Federico Garcia Lorca:
Ngữ Lực Và Tác Phẩm
Siêu thực là một phong trào thi ca lớn của nhân loại. Chẳng những đã đào tạo những thi sĩ tài danh, những bài thơ bất hủ mà tinh thần của Siêu Thực, nghệ thuật của Siêu Thực, kỹ thuật sáng tác của Siêu Thực đã ảnh hưởng hầu hết các dòng thi ca của các dân tộc trên địa cầu. Quan trọng nhất là yếu tính của Siêu Thực trở thành căn bản của trong nghệ thuật sáng tạo, xuất hiện tự nhiên trong các tác phẩm, các bài thơ của hầu hết các thi sĩ tên tuổi trong thế kỷ 20 bước sang thế kỷ 21.
1. SỰ HÀI HÒA TRONG THƠ LORCA.
Federico Garcia Lorca không phải là thi sĩ chính danh trong tộc Siêu Thực nhưng ông đã lớn lên trong thời điểm này. Bắt đầu từ năm 1920. phái Siêu Thực ra đời như một cơn lốc, cách mạng nghệ thuật Âu Châu, nhất là nghệ thuật văn chương, hội họa và tạo hình. Lorca lại giao thiệp với các nghệ sĩ Siêu Thực như hoạ sĩ Salvador Dalí, tạo hình Emilio Soriano Aladrén....thơ Siêu Thực đã tìm đến ông như một cơn sóng thời đại táp vào bờ thi ca.
Ông bắt đầu làm thơ có lẽ đã từ lâu, từ lúc trẻ, mặc dù lúc trẻ, ông yêu thích âm nhạc hơn thi ca. Điểm mốc thời gian mà nhiều nhà nghiên cứu thơ Federico Garcia Lorca đồng ý, là năm 1918, năm ông chính thức bước vào cõi thơ. Nhưng đa số thơ được in lại trong thời điểm đó, thường ghi năm 1920.
Thơ của ông có thể nhìn xuyên qua ba giai đoạn sáng tác:
1- Thời khởi đầu, kế thừa truyền thống thơ ca Tây Ban Nha.
2- Ảnh hưởng bởi phái Tượng Trưng. (1)
3- Ảnh hưởng bởi phái Siêu Thực. (2)
Tuy phân chia thành ba giai đoạn nhưng vào khoảng năm 1930-31 trở đi, thơ ông đã chứng tỏ sự hòa nhập tinh thần và nghệ thuật của cả ba ảnh hưởng kể trên. Ngoài ra, như những thi sĩ Âu Châu đương thời, ông cũng bị ảnh hưởng bởi tinh thần và thể thơ ngắn của thơ Hài Cú, thơ Nhật và thơ Trung Hoa. Với tài năng thiên phú ông đã hài hòa được những ưu điểm, cá tính của các phong trào thi ca và đặc tính của dân tộc. Ông trở thành một trong những thi sĩ quan trọng của thế kỷ 20 và là một trong vài thi sĩ hàng đầu ở Tây Ban Nha.
Đối với người đọc bình thường, có lẽ thơ của ông khá khó hiểu. Vì sao khó hiểu?
- Đa số người đọc bình thường tìm đến thơ như một giải trí, hưởng thụ một cách dễ dãi. Đọc xong là muốn hiểu liền. Không cần phải động não. Nhất là, những người đọc chỉ tìm cảm xúc. Muốn nghe lòng mình rung động. Tình cảm xôn xao hoặc cảm kích. Tìm lại kỷ niệm xưa. Tìm tâm sự đồng điệu. Họ thường đưa ra kết luận, đọc thơ thấy hay , thấy thích là được rồi. Như vậy, không có gì sai trái. Đúng nữa là khác. Nhưng thiếu, thiếu nhiều.
- Đa số người Việt đọc thơ, thích thơ vần điệu hoặc nếu không vần thì phải êm ả, chải chuốt. Thơ Việt đa số mang tinh thần này vì từ đời Hán học, bị ảnh hưởng thơ Đường, thơ Hán. Qua thời Thơ Mới bị ảnh hưởng bởi thơ Lãng mạn, Tượng Trưng và Biểu Tượng của Pháp. Chủ yếu những loại thơ này trọng sự chải chuốt ngôn từ và mỹ cảm hóa tứ thơ và lời thơ. Đa số làm thơ với nhiều tĩnh từ, bổ túc từ và liên từ. Đa số thơ Việt ngả vào phong cách chải chuốt cho lộng lẫy và quí phái như thơ Đường và ủy mị than trách như dòng thơ Lãng Mạn Pháp. Do đó cần nhiều tĩnh từ. Nhiệm vụ của tĩnh từ trong thơ Việt làm cho thơ "bay bướm", dễ gây cảm xúc. Tỉnh từ, bổ túc từ, liên từ làm cho câu thơ mượt mà, êm ả, trơn tru. Ngay cả thể thơ Lục Bát truyền thống của người Việt, mang bản chất "hiền hòa". Với những âm thanh bằng trắc và yêu vận cước vận đã đóng khuôn bài thơ, câu thơ vào nhạc điệu êm đềm, tròn trịa. Cho dù diễn tả về chiến tranh, cho dù là ngòi bút của thi hào Nguyễn Du trong truyện Kiều, cũng chỉ thấy đẹp mà không thấy máu lửa.
Khi tiếp cận những loại thơ không vần, không điệu hiện diện trong ngôn ngữ, người đọc cảm giác "không phải thơ". Khi đọc những bài thơ "khô", thiếu vắng tỉnh từ, người đọc cảm thấy "khó cảm". Những bài thơ cô đọng, xúc tích, ví dụ như thơ Hài Cú, lập tức trở thành khó hiểu.
- Đọc thơ, đa số người Việt chú trọng tình tiết, câu chuyện nhất là tâm sự của tác giả. Nếu gặp những bài thơ gói ghém suy tư hoặc những cảm nghiệm nhân sinh, người đọc bình thường cho rằng thơ giải mã.
- Đa số thơ của Federico Garcia Lorca trong phần một, được chuyển thành thơ Lục Bát, bốn chữ, năm chữ, bảy chữ, tám chữ ... những thể thơ quen thuộc để dễ cảm thông. Tuy vậy thơ ông vẫn khó.
Khó ở chỗ:
- Ông sử dụng nhiều phong tục, tập quán, cổ tích dân tộc và huyền thoại Hy Lạp, La Mã trong thơ.
- Ông áp dụng tinh thần và kỹ thuật của phong trào Tượng Trưng. Tinh thần và kỹ thuật thơ Tượng Trưng chủ yếu trình bày đối tượng với ý nghĩa trong tâm tình và bối cảnh. Đối tượng từ hiện thực, thực tế, cụ thể trở thành trừu tượng. Tượng trưng đối tượng bằng một sự vật hoặc một ý tưởng, có khi là một mẩu chuyện. Những liên hệ siêu hình, triết lý hoặc tưởng tượng khiến cho thơ không bộc bạch như thơ tả cảnh, tả tình, kể lể hoặc bạch văn. Do đó, sức mạnh của liên tưởng, kiến thức và kinh nghiệm sống, khá cần thiết cho người đọc.
- Càng về sau, ông càng sử dụng nghệ thuật sáng tác của phái Siêu Thực. Chủ yếu là những hình tượng, tứ thơ mang bản chất và liên hệ phi lý, có gốc rễ từ những giấc mơ, từ sâu thẳm của vô thức. Với những lý luận bình thường, những hình ảnh hàng ngày, thực tế, người đọc dễ bị lạc sóng khi bắt vào những hình, những tứ mông lung và không tuân theo luận lý. Trực giác của người đọc phải cảm nhận bằng cách khám phá những điều thi sĩ đã kinh qua, đã dằn vặt, đã suy gẫm. Những điều này, thường khi không nằm trong ý nghĩa của chữ mà nằm xuyên qua chữ.
- Qua đến tinh thần thơ Hài Cú là gợi ra. Một bài thơ không có kết luận. Câu thơ đã dứt nhưng thơ vẫn còn. Bài thơ chấm dứt trong mỗi người đọc khác nhau.
Thử đọc bài Hài Cú của thi sĩ Sôkan:
Nếu
gắn cán vào mặt trăng
cái quạt mo
(Trăng Mùa Gặt).
Phải chợt "thấy" trăng mùa gặt thường rất tròn, giống như cái quạt mo sáng, chỉ thiếu cái cán. Nhưng bài thơ không ngừng ở đây. Sự khôi hài gắn cán vào trăng biểu lộ niềm vui ngày mùa. Người lớn ăn mừng, trẻ em ca hát. Vầng trăng gắn cái cán trở thành cái quạt, trò chơi của trẻ con. Thằng Bờm có cái quạt mo. Phải chăng mỗi người trong chúng ta khi đang vui dưới trăng rằm, đều có một đứa trẻ nhảy múa trong lòng?
Trong tinh thần gợi và mở, Lorca đã viết:
Trăng lên Cuando sale la luna
trăm mặt tròn giống nhau de cien rostros iguales,
đồng tiền kẽm la moneda de plata
trong túi than khóc solloza en el bolsillo.
( La luna asoma )
Trăng của Lorca hiện đại hơn , tây phương hơn, tròn như đồng tiền kẽm. Đồng tiền nằm trong túi than khóc cho thân phận bị mua đi bán lại. Còn trăng nằm trong túi đất trời, có khóc cho thân phận gì chăng? Trong bài Flor, ông viết đóa hoa: (Flor.)
Dương liễu rũ lá sầu El magnifico sauce
dưới cơn mưa, tráng lệ de la lluvia, caía.
Kìa, trăng tròn Oh, la luna redonda
trên cành sáng! sobre las ramas blancas!
Hoa là trăng hay trăng là hoa? Có cần thiết để có một luận lý rõ ràng không? Hay cứ ngẫu nhiên ghi xuống hình tượng phát giác từ tâm tưởng. Thi sĩ Basho (Ba Tiêu) cũng vậy:
Cánh đồng bông gòn
vầng trăng
rớt hoa.
Hoa gòn trắng hay ánh trăng sáng? Những câu thơ sáng tác theo tinh thần Hài Cú như lửng lơ, không có liên tự, không có những nối kết bình thường. Đôi khi đọc những bài thơ Hài Cú của các thi sĩ thời danh truyền lại, cảm thấy trống vắng, "vô duyên". Ví như bài thơ của Ryôta:
Bực mình, quay về nhà
thấy trong vườn hoa
cây Dương Liễu.
Nhưng đọc đi đọc lại, tự hỏi, có điều chi mà lưu danh hậu thế? Dần dà mới cảm được sự an bình của cây Dương rũ lá. Tương phản với nỗi bực mình là nỗi yên lành ngay trong vườn nhà. Bình an từ đâu đến? Ngay trong lòng thôi. Ở đâu có bực bội, ở đó có tâm lành.
Thơ Hài Cú viết ít chữ nên không đủ chữ để dài dòng, trình bày và giải thích. Chỉ đủ chữ để gợi ý. Phần còn lại tùy vào người đọc khám phá và mở rộng. Nội dung của Hài Cú thường là sự tương quan giữa cảnh thiên nhiên và cảnh tượng nội tâm. Sự so sánh, nghịch đảo, liên hoàn hoặc bổ xung những thực tế đang nhìn thấy với trừu tượng trong tâm trí, rồi mở ra một thế giới cảm nhận và tư duy không kết luận. Tinh thần Hài Cú ảnh hưởng thơ Lorca:
Chuông vàng nhỏ Small golden bells
chùa Rồng Dragon pagoda
boo...boong...boo..boong...tinkle tinkle
vang ra đồng lúa over the ricefields.
( Bản dịch: Jerome Rothenberg, Shinto.)
Dọc theo dòng thơ của Lorca, người đọc dễ nhận ra sự ảnh hưởng của thiên nhiên trong thơ của ông. Ông sinh ra và lớn lên trong miền quê. Cả một thời niên thiếu, ông đã chạy nhảy tung tăng với ruộng đồng, trâu bò, gia súc. Ông lớn lên với phong tục tập quán dân quê. Thơ ông chứa đầy những phong cảnh thiên nhiên và sinh hoạt nông thôn cho dù đa số chỉ để tượng trưng cho những gì ẩn náu bên trong. Đôi lúc, nếu không biết những phong thói này, khó mà theo dõi thơ của ông. Càng về sau, ông càng uyên bác sử dụng những sự tích, huyền thoại và những đặc tính của âm nhạc dân tộc, nhất là nhạc flamenco. Thơ của ông có cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Mặt Trời lặn The Sun Has Set
Mặt trời lặn. The sun has set
Thấy hàng cây and trees,
dáng như tượng đứng đêm ngày suy tư. like statues, meditate.
Bánh xe quay nước lừ đừ The wheat has all been cut.
Đồng gặt hết lúa dường như What sadness
thật buồn! in the quiet waterwheels!
Chó quê sủa giữa đêm trường A country dog
chồm chồm muốn cắn bất thường hungers for Venus
sao Kim. and barks at her.
Từ cao sao sáng sẽ chìm She shines above her pre-kiss field
lớn như trái táo rụng tìm đất quen. like a great apple.
Muỗi bay tịch mịch trong đêm Mosquitoes-Pegasuses of the dew
như nguồn thơ hứng nỗi niềm giọt sương. wheel in the still air.
Ánh đèn, sáng rực đêm trường Light, that vast Penelope
nàng Penelope thủy chung đan màn. (*) weaves a brilliant night.
"Bé ơi, hãy ngủ ngon nha "Sleep, my daughter,
sói lang sắp đến," for the wolf is coming
kêu la tiếng cừu. bleat the little dheep.
"Bạn ơi, trời có vào thu?" "Is it autumn yet, my friends?"
Bông hoa heo héo hỏi phù du thôi. ask a crumpled flower.
Bây giờ, mục tử lên đồi Now shepherds will come with their nests
vào hang ẩn núp tránh thời kiếp tai. across the mountains, far away!
Bây giờ, cửa đóng then cài, Now little girls will play
bên trong con trẻ an bài vui chơi, in the old inn's door.
nhà nhà ca hát thảnh thơi and the houses will hear
bên ngoài nghe vọng bao lời yêu thương love songs they've long known
bài ca quen thuộc bình thường. (3) by heart.
(Bản dịch: Catherine Brown)
Ghi:
(*) (Hai câu thơ này liên quan đến nhân vật vợ của Odysseus trong tác phẩm của Homer. Nhà văn Hàn Thủy ở Pháp đã giúp tôi điều chỉnh. Xin cảm tạ.)
Trong phong cảnh thôn quê về đêm, cách xa phố thị Phê-nơ-lốp, con chó quê sủa muốn cắn sao Kim (sao Vệ Nữ) là một tượng trưng cho ước mơ của thi sĩ. Nỗi khao khát của con người trần thế muốn làm nên một sự việc cao xa nhưng cùng một lúc cầm bằng lòng thất vọng như con chó nhảy chồm chồm chỉ sủa mà thôi. Một tượng trưng khác diễn tả nơi chó sói xuất hiện và các bé con trốn vui trong căn nhà. Cảm ra như câu chuyện cổ tích ngụ ngôn: Ba Con Heo và Chó Sói. Hơn thế nữa, đó là lý do con người thành lập gia đình và liên kết yêu thương để chống lại những hiểm họa của đời sống.
Quê hương của Lorca là nơi phát tiết nhạc flamenco, Không thể thiếu âm điệu đó trong hồn của ông. Viết về cây đàn thùng Ghi-ta, ông diễn đạt không những chỉ ý tứ mà còn theo nhịp điệu flamenco, lúc nhanh lúc chậm, lúc dồn lúc lơi. Ở đoạn cuối của bài thơ La Guitarra, ông viết:
Oh guitarra! Ôi, ghi-ta, đàn ơi!
Corazón malherido Trái tim thương tích suốt đời
por cinco espadas bởi năm lưỡi gươm.
Por cinco espadas, chuyển là bởi năm lưỡi gươm, phù hợp với bản dịch của Cola Franzen: by five swords. Nhưng không có ý nghĩa gì cho bài thơ và đàn ghi ta với năm lưỡi gươm. Khi tra cứu mới hiểu, năm lưỡi gươm chỉ là một lối nói để đề chỉ một cách chơi đàn ghi ta theo nhạc điệu flamenco. Nhạc sĩ dùng cả năm ngón tay bay nhảy trên sáu dây đàn như năm lưỡi gươm xuyên thấu vào tim người nghe. Vì vậy đoạn cuối đó là:
Ôi, ghi-ta, đàn ơi!
Trái tim thương tích suốt đời
bởi năm ngón tay.
Chuyển thơ:
(Chim đầu tiên chết trên cây).
Ôi, đàn ơi, hỡi đàn này! biết chăng
Trái tim thương tích vĩnh hằng
bởi tay năm ngón điệu đàn flamenco.
Là một người yêu âm nhạc và nhạc dân tộc, ông đã mang những thể hát và tinh thần ca khúc vào trong thơ. Ví dụ như người Việt làm thơ theo thể thơ hát Ả Đào, chắc sẽ làm cho người ngoại quốc khó nắm bắt bài thơ. Lorca làm rất nhiều bài thơ, ngắn có dài có, trong các thể điệu nhạc dân tộc.
Trước Buổi Bình Minh Before Dawn
Như tình yêu But like love
những cung thủ the archers
mù. are blind.
Trong đêm thanh xuân Above the green night
những mũi tên arrows
để dấu trầy khiêu gợi leave traces of ardent
trên đóa hoa Ly-ly. lily.
Trăng lưỡi liềm The keel of the moon
xé làn mây tím rips purple clouds
và bao đựng tên and the quivers
đẫm ướt sương mai. fill with dew.
Ôi, như tình yêu Oh, but like love
những cung thủ the archers
mù (4) are blind!
(Bản dịch: Cola Franzen)
Cặp Gõ Castanet
Lốc cốc cốc. Castanet
Lốc cốc cốc. Castanet
Lốc cốc cốc. Castanet
Cặp gõ hình con bọ kêu giòn tan. Sonorous scarab
Trong bàn tay In the spider
như con nhện of the hand
khuấy động không khí you crimp the warm
ấm lên air,
rồi chìm xuống âm thanh gỗ and drown in your wooden
rung vang. drill.
Lốc cốc cốc. Castanet
Lốc cốc cốc. Castanet
Lốc cốc cốc. Castanet
Cặp gõ hình con bọ kêu giòn tan. (5) Sonorous scarab.
Thơ của ông càng khó hiểu hơn khi ông đưa vào những "điển cố" thần thoại Hy lạp. La Mã rồi chuyển các hình tượng, truyền thuyết này vào tượng trưng hay siêu thực. Thơ xưa của người Việt cũng như thơ Đường , thơ Hán, đầy cả những điển cố và điển tích. Nếu không có một kiến thức vững vàng, khó mà chia xẻ được những bài thơ cao kỳ này.
Thần Dê Trắng
Trên đóa hoa Thủy Tiên bất tử
Thần Dê trắng ngủ say.
Sừng lớn bằng pha lê
làm vầng trán trinh bạch
Mặt trời, con rồng lửa thuần thục
liếm đôi tay phụ nữ của thần Dê.
Trên dòng sông tình ái
nữ thần nước chết trôi.
Tim thần Dê theo gió
khô từ giông bão xưa.
Vòi nước trên đất là nguồn suối
chia bảy dòng xanh như thủy tinh. (6)
Nhận định về tinh thần tượng trưng và siêu thực trong thơ Federico Garcia Lorca, có thể thấy ngay, ông bắt đầu với tượng trưng rồi chuyển sang siêu thực nhưng vẫn giữ những cá tính của thơ tượng trưng nên thơ ông là một bản hợp tấu giữa tượng trưng và siêu thực cùng với thơ dân tộc Tây Ban Nha.
Nhìn từ bên ngoài là như vậy, nếu đi sâu vào trong cơ cấu của thơ ông, sẽ nghiệm ra sức sáng tạo của ông đã xóa những biên giới của kỹ thuật của phong trào, trường phái thơ. Tự tạo cho mình một cách diễn đạt riêng. Một trong những ưu điểm hàng đầu là những sự phức tạp trong cơ cấu được trình bày rất tự nhiên.
Tượng Trưng:
Sống gần gũi với những biến chuyển của thiên nhiên, với cây cỏ, súc vật tồn vong trên đồng ruộng, với khả năng nhận xét tinh tế, suy tư bén nhạy, Lorca đã thu dụng được một thứ "luận lý thiên tiên" của đất trời, vừa âu yếm ban phát vừa phẫn nộ trừng phạt. Một cây mọc bên đường, tầm thường, nhưng cái sinh mạng tồn tại kia có phải là vô tri? Nguyên ủy từ đâu đến? liên hệ gì với con người? Từ một vật thực tế, đưa vào bối cảnh của nội tâm, tưởng tượng ra những chi tiết diễn đạt một suy tư, một khía cạnh của kinh nghiệm. Năm 1919, ông viết:
Árboles! Cây ơi!
Habéis sido flechas Có phải xưa là mũi tên
caídas del azul? từ trời rớt xuống?
Qué terriblesguerreros os lanzaron? chiến chinh kẻ nào, kinh hoàng đánh ngươi
Han sido las estrellas? ngã nhào? Phải chăng là những vì sao im lìm?
Vuestras músicas vienen del alma de los pájaros, Ngươi bừng nhạc tự hồn chim
de los ojos de Dios, tự mắt Thượng Đế
de la pasión perfecta. tự niềm đam mê
Árboles! Cây ơi!
Conocerán vuestras raíces tocas rễ mọc xum xuê
mi corazón en tierra? biết chăng lối đất nào về tim ta?
Cây ơi! Trees!
Có phải ngươi là mũi tên Were you once arrows
rớt xuống từ trời? fallen from blue?
Chiến sĩ nào hung dữ What terrible warriors
xô ngươi rơi? Phải chăng là tinh tú? cast you down? The stars?
Nhạc trong ngươi đến từ hồn chim Your music springs from the soul of birds,
đến từ mắt Thượng Đế from the eyes of God,
đến từ nồng nhiệt đam mê. from perfect passion.
Cây ơi! Trees!
Gốc rễ hung hăng ngươi có biết Will your tough roots know
tim ta đang vùi trong đất sâu? my heart in the soil?
(Bản dịch: Catherine Brown. Trees).
Đối với người dân quê, đời sống gắn liền với thời tiết, tình cảm vui buồn theo mùa màng. Chấp nhận những thiên tai như những hình phạt vì những tội trạng do họ tự hoang tưởng. Ngợi ca những ân phước của Thượng Đế khi được mùa , khi gia súc bình an, cũng do tưởng tượng mà ra. Tưởng tượng do đâu mà có? Do lòng sợ hãi. Tưởng tượng là một loại phương tiện của con người yếu đuối chống đối những bất hạnh. Lorca hít thở không khí này, cảm nhận này, hàng ngày ở vùng quê. Lớn lên với phong tục, lễ làng. Ghi đậm bởi tục ngữ, ca dao. Và ông mang cái "luận lý thiên tiên" vào tâm trạng phản kháng. Một thứ phản kháng lãng mạn của chân yếu tay mềm. Một thứ nhạy cảm: "bất bình cho thân phận" của tâm sự biết không làm được gì mà vẫn bức xúc. Federico Garcia Lorca đã bắt đầu dòng thơ của ông như vậy.
Tượng trưng, phải chăng là kết quả của tưởng tượng và liên tưởng? Trước hết phải bắt đầu từ một quan niệm và những giá trị của nhân sinh quan. Cái tượng trưng được "thế thân" cho đối tượng trong một giá trị trừu tượng nào đó. Giữa tượng trưng và đối tượng là sự tương quan hai chiều nhưng không nhất thiết phải giải thích cho nhau.
Tượng trưng không chủ yếu làm cho đối tượng rõ ràng hơn nhưng làm cho đối tượng dễ cảm nhận hơn trong một ý nghĩa, cảm nghĩa khó giải thích hoặc không muốn giải thích. Mục tiêu của tượng trưng là để người đọc giải thích, tự cảm thích lấy theo cá tinh , kiến thức và kinh nghiệm riêng tư. Không nhất thiết phải có cùng một ý nghĩa.
Sẽ không bao giờ Your lance
ngọn giáo will never wound
đâm trúng chân trời. the horizone.
Vì dãy núi The mountain
như tấm khiên is a shield
che chở. that guards it.
Đừng chiêm bao Do not dream
thấy mặt trăng chảy máu of the blood of the moon,
hãy ngủ yên. just rest.
Nhưng con đường, But, oh road, let
hãy để bước chân the soles of my feet
viếng thăm âu yếm với giọt sương. be caressed by the dew...
............................................... ..................
........................................ ..................
Đi quanh In all your travels
khắp thế giới round the world,
không tìm ra cư trú nơi nào you find no shelter,
không phải nghĩa địa, no cementery,
không phải liệm tang no shround,
cũng không phải yêu thương đầy trời nor will the air of love
để phục sinh tồn tại. (7) renew your being.
................................
(Bản dịch: Catherine Brown. The Road.)
Siêu Thực:
Cái luận lý thiên tiên gây bất bình thân phận là sợi xích móc nối thơ của Lorca thành một chuỗi dài với những bài thơ càng về sau càng xúc tích, càng vẫy vùng, càng cảm thương. Hình như những thi sĩ lớn đều là những người cảm nhận sâu sắc về sự thất bại của chính bản thân, cho dù bên ngoài nhìn vào, người ta thấy họ thành công. Sự thất bại của thi sĩ không phải là đời sống, không phải là tình yêu, không phải là công danh mà là sự thất bại của một người khao khát tìm ra
những gì mà bản chất rất mơ hồ. Mục tiêu của họ di động, chập chờn, lúc gần lúc xa. Tưởng có thể nắm bắt rồi lại trơn tuột. Cảm giác và ý tưởng không tìm được, đã dày vò họ và xúc động từ tâm sự này đã thúc đẩy thành thơ.
Những ý tứ thơ qua siêu thực đa phần là phi lý trong khuôn khổ suy tư bình thường. Những phi lý tìm thấy trong giấc mơ: đứt đoạn, vô nghĩa, biến hóa, không tuân theo một qui tắc thức tỉnh nào. Nói một cách khác, Siêu Thực diễn đạt những hình ảnh, cảm nhận hoặc linh cảm từ vô thức và giấc mơ. Phản kháng lại những cái nhìn thực tế và suy luận hữu lý. Siêu Thực đi sâu vào tâm lý của sáng tác lẫn thưởng ngoạn, kích thích sự xét lại của lý trí. Đánh dấu những nghi ngờ về giá trị hoặc niềm tin đương thời. Vì vậy, chỉ có những sự kiện phi lý sẽ làm cho con người dừng lại, giật mình, thoát ra những thói quen thường trực và những băng đóng của đời sống.
Tại sao con người thường thích sự quen thuộc?
Vì họ thấy có lý.
Tại sao con người thích có lý?
Vì họ cảm thấy an toàn.
Tại sao cần an toàn?
Vì bản chất của người là sợ hãi.
Đó là vì sao con người ít thích điều mới lạ. Bởi vậy khi bắt gặp điều phi lý, cảm giác sẽ bất bình thường, tư duy sẽ bắt đầu suy luận, khám phá để tìm lại sự có lý. Mãi cho đến giữa thế kỷ 19 sang thế kỷ 20, con người mới chấp nhận được vô thức. Với thuyết tâm lý của Sigmund Freud (1856-1939), con người mới ý thức được có những điều không cần phải có lý. Tự nó hiện hữu là đủ. Đúng ra, một nguyên lý căn bản cần phải chấp nhận, không cần phải lý giải, đó là: Hiện hữu là đủ. Cho dù là một ảo giác, một quan niệm, một phi lý...v...v..nếu nó đã hiện ra và có mặt là đủ để chấp nhận.
Những phi lý trở thành những cảm nhận không cần lý giải khi nắm rõ nguồn cội của vô thức và động năng tâm lý. Trên khía cạnh triết lý, nếu suy tư sâu rốt ráo, có thứ lý gì trên cõi sống mà hữu lý?
Thật là cố gắng!
Con ngựa đã cố gắng hết sức
hóa thành con chó!
Con chó đã cố gắng hết sức hóa thành chim nhạn!
Chim nhạn đã cố gắng hết sức hóa thành con ong!
Con ong đã cố gắng hết sức hóa thành con ngựa!
Rồi con ngựa,
ôi, mũi tên bén nhọn giục giã từ hoa hồng,
ôi, hoa hồng u sầu nở từ cánh đỏ!
Rồi hoa hồng,
ôi, một chùm ánh sáng và tiếng khóc
mắc dính vào nhựa sống từ thân cây! (3a)
Rồi nhựa sống,
ôi, những dao nhọn mơ trong thức tỉnh!
Rồi dao nhọn,
ôi, vô gia cư, trăng trơ trọi,
dao đi tìm trăng muôn thuở ánh hồng!
Còn tôi, trên mái nhà mấp mé
Ôi, thiên sứ cháy tàn biết tìm đâu!
Nhưng vòm cao,
rộng lớn quá, vô hình quá, khoảnh khắc quá,
không chút nào cố gắng hóa thân! (8)
Khi những ý tứ và cảnh tượng phi lý lại có khả năng làm cho người cảm nhận sát hơn giá trị và ý nghĩa của đời sống, thì siêu thực là phương tiện đưa tâm hồn tiếp cận trừu tượng và siêu hình. Khác với bài giảng và thần học luận, triết học luận, siêu thực không nhắm vào khả năng tiếp nhận của hiểu biết, mà nhắm vào khả năng nhạy cảm và khả năng bộc phát của trực giác. Ví như bài: Gacela del recuer del amor.
Đừng mang ký ức theo em Don't take your memory with you.
để cho ký ức êm đềm tim anh, Let it stay here in my heart,
run run Đào trắng lá xanh a shivering white cherry tree
lạnh vò thống khổ lòng cành tháng Giêng. in the torment of January.
Cách chia sống chết hai miền I'm divided from the dead
ngăn anh là vách muộn phiền chiêm bao. by a wall of bad dreams.
Hoa Chuông dâng tặng sầu đau I give the pain of fresh lillies
cho tim vô cảm thạch cao vô tình. to a heart made of plaster.
Suốt đêm vườn quả rập rình All night in the orchard
đăm đăm đôi mắt như tình chó canh. my eyes are like two dogs.
Suốt đêm ngấm độc vào anh All night I am eating
như ăn quả Mộc cũng đành hư hao. poisonous quinces.
Đôi khi gió thổi, vì sao Sometimes the wind
Uất Kim Hương lại là sầu hãi kinh, is a tulip of fear;
Một cành Uất Kim Hương xinh a sickly tulip
đớn đau buổi sớm rùng mình mùa đông. on a winter morning.
Chiêm bao sợ hãi tình không A wall of bad dreams
cách chia cõi chết vách lòng tử sinh. divides me from the dead.
Cỏ xanh lặng lẽ vô tình The grass quietly covers
mọc buồn thung lũng u minh mộ phần. your body's grey valley.
Vòm cao hò hẹn một lần Round the arch where we met
giờ cây cao mọc che dần bóng đen hemlock grows.
Đừng mang ký ức theo em But don't take your memory with you,
để cho ký ức êm đềm tim anh. let it stay here in my heart.
(Gacela Mối Tình Hồi Tưởng) (9) (Bản dịch: Paul Archer.
Gacela: The Memory Of Love)
Federici Garcia Lorca tạo cho mình một chỗ đứng riêng trong thi ca thế giới vì khả năng hài hòa những kiến thức đã lĩnh hội và khả năng thử nghiệm những kiến thức này để trở thành những cảm nghiệm riêng tư. Với tài năng bẩm sinh nghệ thuật sáng tạo, ông đã thành toàn một nghệ thuật làm thơ rất đặc thù. Cái tổng thể chung để diễn đạt này, gọi là Ngữ Lực của Lorca.
2. NGỮ LỰC TRONG THƠ LORCA.
Ngữ lực không phải là khả năng đặc thù nhưng là khả năng đặc biệt của thi sĩ. Một người làm thơ chưa đạt được trình độ ngữ lực của cá tính và tư chất, thì chưa có thể làm thi sĩ.
Ngữ lực gồm có hai khả năng: Một là khả năng diễn đạt của sáng tác. Hai là khả năng đả thông thưởng ngoạn. Và tài năng để đánh giá hai khả năng này chính là sáng tạo.
Nói nôm na, ngữ lực là sức mạnh của ngôn ngữ mà thi sĩ dùng để trình bày những sâu kín trong tâm tư và truyền qua cảm nhận của người đọc. Trong ngữ lực có ngữ thuật và diễn lực.
Khi làm thơ, Lorca sử dụng ngôn ngữ khá bình thường, không cầu kỳ cũng không trau chuốt quá mỹ từ pháp. Nhưng diễn lực của ông là chữ nghĩa cưu mang những suy tư thâm trầm, những cảm nhận nhạy bén và ngữ thuật của ông mang đặc tính của thơ Tây Ban Nha và thơ Tượng Trưng cũng như thơ Siêu Thực, đã trình bày một phần bên trên.
- Vượt ra ngoài những kỹ thuật định danh đó, thơ Lorca thường thấy những kỹ thuật thường dụng như Đối Tứ.
Hai hình ảnh hoặc hai cảnh tượng tương phản hoặc liên kết hoặc tiếp diễn để diễn đạt "ý tại ngôn ngoại", những ý không nằm trong chữ. Có khi là một chuỗi hình ảnh hoặc tứ cảnh để thao diễn những đối tượng trừu tượng.
Giữa đàn bướm đen Among black butterflies
thấy nàng da đen goes a dark girl
bên dãy sương mù beside a white serpent
hình con rắn trắng (10) of mist.
(Bản dịch: Cola Franzen, The Passage of the Siguiriya.)
Ciprés Tùng Bách
(Agua estancada.) (Nước đọng.)
Chopo Bạch Dương
(Agua cristalina.) (Nước trong.)
Mimbre Dương Liễu
(Agua profunda.) (Nước sâu.)
Corazón Trái tim
(Agua de pupila.) (Bong bóng nước.)
( Remanso)
Cada canción Mỗi bài hát
es un remanso là mỗi vũng đọng
del amor. tình yêu.
Cada lucero Mỗi ngôi sao
es un remanso là mỗi vũng đọng
del tiempo. thời gian.
Un nudo Mỗi thời gian
del tiempo. thắt nút.
Y cada suspiro Mỗi hơi thở
un remanso là mỗi vũng đọng
del grito tiếng thét la.
(Sigue)
- Một kỹ thuật khác mà ông thường sử dụng là Lập Lại: lập lại một cụm từ, gọi là Láy. Lập lại câu, gọi là Nhái. Nếu lập lại câu hoặc đoạn với mục đích nối tiếp, bắt cầu, gọi là Đệm. Những lúc đệm là lúc móc nối hoặc rẽ lối trong bài thơ dài. Nói chung, sự Lập Lại dùng để nhấn mạnh, gây ấn tượng, gây ảnh hưởng tâm lý và để có thể tạo ra những cảm giác, ví dụ như khó chịu vì bị lập lại nhiều lần nhưng sau cảm giác khó chịu là cảm nhận đả thông.
Ví dụ khác như cảm giác ghê rợn lẫn thương cảm khi ông tiếp tục lập đi lập lại câu thơ: a las cinco de la tarde. (Đúng 5 giờ chiều.). Câu thơ này dội lên sự ngạc nhiên rồi chuyển qua khó chịu rồi dội lại thương cảm. Trong trường ca Llanto Por Ignacio Sánchez Mejía, Điếu Ca cho Ignacio Sánchez Mejía. Trong khúc mở đầu, La Cogida y la Muerte, Đấu Bò và Cõi Chết, sau mỗi câu thơ ông đều lập lại câu " Đúng 5 giờ chiều". Đó là giờ bắt đầu khâm liệm xác của Ignacio Sánchez Mejías. Khúc này tổng cộng 52 câu. Ông lập lại câu " Đúng 5 giờ chiều" tất cả là 26 lần. Ignacio vừa là người đầu bò nổi tiếng trong lịch sử đấu trường ở Tây Ban Nha, vừa là một nghệ sĩ, vừa là tình nhân của ông. Sự qua đời bất ngờ vì tai nạn nghề nghiệp của Ignacio đã sâu nặng vết thương lòng Lorca. Trường Điếu Ca này trở thành một trong những trường ca hay nhất của Tây Ban Nha và của văn chương thế giới. (Xem bài Điếu Ca trong phần II.).
Kỹ thuật lập lại là một kỹ thuật đã có từ thời xa xưa. Lúc đó, đám đông người nghe thuộc hạng bình dân, mù chữ nên họ yêu thích nghe kể chuyện. Vì vậy, xuất hiện một tầng lớp người đọc thơ dạo. Họ đi khắp thôn xóm và kể lại những sử thi, những thiên anh hùng ca, có truyện, có bài dài cả hàng ngàn câu. Người kể phải lập lại những đoạn, những câu thơ quan trọng để hấp dẫn người nghe và cũng để người nghe mới tiện việc theo dõi.
Lorca sử dụng kỹ thuật lập lại này và phối hợp với thể hát dân gian. Những bài hát luôn luôn có điệp khúc, những chữ láy và những câu nhái. Ông sử dụng kỹ thuật lập lại rất tài tình, làm cho thưởng ngoạn chú ý và theo sát bài thơ, nhất là những bài thơ dài.
Láy: Cụm từ: " se desvanecen", "Sólo queda el desierto".
Los laberintos Phố chợ
que crea el tiempo, thời gian
se desvanecen. tiêu tan.
(Sólo queda ( Chỉ sa mạc
el desierto.) tồn tại ).
El corazón, Trái tim
fuente del deseo, nguồn mơ
se desvanece. tiêu tan.
(Sólo queda ( Chỉ sa mạc
el desierto.) tồn tại ).
La ilusión de la aurora Bình minh hy vọng
y los besos, và nụ hôn,
se desvanecen. tiêu tan.
Sólo queda Chỉ sa mạc
el desierto. tồn tại.
Un ondulado Sa mạc
desierto. dậy sóng.
Cách sử dụng Láy của Lorca có dấu ấn đặc biệt. Nhiều khi ông chỉ láy có một chữ. Người đọc sẽ bị chữ lập lại này đưa đến câu hỏi: Có ý gì? và câu trả lời dẫn đến một cảm nhận về một lý do trừu tượng bên trong. Ví dụ như láy chữ amarilla, amarillo (màu vàng).
En la torre Từ lầu cao
amarilla màu vàng
dobla una campana. hồi chuông đổ.
Sobre el viento Theo cơn gió
amarillo màu vàng
se abren las campanadas. nhạc chuông nở hoa (11)
En la torre Trên lầu cao
amarilla màu vàng
cesa la campana. chuông ngưng tiếng.
El viento con el polvo Gió thổi bụi mờ
hace proras de plata. như bóng ma ảm đạm. (12)
( Campana)
Nhái câu:
Me miré en tus ojos Anh thấy anh trong mắt em
pensando en tu alma. băn khoăn nghĩ đến hồn em nơi nào.
Adelfa blanca. Ôi, trắng ơi ngọn Trúc Đào.
Me miré en tus ojos Anh thấy anh trong mắt em
pensando en tu boca. chợt thương nhớ nụ hôn mềm ngày nao
Adelfa roja. Ôi, đỏ ơi ngọn Trúc Đào.
Me miré en tus ojos Anh thấy em trong mắt em
Pero estabas muerta! thấy vào cõi chết người thêm u sầu.
Adekfa negra. Ôi, đen ơi, ngọn Trúc Đào.
(Remansillo)
Đệm đoạn:
Sobre el cielo Dưới trời hoa cúc
de las margaritas ando. Tôi đi.
Yo imagino esta tarde Tưởng tượng hôm nay
que soy santo. Tôi là thần thánh.
Me pusieron la luna Họ đặt mặt trăng
en las manos. vào giữa đôi tay.
Yo la puse otra vez Tôi treo mặt trăng
en los espacios, vào giữa vũ trụ.
y el Senor me premió Thượng Đế thưởng tôi
con la rosa y el halo. hoa hồng, hào quang.
Sobre el cielo Dưới trời hoa cúc
de las margarita ando. Tôi đi.
Y ahora voy Bây giờ tôi sẽ
por este campo. xuống cánh đồng này
A librar a las ninas cứu trẻ thơ ngây
de galanes malos thoát tay kẻ dữ
y dar monedas de oro đang phát tiền vàng
a todos los muchachos cho những cậu trẻ.
Sobre el cielo Dưới trời hoa cúc
de las margaritas ando. Tôi đi.
( Cuatro baladas amarillas)
- Từ thi ca truyền thống của tây ban Nha bước vào Tượng Trưng, Lorca thường sử dụng một kỹ thuật khá xưa và thay vào những chi tiết cách tân. Ông nhân cách hóa sự kiện, sự vật; ông tâm sự hóa cảnh tượng, thú vật thậm chí lá quan niệm để diễn đạt thơ.
La Balada Del Agua Del Mar Bài Ca Nước Biển
El mar Biển
sonríe a lo lejos. cười từ xa.
Dientes de espuma, Răng bọt trắng
labios de cielo. môi đường chân trời.
¿Qué vendes, oh joven turbia Này cô hầu lảm cẩm, cô bán thứ gì
con los senos al aire? với đôi vú chìa ra chống gió?
Vendo, señor, el agua Thưa ông, em bán
de los mares. nước biển.
¿Qué llevas, oh negro joven, Này cô da đen, cô mang theo thứ gì
mezclado con tu sangre? để pha màu máu đậm?
Llevo, señor, el agua Thưa ông, em mang
de los mares. nước biển
Esas lágrimas salobres Mẹ ơi, dòng nước mắt mặn
¿de dónde vienen, madre? đến từ đâu?
Lloro, señor, el agua Con ạ, mẹ khóc
de los mares. nước biển
Corazón, y esta amargura Tim ơi, nấm mồ cay đắng này
seria, ¿de dónde nace? do đâu mà có?
¡Amarga mucho el agua Đắng cay
de los mares! do nước biển.
El mar Biển
sonríe a lo lejos. cười từ xa.
Dientes de espuma, Răng bọt trắng
labios de cielo. môi đường chân trời.
Về cách trình bày bài thơ, ông thường dùng hình thức chuỗi thơ thường thấy trong truyền thống thi ca Âu Châu. Nhưng trong chuỗi thơ của ông đa phần những đoạn thơ không liên tục, chỉ có tính cách tập hợp. Mỗi đoạn thơ trình bày mỗi khía cạnh, mỗi tâm tình và nhiều đoạn cho thấy tổng thể của bài thơ. Ông thường gọi là Ca khúc hoặc Tổ khúc.
Ngữ lực đến từ tích lũy kiến thức và thực tập lâu ngày cho đến khi trở thành kinh nghiện thuần thục. Nói một cách khác là không phải suy nghĩ khi sáng tác. Ngữ lực đến tự nhiên khi cần thiết. Nói một cách khác nữa, ngữ lực luôn luôn phải là ngữ lực của ai. Ngữ lực của mỗi thi sĩ thành danh đều đặc thù.
Ngữ thuật chính là chiêu thức, cách bày bố ngôn ngữ và ký hiệu. Diễn lực mới là nội lực để bày tỏ và thuyết phục.
Diễn lực là sức mạnh âm thầm liên kết, nhào trộn ngữ thuật để diễn đạt. Diễn lực thành tựu ra sao là do sức mạnh sáng tạo đi qua cá tính mà thành hình. Khả năng sáng tạo mạnh và bốc thì tác giả sáng tác nhiều và xuất thần. (Mời đọc tập tùy luận Nháp và Nốt 1 & 2 của Ngu Yên.)
Diễn lực của Federico Garcia Lorca ở trong trường hợp này. Ông sáng tác khỏe, chẳng những thơ, bài viết còn sáng tác kịch bản và dàn dựng cho sân khấu kịch nghệ. Ông qua đời sớm nhưng để lại nhiều tác phẩm được giới thưởng ngoạn ngưỡng mộ.
Diễn lực của Federico Garcia Lorca đưa thơ của ông đến bản chất và nội dung Thấm và Thấu nhiều hơn là Thường. (Xin đọc bài Thường Thấm Thấu trong tác phẩm Nháp và Nốt, tập 2.).
Bản chất và nội dung Thấm có lẽ chiếm hầu hết phần trăm trong dòng thơ của ông. Bởi lẽ, tượng trưng và siêu thực đều chủ yếu trình bày những ý niệm và tư duy về trừu tượng, nhân sinh, triết học, siêu hình.....Do đó, bài thơ cần có thời gian để thẩm thấu, để tiêu hóa.
THẤM chính là nơi tìm hiểu nội lực của Federico Garcia Lorca. Nhận xét chung trong thi ca, Thấm và Thấu là hai yếu tính của thơ. Thấm thường thấy trong thơ Tây Phương. Thấu thường thây trong thơ Đông Phương. Thấm đến từ cảm lý rồi tư duy. Thấu đến từ cảm nghiệm bởi trực giác hoặc linh cảm. Vượt qua thời kỳ Hậu Hiện Đại, khi triết học và văn học giữa Đông và Tây đã giao hòa, thơ hôm nay gôm cả hai yếu tính Thấm và Thấu.
3. TÁC PHẨM.
Nhân đi qua tác phẩm của Federicio Garcia Lorca, chúng ta sẽ dừng chân ở những điểm mốc quan trọng trong cuộc đời của ông và chiêm nghiệm chất Thấm trong những bài thơ ví dụ dọc theo con đường sáng tác.
Năm 11 tuổi, gia đình ông dời về thành phố Granada. Bắt đầu tiếp xúc với đời sống phố thị. Trong giai đoạn mới lớn, ông yêu thích âm nhạc hơn thi ca. Học chơi dương cầm và ngưỡng mộ những tài năng cổ điển như Beethoven, Chopin, Debussy...Năm 1920, khi bước vào thi ca ông trở thành bạn thân với nhà soạn nhạc Manuel de Falla, nhạc dân ca Spanish.
Từ năm 1919, nhân dịp thường ghé chơi quán Càfé Alameda trong phố Granada, ông có dịp gặp gỡ những tài năng văn nghệ trong nhóm El Rinconcillo. Một trong những giáo sư của đại học của Granada, ông Don Fernando de los Rios, là thủ lãnh của đảng xã hội Tây Ban Nha, thuyết phục cha mẹ của Federico cho ông vào chương trình học Residencia de Estudiantes tại Madrid. Nơi đây ông đã được làm quen với những tư tưởng tự do của đảng xã hội cấp tiến. Qua con đường này, ông đã tiếp xúc và phát triển vào nền văn chương hiện đại của thế giới. Ông giao du với những tên tuổi thời danh trong mọi lãnh vực như hội họa, thi ca, tiểu thuyết, điêu khắc....như Claudel, Valéry, Cendras, Max Jacob.......và thi sĩ nổi tiếng của Tây Ban Nha thời đó là Juan Ramón Jiménez.
Nhưng phải nói đến ba người bạn thân đã ảnh hưởng đến cuộc đời và sự nghiệp nghệ thuật của Lorca là thi sĩ Rafael Alberti, họa sĩ Salvador Dalí và nhà sản xuất phim ảnh Luis Bunel. Nhất là Dalí. Lorca là người đồng tính luyến ái nên đối với Dalí là một mối tình vượt lên tình bằng hữu. Sự hiện diện và sự rời bỏ của Dalí trong đời của Lorca là những thời điểm hạnh phúc và sóng gió đã để lại một thiên thơ ca Oda a Salvador Dalí.
Trích:
Trên tất cả tôi hát cho suy tư thường nhật
cùng bên nhau thời u ám hay huy hoàng.
Nghệ thuật không phải là ánh sáng mù quáng.
Đó là tình, là bằng hữu, là ngôn ngữ thần giao.
..........................
Pero ante todo canto un común pensamiento
que nos une en las horas oscuras y doradas.
No es el Arte la luz que nos ciega los ojos.
Es primero el amor, la amistad o la esgrima. (9)
.............................
Thơ theo thứ tự thời gian sáng tác cho đến khi ông qua đời, cho người đọc nhìn thấy tiến trình của một hồn thơ đi từ cảm nhận bén nhạy với đời sống nhưng không bi quan, rồi biến chuyển thành tư duy sâu thẳm với hình ảnh u ám và cảm nhận thất vọng. Sự phát triển đó là hành trạng tự nhiên của một người đi sâu vào nghệ thuật. Phải chăng nghệ thuật là cái cuốc để người nghệ sĩ đào sâu vào lòng đời? Để cái hố sâu này trở thành huyệt mộ của chính anh ta?
Tập thơ đầu tiên LIBRO DE POEMAS, Book of Poems. Gồm những bài thơ từ năm 1918-1920. Ấn hành năm 1921. Đa số nghiên về suy tư tôn giáo, thiên nhiên, nỗi cô đơn và những ám ảnh thời thơ ấu. Trong giai đoạn này, thơ ông mang nhiều tượng trưng, ẩn dụ. Nhưng chưa đậm nét tinh thần phi lý của siêu thực. Như những bài: Corazón nuevo, Con Tim Mới; Árboles, Cây; Cantos nuevos, Bài Hát Mới............ Ngôn ngữ và hình ảnh còn nhẹ nhàng, "dửng dưng" đại diện cho ý tứ. Khác với sau này, ngôn ngữ và hình ảnh thơ của ông rất cô đọng, kịch liệt và đôi khi cực đoan, tạo nên TRỌNG LƯỢNG cho ý và tứ thơ. Tiến trình của thi sĩ thường như vậy. Ngôn ngữ, câu cú lúc ban đầu thường bay bướm, rực rỡ, có thần nhưng là ngôn ngữ chung. Tài năng của thi sĩ có thể diễn đạt từ ngữ, hành văn đúng nghĩa, đúng giá trị của ngôn ngữ mà ai cũng có thể hiểu. Nhưng phải đợi đến khi thi sĩ tìm ra ngôn ngữ riêng của họ. Cũng ý nghĩa đó, cũng giá trị đó mà từ ngữ, câu cú thuộc về từ điển khác, từ điển đặc thù của thi sĩ. Đó cũng là lý do tại sao thi sĩ càng phát triển khả năng làm thơ, càng lớn lên, thơ họ càng khó hiểu.
Qua những tứ tượng trưng, ngôn ngữ chung của Lorca đã mang đến cho thơ ông một sắc thái âm u. Một thứ nhân sinh quan của tâm hồn nhạy cảm phải đối diện với bẫy rập cuộc đời. Có thể nói, ở thời điểm này ông đã thành danh thi sĩ nhưng chưa đạt đến mức công phu và nặng ký. Khi tác phẩm này ra đời, ông đang khởi sự tập thơ Suites, với những khai phá mới, ông nhận định về tập thơ đầu tay trong lá thư gửi cho cha mẹ ông, tháng 4 năm 1921:" Những bài thơ đầu tay, dù đánh giá như thế nào đi nữa, vẫn thú vị và chân thật."
..........................
Giờ này, mặt trời đã lặn The sun has dissolved now
sau đỉnh ngọn đồi, on the crest of the hill,
đám đông trở về and returning flocks
khuấy tung cát bụi. stir up the dust.
Đến giờ phải đi. It's time to go.
Theo đường mòn nhỏ, Leave this narrow path,
bỏ lại trầm tư. leave off your meditation.
Bạn sẽ có giờ You'll have time later
ngắm sao to look at the stars
chờ trùng tiêu chậm as the worms consume you
trong bao tử. slowly.
Hãy trở về nhà Back to your house
dưới ngôi làng dế under the cricket village!
Chúc ngủ ngon Good night, Mr. Lizard.
hỡi bạn thằn lằn! friend!
........................
(Trích bản dịch: The Old Lizard. Catherine Brown. Nguyên tác: El lagarto viejo, 1920.)
Tìm hiểu bản chất và nội dung Thấm của thơ ông trong thời kỳ này qua bài thơ El concierto interrumpido, Đêm Nhạc Không Hòa Điệu.
Ha roto la armonía Trong đêm sâu thăm thẳm
de la noche profunda, cảnh vật không hòa âm
el calderón helado y soñoliento ngưng đọng dừng ngái ngủ
de la media luna. trăng lên chừng nửa vầng.
Las acequias protestan sordamente Từ lạch mương phản đối im lặng
arropadas con juncias, bao trùm lên lau sậy đứng im,
y las ranas, muecines de la sombra, và ếch nhái, chuyên báo tin bóng tối,
se han quedado mudas. đã dường như mỏi mệt im lìm.
En la vieja taberna del poblado Từ quán rượu trong ngôi làng cũ
cesó la triste música, Điệu nhạc buồn lịm tắt theo ngày
y ha puesto la sordina a su aristón rồi những ngôi sao già nua nhất
la estrella más antigua. cũng mờ dần theo tiếng đàn Quay.
E1 viento se ha sentado en los torcales Gió lắng vào khe động
de la montaña oscura, trong núi rừng mịt mờ,
y un chopo solitario - el Pitágoras Cây Bạch Dương hiu quạnh
de la casta llanura - giữa đồng hoang như Pythagore
quiere dar con su mano centenaria, vói bàn tay trăm tuổi
un cachete a la luna. tát mặt trăng lơ mơ.
(El Concierto interrumpido)
Chất Thấm trong những bài thơ đầu tay không sâu lắm. Không có nhiều lớp để nghiền ngẫm. Nhân sinh quan của người trẻ chưa quay quắt tình đời. Thơ ông nặng về phần tượng trưng cho cảm giác. Thơ ở tuổi trẻ thường nhiều sinh khí.
Qua đến tập POEMA DEL CANTE JONDO , Poem of the Deep Song. Gồm những bài thơ bắt đầu từ tháng tám năm 1921. Hơn một nửa số thơ, ông sáng tác trong thời gian ngắn: 10 ngày, từ ngày 11 đến 21 tháng 11. Ông tự nhận định rằng, trong tập thơ này, ông đã sử dụng nhiều thể hát, thể dân ca truyền thống Tây Ban Nha. Cưu mang ở đây nhiều hình ảnh và tinh thần tình tự dân tộc.
Nhưng đây cũng là lúc Lorca và một số thi sĩ tiền phong ở tây phương bắt đầu hưởng ứng phẩm chất của những bài thơ ngắn. Tinh thần thơ Hài Cú của Nhật đang được sáng tác và lan rộng khắp Âu Châu. Ngôn ngữ Hài Cú cô đọng. Tứ Hài Cú khơi động tâm linh. Ý hài Cú thâm thúy theo kiểu Đông Phương. Phong cách này làm kinh ngạc và thuyết phục những thi sĩ đương thời. Lorca nắm bắt phong cách này nhanh chóng vì bản chất yêu thiên nhiên của ông rất thích hợp với Hài Cú. Thơ ông đã sẵn có tính gợi ý từ những tứ tượng trưng. Những bài thơ ngắn của ông rất thành công, được đưa vào nhiều tuyển tập thơ thế giới. Bài thơ El gran espejo được viết trong tinh thần Hài Cú. Thơ Hài Cú thường ngã về Thiền hoặc Phật môn. Lorca viết về đạo Ky-tô. Câu kết Hosanna, bức xé được tinh thần Hài Cú.
Vivimos Sống
bajo el gran espejo. dưới tấm gương soi mênh mông
El hombre es azul! ôi, làm người là sầu thảm!
Hosanna! lạy Chúa tôi!
(El gran espejo)
Bài Las seis cuerdas theo tinh thần và thể thơ ngắn bị ảnh hưởng bởi thơ phương Đông, thơ Đường, Thơ Ấn nhưng rất cá tính Lorca-Tay Ban Nha.
Las seis cuerdas Sáu Dây Đàn
La guitarra Đàn Ghi-ta
hace llorar a los sueno. ru chiêm bao ứa lệ.
El sollozo de las ahmas Tiếng thổn thức
perdidas từ linh hồn lạc loài
se escapa por su boca thoát ra cửa miệng
redonda. tròn.
Y como la tarántula, Rồi như con nhện lớn
teje una gran estrella giăng tơ hình ngôi sao
pata cazar suspiros, lưới bắt từng hơi thở
que flotan en su negro phiêu bồng qua thùng gỗ
aljibe de madera. đen.
Bản chất và nội dung của Thấm trong tập thơ này cũng tương tựa như tập thơ đầu tay. Tuy đã có phần già dặn hơn như trong bài La guitarra (Đàn Ghi-ta), De Poema de la Saeta ( Từ Thơ Về Mũi Tên), .... Ở vào thời điểm này, dường như sự phản kháng về tôn giáo thường đến với ông. Đa số nghệ sĩ khó lòng đi theo con đường tôn giáo có nhiều giáo điều và đòi hỏi lòng tin triệt để. Sự yêu chuộng tự do khó thích hợp với lễ nghi và sự trừng phạt. Sự phóng túng khiến cho nghệ sĩ không thể bó mình trong những giáo điều. Nhưng trên hết, nghệ sĩ là những người nhạy cảm và nắm được sự "giả tạo" của đời sống. Khó có thể tin vào một Thượng Đế quyền uy, bác ái , công bằng lại có thể để những sự việc khổ nạn xẩy ra. Chính Thượng Đế tạo ra những tội lỗi, những đau khổ, những xấu xa rồi giải thích bằng những lý do bất khả tư nghị.
Saeta Mũi Tên
Cristo moreno Ông Christ da ngâm đen
pasa đi qua
de lirio de Judea hoa Kèn Judea
a clavel de España. Cẩm Chướng Tây Ban Nha
¡Miradlo, por dónde viene! Hãy nhìn xem, ông đến!
De España. Từ tây Ban Nha.
Cielo limpio y oscuro, Bầu trời trong và tối
tierra tostada, mặt đất dần dần mờ,
y cauces donde corre và dòng nước
muy lenta el agua. chảy chậm rãi.
Cristo moreno, Ông Christ da ngâm đen
con las guedejas quemadas, tóc quăn dài
los pómulos salientes gò má cao
y las pupilas blancas. mắt xanh lợt.
¡Miradlo, por dónde viene! (15) Hãy xem kìa, ông đi!
Có lẽ mỗi người đọc sẽ có mỗi câu trả lời về nhân vật trong bài thơ. Ông Christ là ai?. Có phải là Jesus Christ de Nazareth? Nhưng sao lại da ngâm đen? Sao lại đến từ Tây ban Nha? Hai câu thơ: de lirio de Judea / a clavel de Espana, sẽ khiến cho người đọc tìm Thấm phải suy tư.
Tuyển tập thơ thứ ba của ông là SUITES, vẫn còn dở dang khi ông qua đời. Mãi đến năm 1983 mới ấn hành. Vào năm 1923 trở đi, Lorca đã trở thành ngôi sao trong làng thơ ở Tây Ban Nha. Giai đoạn này là giai đoạn quan trọng trong tiến trình sáng tác, ông khám phá ra con đường thơ mà ông sẽ phải đi. Tác phẩm quan trọng đánh dấu ngả rẽ này là chuỗi thơ: En el jardín de las toronjas de luna ( Trong Vườn Trăng Trái Bưởi (13) ).
Mùa hè năm 1923, trong một lá thư gửi cho người bạn, Lorca giải thích về Vườn Trăng Trái Bưởi: " Khu vườn của tôi là khu vườn có thể có, một khu vườn của những gì chưa thấy, nhưng có thể đã hiện hữu, một khu vườn cho những đứa trẻ vô hình chưa được sinh ra...."
El Jardin Khu Vườn
Jamás nació, ¡jamás! Chưa bao giờ, ôi, chưa bao giờ thấy!
Pero pudo brotar. bất cứ lúc nào cũng có thể hiện ra.
Cada segundo se Mỗi giây phút
profundiza y renueva. mỗi nôn nao lộ diện.
Cada segundo abre Mỗi phút giây
nuevas sendas distintas. nghe đồn đãi lối đi.
¡Por aquí! ¡Por allí! Ở nơi này! Ở nơi kia!
Va mi cuerpo multiplicado. khu vườn ở khắp chốn.
Atravesando pueblos Băng ngang qua thị trấn
O dormido en el mar. hay chôn vùi biển sâu.
¡Todo está abierto! Existen Khắp nơi đều có thể
Llaves para las claves. Ổ khóa mở dễ dàng.
Pero el sol y la luna Nhưng đôi vầng nhật nguyệt
nos pierden y despistan, đã lừa dối chúng ta.
Y bajo nuestros pies Vì dưới đôi chân bước
se enmarañan los caminos. rối mù những con đường.
Aquí contemplo todo Cho tôi nhắn tin mới
lo que pude haber sido. Khu vườn có thể là
Dios o mendigo, ăn mày hay Thượng Đế
agua o vieja margarita. hoa cúc hay nước trôi.
Mis múltiples senderos Đường đến muôn vạn nẻo
teñidos levemente nhưng chỉ thấy mờ mờ
hacen una gran rosa hóa thành hoa hồng lạ
alrededor de mi cuerpo. quẩn quanh khu vườn tôi.
Como un mapa imposible, Bản đồ dẫn sai lạc
el jardín de lo posible. khu vườn có thể tìm.
Cada segundo se Từng giây từng phút một
profundiza y renueva. nôn nao muốn hiện thân.
Jamás nació, ¡jamás! Chưa bao giờ, ôi, chưa bao giờ thấy!
¡Pero pudo brotar! (17) coi chừng hiện ra bất cứ lúc nào!
Bài thơ này dẫn người đọc đến một nơi trừu tượng mà Lorca đã khám phá ra, một cõi riêng mà ông đã chọn để làm nghệ thuật. Bắt đầu từ thời điểm này, thơ của ông rẽ vào con đường suy tư sâu thẳm hơn, cảm xúc bi quan hơn và không khí nghệ thuật của các tác phẩm huyền hoặc hơn.
Tác phẩm tiếp theo là CANCIONES, 1921-1924, gồm những bài thơ mang bản chất ca khúc hoặc tổ khúc như những tập thơ trước, dĩ nhiên là đậm đà hơn và "khó hiểu" hơn.
Verlaine Verlaine
La canción, Bài ca
que nunca diré, chưa bao giờ hát
se ha dormido en mis labios. trên đầu lưỡi ngủ say.
La canción, Bài hát
que nunca diré. chưa bao giờ ca.
Sobre las madreselvas Trên cành Kim Ngân
había una luviérnaga, đom đóm nhấp nháy
y la luna picaba trăng đùa mặt nước
con un rayo en el agua. nhúng ướt ánh trăng.
Entonces yo soné, Là lúc tôi mơ mòng
la canción, bài ca
que nunca diré. chưa bao giờ hát.
Canción llena de labios Bài hát trào qua môi
y de cauces lejanos. nổi trôi viễn xứ.
Canción llena de horas Bài ca vui qua giờ
perdidas en la sombra. khi nghỉ chân bóng mát.
Canción de estrella viva Bài hát làm ngôi sao sống lại
sobre un perpetuo día.(18) giữa trời cao bất tận nắng ngày.
Bài ca mà ông định hát là bài ca gì? Có phải là bài hát để ngợi ca thi tài của Verlaine? " Trăng đùa mặt nước, nhúng ánh trăng", phải chăng là thái độ của người nghệ sĩ đến trần gian? "...ngôi sao sống lại, giữa trời cao bất tận nắng ngày", phai chẳng thơ của Paul Verlaine ở mãi với chúng ta cho đến hôm nay và ngày mai...? Có thể kết luận chung rằng thơ Siêu Thực là thơ của chất Thấm. Nó đòi hỏi người đọc phải cưu mang bài thơ, câu thơ theo thời gian. Có khi chẳng bao giờ cảm nhận được. Nhờ bản chất thấm này mà chúng ta có thể phân định được thơ Siêu Thực và thơ nhái siêu thực. Thơ nhái siêu thực chỉ có chữ mà không có thấm. Nhái siêu thực là nhái ngôn ngữ, nhái hình ảnh, nhái bộ dạng. Không nhái được chiều sâu của tứ thơ. Hôm nay, người ta thường nhân danh Hậu Hiện Đại, một loại hiện đại lạm dụng, để nhái những bài thơ thấm và thấu bằng ngôn từ dao giấy. Đâm vào lòng thơ, không chảy máu.
Tác phẩm tiếp theo là tập thơ PRIMER ROMANCERO GITANO, 1924-1927, Tình Ca Du Mục Gypsy. tác phẩm này vừa là một thành công lớn vừa là một thất bại của tâm tình. Gồm những bài thơ viết theo thể Ballad, một thể thơ truyền thống của Tây Ban Nha. Một thể thơ bình dân mang bản chất kể chuyện, có nguồn gốc từ ca vũ khúc, đến từ Pháp. Trong thời điểm này, thể thơ Ballad vẫn thịnh hành ở Tây Ban Nha. Khi những bài thơ này ra đời, ông đã được đón tiếp nhiệt liệt. Vị trí thi sĩ của ông càng vững vàng và sáng tỏ trên văn đàn tây Ban Nha. Người dân ở những vùng thôn quê tụ tập đọc thơ ông trong những ngày lễ lạc. Trong lúc sự thành công rất rạng rỡ, lòng ông lại đau buồn. Người bạn thân, người tình, họa sĩ Salvador Dalí, công khai chỉ trích những bài thơ này. Có phải chăng vì sự trở về nguồn của Lorca đã làm cho ông cách biệt với phong thái càng ngày càng hiện đại của Dalí?
Con đường phát triển nghệ thuật của một nghệ sĩ thường có thể biểu hiện bằng đường zích-zắc. Zích lên là giai đoạn tiến tới hiện đại. Zắc xuống là giai đoạn lui về truyền thống. Nội tâm của nghệ sĩ luôn luôn có sự giằng co giữa truyền thống và cách tân. Khi sáng tạo và khám phá đẩy sáng tác đi tới, đi lên, tiếp cận với nghệ thuật tiền phong, nghệ thuật cấp tiến lập tức có một lực nghi ngờ đẩy lui. Sau một thời gian sáng tác với nghệ thuật "mới", người nghệ sĩ thường lui lại để nhìn ngắm những thành quả cấp tiến. Sự nghi ngờ và sự tự xét lại, tự đánh giá những tác phẩm sẽ làm cho nghệ sĩ dừng chân hoặc thối lui, trước khi quyết định sẽ tiếp tục cách tân hay lùi lại hay chọn thái độ bảo hòa.
Trong một thời gian hoặc một đời, đỉnh cao và đáy thấp của đường biểu hiện zích-zắc, cho biết sự phát triển nghệ thuật của một tác giả. Dĩ nhiên, đây chỉ là tượng trưng vì nghệ thuật không thể đo lường bằng con số. Khoa học biểu đồ ngày nay dùng những "phác họa" để ghi nhận khoa nhân văn. Nhưng chỉ "vẽ" được hình thể mà không đo được khí lực.
Ví dụ: Tiến trình nghệ thuật tiền phong. Tiến trình nghệ thuật bảo thủ
Lorca cũng không ngoại lệ. Đoạn thơ dưới đây cho thấy Lorca lui về với dòng thơ Ballad, Tình Ca và truyện kể trước khi ông khởi hành về một phương trời mới. Nhưng người đương thời lại cổ vỏ ông nhiều hơn khi thơ ca của ông ngả vào truyền thống. Dường như số mệnh chung của những nghệ sĩ tiền phong là bị lãng quên trong thời đại của họ.
Mức độ thưởng ngoạn trung bình của số đông, ít khi giúp ích cho sự phát triển nghệ thuật, thường khi kéo xuống khi nghệ thuật bay lên; thường khi bao vây, tâng bốc, khen chê, bóp nghệ thuật nghẹt thở; thường khi quay lưng, chống đối khi nghệ thuật thám hiểm. Khi xuất bản tập thơ Tình Ca Du Mục, Lorca đã rơi vào tình trạng này. Trong lúc hào quang cổ vỏ vây bủa lấy ông thì ông lại ưu tư, tự hỏi, tự đánh giá lấy ngôi vị có vòng nguyệt quế. Và đây cũng là thái độ của người nghệ sĩ chân chính.
...............................................
- Compadre, quiero cambiar - " Bác ơi,cháu xin đổi,
mi caballo por su casa, ngựa chiến cho căn nhà,
mi montura por su espejo, yên cương cho gương soi,
mi cuchillo por su manta. gươm dao cho mền gối.
Compadre, vengo sangrando, bác ơi, cháu bị thương đẫm máu,
desde los puertos de Cabra. trở về từ trận Cabra " (*).
- Si yo pudiera, mocito, - " Cháu ơi, nếu có thể
este trato se cerraba. bác sẽ giúp cháu ngay
Pero yo ya no soy yo, nhưng bác chẳng là ai
Ni mi casa es ya mi casa. sống không nhà không cửa".
- Compadre, quiero morir - " Bác ơi, cháu muốn chết nơi đây
decentemente en mi cama. trên giường riêng tử tế,
De acero, si puede ser, giường sắt, nếu có thể
con las sábanas de holanda. trải khăn mịn êm đềm.
¿No ves la herida que tengo Bác có thấy vết thương
desde el pecho a la garganta? chém từ cổ xuống ngực?".
- Trescientas rosas morenas - " Ba trăm bông hồng sẫm
lleva tu pechera blanca. đỏ bầm áo trắng tinh.
Tu sangre rezuma y huele Máu rỉ bốc mùi tanh
alrededor de tu faja. đọng quanh dây lưng thắt.
Pero yo ya no soy yo. Nhưng bác chẳng là ai
Ni mi casa es ya mi casa. sống không nhà không cửa".
- Dejadme subir al menos - " Hãy cho cháu lần cuối
hasta las altas barandas, leo lên lan can cao.
¡dejadme subir!, dejadme Để cháu leo! Để cháu leo!
hasta las verdes barandas. lên lan can xanh sáng.
Barandales de la luna Lan can của ánh trăng
por donde retumba el agua. (19) nơi dòng sông gào thét".
(Trích: Romance sonámbulo)
(*) Cabra: miền tỉnh trong vùng Cordóba, Andalusia, phía nam tây Ban Nha. Nơi trải qua nhiều chiến trận từ thời xưa đánh nhau với La Mã và những trận chiến nổi tiếng trong thời Nội Chiến.
Khi ông trở thành thi sĩ của dân tộc, thưởng ngoạn mến mộ, phê bình ca ngợi làm cho ông sợ hãi. Ông phải chạy trốn những tràng pháo tay, những báo chí với lời ngợi ca, những tấm lòng ái mộ của thưởng ngoạn vì ông biết rõ những hào nhoáng này sẽ giết chết thơ và giết chết Lorca.
Một trong những lưỡi hái đốn ngã hồn thơ chính là sự ngợi ca của thưởng ngoạn. Như một chén mật ngọt, khi rơi vào, khó mà bay lên, bay cao. Nếu làm thơ chỉ vì muốn người khác biết đến mình, chỉ vì muốn ghi tên vào văn học, thì người làm thơ sẽ dừng lại ở sân khấu vinh quang. Nhưng Lorca đã chạy trốn. Ông rời bỏ quê nhà. Chạy sang New York. Nơi mà ông hoàn tất tập thơ POETA EN NUEVA YORK. Một phong thái khác, một giá trị khác, một thứ bất tử đã dựng lên từ thơ Federico Garcia Lorca.
GHI:
(1) Phong trào Tượng Trưng xuất hiện vào cuối thế kỷ 19. Trường phái nghệ thuật đến từ Pháp, Nga và Bỉ, bắt đầu từ thi ca và hội họa rồi phát triển ra những lãnh vực nghệ thuật khác. Có thể nói, phong trào này bắt nguồn từ tác phẩm Les Fleurs du mal của Charles Baudelaire. Được hai thi sĩ Stéphane Mallarmé và Paul Verlaine khai phá và đã đem lại một phong trào nghệ thuật sáng tác lớn mạnh tại Âu Châu.
(2) Siêu Thực hoàn tất là một phong trào văn hóa. Xuất hiện vào năm 1920. Bắt đầu từ nghệ thuật tạo hình và văn chương. Người chủ xướng trường phái Siêu Thực là thi sĩ André Breton. Có thể nói, Siêu Thực là một phong trào sáng tác lớn nhất trong lịch sử nghệ thuật thế giới.
(3) Se ha puesto el sol
(Agosto de 1920)
Se ha puesto el sol.
Los áboles
meditan como estatuas.
Ya está el trigo segado.
Qué tristeza
de las norias paradas!
Un perro campesino
quiere comerse a Venus, y le ladra.
Brilla sobre su campo de pre-beso,
como una gran manzana.
Los mosquitos - pegasos del rocío -
vuelan, el aire en calma.
La Penélope inmensa de la luz
teje una noche clara.
'Hijas mías, dormid, que viene el lobo",
las ovejitas balan.
"Ha llegado el otono, companeras?",
dice una flor ajada.
Ya vendrán los pastores con sus modos
por la sierra lejana!
Ya jugarán las ninas en la puerta
de la vieja posada,
y habrá coplas de amor
que ya se saben
de memoria las casas.
(4)Madrugada
Pero como el amor
los saeteros
están ciegos.
Sobre la noche verde,
las saetas
dejan rastros de lirio
caliente.
La quilla de la luna
rompe nubes moradas
y las aljabas
se llenan de rocío.
¡Ay, pero como el amor
los saeteros
están ciegos!
(5) Castanet
Castanet.
Castanet.
Castanet.
Sonorous scarab.
In the spider
of the hand
you crimp the warm
air,
and drown in your wooden
trill.
Castanet.
Castanet.
Castanet.
Sonorous scarab.
(6) El sátiro blanco
Sobre narcisos inmortales
Dormía el sátiro blanco.
Enormes cuernos de cristal
Virginizaban su ancha frente.
El sol como un dragón vencido
Lamía sus largas manos de doncella.
Flotando sobre el río del amor
Todas las ninfas muerta desfilaban.
El corazón del sátiro en el viento
Se oreaba de viejas tempestades.
La siringa en el suelo era una fuente
Con siete azules caños cristalinos
(7) El Camino
No conseguirá nunca
tu lanza
herir al horizonte.
La montana
es un escudo
que lo guarda.
No suenes con la sangre de la luna
y descansa.
pero deja, camino,
que mis plantas
exploren la caricia
de la rociada.
.....................................
......................................
No conseguirá nunca
tu lanza
herir al horizonte.
La montana
es un escudo
que lo guarda.
...............................
Dando vueltas al mundo,
no encontrarás camposanto
ni mortaja,
ni el aire del amor renovará
tu sustancia.
..............................
(8) Muerte
¡Qué esfuerzo!
¡Qué esfuerzo del caballo por ser perro!
¡Qué esfuerzo del perro por ser golondrina!
¡Qué esfuerzo de la golondrina por ser abeja!
¡Qué esfuerzo de la abeja por ser caballo!
Y el caballo,
¡qué flecha aguda exprime de la rosa!,
¡qué rosa gris levanta de su belfo!
Y la rosa,
¡qué rebaño de luces y alaridos
ata en el vivo azúcar de su tronco!
Y el azúcar,
¡qué puñalitos sueña en su vigilia!
y los puñales,
¡qué luna sin establos, qué desnudos!,
piel eterna y rubor, andan buscando
Y yo, por los aleros,
¡qué serafín de llamas busco y soy!
Pero el arco de yeso,
¡qué grande, qué invisible, qué diminuto!,
sin esfuerzo.
How hard they try!
What effort the horse makes
To be a dog!
What effort the dog to become a swallow!
What effort the swallow to be a bee!
What effort the bee to become a horse!
And the horse,
what a sharp shaft it steals from the rose!
what grey rosiness lifts from its lips!
And the rose,
what a flock of lights and cries
caught in the living sap of its stem!
And the sap,
what thorns it dreams in its vigil!
And the tiny daggers
what moon, and no stable, what nakedness,
skin eternal and reddened, they go seeking!
And I, in the eaves,
what a burning seraph I seek and am!
But the arch of plaster,
how vast, invisible, how minute,
without effort!
Bản dịch: A.S. Kline. Death.
(9) Gacela del recuerdo del amor
No te lleves tu recuerdo.
Déjalo solo en mi pecho,
temblor de blanco cerezo
en el martirio de enero.
Me separa de los muertos
un muro de malos sueños
.
Doy pena de lirio fresco
para un corazón de yeso.
Toda la noche en el huerto
mis ojos, como dos perros.
Toda la noche, corriendo
los membrillos de veneno.
Algunas veces el viento
es un tulipán de miedo,
es un tulipán enfermo,
la madrugada de invierno.
Un muro de malos sueños
me separa de los muertos.
La niebla cubre en silencio
el valle gris de tu cuerpo.
Por el arco del encuentro
la cicuta está creciendo.
Pero deja tu recuerdo
déjalo solo en mi pecho.
(11) se abren las campanadas, chuyển là (tiếng chuông) vang xa. bản dịch của Cola Franzen: the bell-notes flower.chuyển là, nhạc chuông nở hoa.
(12) hace viento de plata, bản dịch Cola Franzen: shapes silver prows: hình dạng mũi thuyền màu xám
Proras: Tên một thành phố ở Andalusia (Viết hoa). Thành ngữ "Go to devil", về phe quỉ sứ.
(13) Bản dịch: Seven F. White. Ode to Salvador Dalí.
.....................
But above all I sing a common thought
that joins us in the dark and golden hours.
The light that blinds our eyes is not art.
Rather it is love, friendship, crossed swords.....
(14) The guitar
causes dreams to weep.
The sobs of lost
souls
escape through its round
mouth.
And like the tarantula
it weaves a large star
to trap the sighs
floating in its black
wooden cistern.
Bản dịch: Cola Franzen. The Six Strings.
(15) Arrow.
Dark-skinned Christ
changes
from lily of Judea
to carnation of Spain.
Look where he comes from!
From Spain.
Sky clear and dark,
scorched earth,
and riverbeds where water
runs ever so slowly.
Dark-skinned Christ,
with long, burnt hair,
high cheekbones,
and his pupils, white.
Look where he goes!
(http://www.poemadeamor.net/2005/10/federico-garcia-lorca-saeta-poemas-en_1131.html
(16) Grapefruit Moon:Trăng tròn, màu vàng ngã sang đỏ.
(17) The Garden
Was never born, never,
but could burst into life.
Every moment it's
deepened, restored.
Every moment it opens new
unheard-of pathways.
Over here! over there!
See my multiple bodies.
passing through pueblos
or asleep in the ocean?
Everything open! Locks
to fit every key.
But the sun & moon
lose & delude us
& under our feet
the highway are tangled.
Here I'll mull over all
I once could have been.
God or beggar,
water or old marguerite.
My multiple paths
barely stained
now form this enormous rose
encircling my body.
Like an impossible map
the garden of the possible
every moment is
deepened, restored.
Was never born, never,
but could burst into life.
Bản dịch: Jerome Rothenberg.
(18) Verlaine
The song
I'll never speak,
on the tip of my tongue fell asleep.
The song
I'll never speak.
On the honeysuckle
a firefly blinked
and the moon was pricking
the water with a beam.
It was then I dreamed
the song I'll never speak.
Song filled with lips,
flowing from far away.
Song filled with hours
whiled away in the shade.
Song of stars alive
in perpetual daytime skies.
(Bản dịch: Alan S. Trueblood)
(19)
My friend, I want to trade
my horse for her house,
my saddle for her mirror,
my knife for her blanket.
My friend, I come bleeding
from the gates of Cabra.
--If it were possible, my boy,
I'd help you fix that trade.
But now I am not I,
nor is my house now my house.
--My friend, I want to die
decently in my bed.
Of iron, if that's possible,
with blankets of fine chambray.
Don't you see the wound I have
from my chest up to my throat?
--Your white shirt has grown
thirsy dark brown roses.
Your blood oozes and flees a
round the corners of your sash.
But now I am not I,
nor is my house now my house.
--Let me climb up, at least,
up to the high balconies;
Let me climb up! Let me,
up to the green balconies.
Railings of the moon
through which the water rumbles.
Ngu Yên