nhưng thật ra là những tinh thể rất nhỏ kết tụ với nhau) (Source: The VisionHelp Blog)

17Chvhiencm3

Fig 3: Bác sĩ chữa bằng cách đặt đầu bịnh nhân vào nhiều tư thế khác nhau để tìm cách đưa các "đá tai" ra khỏi vòng bán khuyên. (Source:The Merck Manuals)

b) Viêm thần kinh tiền đình

Nguyên nhân thường gặp nhất gây ra viêm tiền đình (vestibular neuritis, ảnh hưởng trực tiếp đến phần thăng bằng) là do ảnh hưởng của một virus, vd  bịnh nhân bị cúm (influenza), nhiễm virus herpes (gây lỡ miệng, trái rạ [thuỷ đậu, chicken pox], hay bịnh zona [dời ăn, herpes zoster, shingles]. Có thể nguyên nhân do một lại vi khuẩn là nhiễm trùng tai giữa và  ảnh hưởng đến tai trong (tiền đình thuộc về tai trong). Hiếm hơn, viêm thần kinh tiền đình có thể do viêm màng óc (meningitis).

Triệu chứng viêm thần kinh tiền đình: chóng mặt, ói mửa, đi đứng không vững đột ngột. 

Tiến trình tự nhiênviêm tiền đình: đa số bịnh nhân chỉ bị triệu chứng nặng một hai ngày, sau đó các triệu chứng giảm dần. Hiếm khi, các triệu chứng cấp tính kéo dài vài ngày hay vài tuần, tuy nhiên những triệu chứng nhẹ như cảm giác mất thăng bằng còn sót lại, đi đứng không vững có thể kéo dài hàng tháng. Bịnh nhân cải thiện thật nhanh có lẽ nhờ não bộ (thần kinh trung ương) thích ứng với hoàn cảnh mới và tập điều chỉnh theo các tin tức bất bình thường do thần kinh tiền đình mắc bịnh gởi vào. Tuy nhiên, bộ phận tiền đình có thể cần thời gian lâu hơn để hồi phục, và trong một số trường hợp những hư hại của hệ tiền đình trở thành vĩnh viễn, không đảo ngược được, nghĩa là cơ năng của nó bất bình thường.

Chữa trị viêm thần kinh tiền đình:

Các thuốc chữa triệu chứng, ói mữa, mất nước. Ví dụ:

1) chất kháng histamine:dimenhydrinate (Dramamine), diphenhydramine (Benadryl), Meclizine (Antivert), Promethazine (Phenergan).

2) thuốc đối kháng hệ đối giao cảm (anticholinergic), vd:scopolamine (Transderm-Scop)

3) thuốc an thần : diazepam (Valium) , lorazepam (Ativan)

2) Cần phân biệt với lâng lâng như  say rượu (lightheadedness), cảm giác mất thăng bằng (imbalance, muốn té), hay cảm giác sắp xiủ, hoặc xiủ (fainting) vi những lý do khác như đường máu quá thấp, áp huyết quá thấp, máu lên đầu bị giảm vì các động mạch nuôi óc bị nghẽn do xơ động mạch.

Áp huyết thấp (hypotension), thường được định nghĩa như là áp suất kỳ thu tâm = hoặc < 90mm thuỷ ngân (systolic pressure = or <90 mm Hg), áp suất trương tâm= hoặc < 60 mm Hg (diastolic pressure = or <60 mm Hg). tuy nhiên cũng tuỳ theo bịnh nhân, tuổi bịnh nhân, áp huyết thông thường của người đó. Có nhiều nguyên nhân, giản dị như bịnh nhân thiếu nước, bị xúc động, ngâm nước nóng quá lâu (mạch máu dãn nở), có thai, ít vận động. Phức tạp hơn ví dụ bịnh nhân thiếu máu (bần huyết [anemia], lượng hồng cầu quá thấp), chảy máu đâu đó (ví dụ rong kinh, chảy máu bao tử, ruột), hay suy cơ năng tuyến giáp [hypothyroidism], nang thượng thận (bịnh Addison: đi đôi với da sậm màu, các vùng niêm mạc như miệng cũng đen hơn bình thường), nhiễm trùng máu, phản ứng thuốc, dị ứng, phản vệ (anaphylaxis=huyết áp hạ nhanh, shock kèm theo khó thở, nổi mẫn ngoài da). Cũng nên nêu rõ áp huyết thấp (hypotension) và thiếu máu (anemia) là hai bịnh khác nhau, mặc dù thiếu máu có thể gây ra áp huyết thấp, chóng mặt, xỉu.

Nói chung chúng ta không muốn áp huyết cao, và áp suất thấp là mục đích của chữa trị bịnh cao áp huyết. Tuy nhiên, nếu áp huyết thấp kèm theo các chứng như chóng mặt, muốn xỉu, mờ mắt, ói, ta chân lạnh, xanh xao, thở khó hay yếu, chán nản, trầm cảm, nên đi khám bác sĩ.

Bịnh nhân cần thu thập quan sát  và ghi chú chi tiết về cơn chóng mặt của mình để nhờ bs của mình khám và phân tích, nhất là loại bỏ những nguyên nhân quan trọng như nghẽn mạch máu, bịnh não bộ, thiếu máu (anemia). Thông thường, người ta chỉ lo cho bịnh áp huyết cao, vì áp suất cao trong các mạch máu tạo một stress , một gánh nặng lên vách mạch máu và nhất là tim, vì tim phải làm việc trong điều kiện áp suất cao. Còn đối với người chỉ có áp huyết thấp đơn độc, không kèm theo bịnh gì khác đáng kể, thì có lẽ đây là một điều bất tiện hơn là một đe doạ về sức khoẻ. Có lẽ đối với họ, nên tránh dùng những chất kích thích quá nhiều, như trà, cà phê, thuốc lá, thuốc bổ (nếu không cần thiết) để cảm thấy sảng khoái hơn, vì sau khi bị kích thích, "hăng" quá” sẽ có giai đoạn chùng xuống, chóng mặt và mệt mõi, hoặc tuỳ thuộc vào các chất kích thích này.

Nếu bác sĩ khám thấy huyết áp thấp trong lúc mọi chuyện khác đều bình thường, bác sĩ có thể nghi là thể tích máu [blood volume] trong hệ tuan hoàn không đủ, cần gia tăng thể tích này lên và khuyên uống thêm nước. Tuy nhiên , như trường hợp thính giả hỏi ở đây, có thể không hiệu nghiệm lắm, trừ trường hợp bịnh nhân bị mất nước quá nhiều mà không biết, như trời nóng chảy mồ hôi quá nhiều, uống rượu làm đi tiểu quá nhiều kèm theo ói mửa, hay bịnh nhân viêm dạ dày, ruột làm tiêu chảy , ói mửa và mất nước. Tuy nhiên, ở người bình thường không có các vấn đề cấp tính nêu trên, cần xét đến các yếu tố khác gây ra hạ áp huyết thấp. Ví dụ như người ít vận động, ngồi nhiều, máu tụ xuống hai chân (hạ chi), lúc đứng dậy nhanh, cơ thể không thích ứng đủ nhanh để đem máu lên đầu kịp (như mạch máu co lại để máu dồn về tim, tim đập nhanh hơn, mạnh hơn) Nếu đo áp huyết lúc đang ngồi và lúc đứng lên, áp huyết có thể quá thấp lúc đứng, gọi là "orthostatic hypotension" (ortho =thẳng, static: vị trí) (số áp huyết thu tâm [systolic pressure] giảm 20mm Hg , hay số trương tâm giảm [diastolic pressure]10 mm Hg trong vòng 3 phút sau khi đứng lên). Những người này có thể cần ăn mặn thêm (thêm muối) và vận động thể thao nhiều hơn nếu thích hợp). Những trường hợp mãn tính ở người trẻ có thể do hệ thần kinh tự dưỡng [autonomic nervous system] bị rối loạn, hệ thần kinh giao cảm [sympathetic nervous system]  phụ trách điều khiển tim bơm máu mạnh hơn, nhanh hơn, co mạch máu để tăng áp suất trong mạch có thể không đáp ứng đủ mạnh. Đúng chéo hai chân, ngồi chồm hổm, mặc quần bó chân (lower limb compression bandage), bó bụng  lại (abdominal binder) không cho máu tụ dưới thấp có thể làm giảm orthostatic hypotension.

Cuối cùng, tôi xin bàn về một chứng liên hệ, gọi là "áp huyết thấp sau khi ăn" (postprandial hypotension). Sau khi ăn, hệ tiêu hoá có nhiệm vụ "thanh toán" các thức ăn đó, và đó cũng làm một công việc đòi hỏi năng lượng do máu cung cấp. Có những cảm biến (stretch sensors) trong  dạ dày cho biết là dạ dày đang đầy thức ăn và  cơ thể sẽ tự động giãn nở các mạch máu dẫn tới gan, dạ dày, ruột. Đồng thời các mạch máu đi đến chỗ khác sẽ co lại, tim sẽ đập nhanh hơn để giữ áp suất trong mạch máu, cần thiết để giữ đủ máu bơn lên nuôi não bộ trên cao (lúc đứng). Ở một số người, nhất là người già, hệ thống cảm biến này trong hệ tim mạch không còn đủ nhạy cảm, các mạch máu không co giãn đủ mức và nhanh chóng để thích ứng với nhu cầu máu vào hệ tiêu hoá, do đó áp suất của máu quá thấp, gây chóng mặt, nhất xỉu, có khi cơn đau tim hoặc tai biến mạch máu não sau khi ăn. Người ta từng khảo cứu xem các thuốc như cà fein (kích thích), chất làm giảm hấp thụ các chất đường, thuốc làm áp huyết cao lên (như midodrine) nhưng không hiệu quả vì lợi "bất cập" hại (phản ứng phụ). Cho nên:

1) nên uống chừng 1-2 ly nước lạnh 15 phút trước khi ăn (⅓- ½ lit),

2) ăn nhiều bữa ăn nhỏ thay vì nhịn đói thật lâu rồi ăn nhiều (để đường trong máu không dao động nhiều, tăng cao sau khi ăn, xong tuột xuống nhanh),

3) tránh ăn nhiều quá, nhất là các chất "carbohydrates" như các nước ngọt, trái cây ngọt, tinh bột (trong bánh mì, cơm trắng, mì, bún hấp thụ đường vào máu rất nhanh) nhanh quá,

4) ngồi xuống ăn,

4) tránh những nơi quá nóng (mạch máu ngoài da giãn nở) có thể nguy hiểm nếu té như gần bếp lửa, chỗ cao chênh vênh, lúc lái xe, uống rượu...

5) nằm xuống để máu dễ lên đầu hơn nếu chóng mặt sau khi ăn, tránh làm việc, lái xe, đi bộ mệt nhọc nếu có triệu chứng này.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Ngày 11  tháng 9 năm 2017