Ý Thức Ký Hiệu Học

7. Sơ Thảo

Systemic Functional Linguistics

Hệ Thống Chức Năng Ngôn Ngữ

Thử viết xuống, "Anh yêu em". Anh là nhân vật đang viết; Yêu là trạng thái thương nhớ say mê của tinh thần và cũng là hành động bày tỏ trạng thái yêu; Em là một người nữ, là những tình nhân, là những nhân vật đồng nghĩa, đồng dạng trong mạng lưới đàn bà. Câu viết bắt đầu từ một điểm, mở rộng sự chọn lựa vào mạng lưới, vào bảng thống kê, ví dụ, Anh yêu cô ấy, anh yêu phụ nữ, anh yêu nàng...Bây giờ, so sánh với: Hãy cầm tay một thiếu nữ, nhìn vào mắt nàng rồi trao cho nàng tờ thư viết, "Anh yêu em". Câu này xác định rõ ràng nhân vật "em"; phát từ một điểm đến một điểm, ngắn nhất trong cú pháp. Ví dụ cho thấy không phải chỉ văn phạm, cú pháp tạo nên ý nghĩa mà phần lớn là do giao tiếp giữa người và người, trong một hoàn cảnh, trong một diễn tiến, mà ngôn ngữ có ý nghĩa riêng. Ý nghĩa riêng này, nằm trong một Mẫu Hình chung nào đó.

Trong truyện, tác giả tạo ra môi trường, không gian, thời gian, nhân vật và không khí của truyện, để những sự kiện hoặc diễn tiến có được ý nghĩa 'riêng' mà tác giả muốn diễn tả. Sự chọn lựa từ ngữ, chữ, câu, ý trong "mạng lưới " chung để tạo thành ý nghĩa riêng là việc cần thiết cho nhà văn. Nếu không đạt được, thì sự kiện và diễn tiến chỉ có nghĩa trên văn phạm và cú pháp, mang ý nghĩa chung, không có khả năng tạo ra thần hồn của truyện. Ví dụ, lý do khác nhau khi chọn nhân vật "chàng và nàng:" hay " Dũng và Loan" hay "Anh ấy và cô ấy ".....

Trong thơ lại càng khó hơn vì chỉ trong vài hàng, người làm thơ phải tạo ra tất cả những gì mà nhà văn có thể viết trong một trang, một chương hoặc một cuốn sách. Về mặt kỹ thuật, một bài thơ có cá tính là bài thơ có 'chất sắc điệu' riêng biệt, phần lớn là do ngôn ngữ tạo ra. Sự chọn lựa cách diễn đạt của nhà thơ là định mệnh của bài thơ. Ví dụ, bài Lời Mẹ Dạy của Phùng Quán.

Ông tạo sự giao kết giữa chủ đề, mục đích, các nhân vật và tình tiết trong bài thơ dài chỉ bằng 10 câu. 44 câu còn lại ở trước và sau đoạn thơ này chỉ làm nhiệm vụ khai mào, bổ sung, trang điểm và chi tiết hóa tứ thơ chính.

- Mẹ ơi, chân thật là gì?
[...]
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu

Những dông dài vừa trình bày được kỹ thật hóa vào Hệ Thống Chức Năng Ngôn Ngữ.

Hệ Thống Chức Năng Ngôn Ngữ

Systemic Functional Linguistics, Hệ thống chức năng ngôn ngữ, gọi tắt là HTCNNN, là một phương pháp trong ngôn ngữ học do Michael Halliday (1925 -...) khai phá từ khái niệm ngôn ngữ của người thầy J.R.Firth (1890-1960). Bắt đầu từ Anh Quốc, chuyển sang Úc Châu. Đến nay, đã được truyền bá và sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới để tìm hiểu văn bản ký hiệu, nhất là văn bản văn chương.

Trong khi đa số chủ thuyết ngôn ngữ lập thuyết trên căn bản ngôn ngữ là diễn trình trong trí tuệ; HTCNNN lại quan tâm đến những đa diện của ngôn ngữ liên quan giữa người và người, giữa người và xã hội. Chủ đích khám phá và nghiên cứu cách ngôn ngữ được sử dụng trong mạch văn diễn tả và giao tiếp hàng ngày hoặc trong những văn bản văn chương. Và khảo sát diễn tiến của các ký hiệu này trong lời nói, chữ viết; không phải trong trí óc. Việc này đưa đến sự chú trọng về chức năng ngôn ngữ, (Ngôn ngữ dùng để làm gì); không phải cấu trúc của ngôn ngữ, (Ngôn ngữ được cấu tạo ra sao.) Khái niệm này khiến HTCNNN không đi chung đường với Cấu Trúc Luận và Giải Cấu Trúc.

Khái Niệm HTCNNN

Hệ Thống và Chức Năng là hai phần chính yếu của học thuyết này.

Học thuật về Hệ Thống ngôn ngữ chú trọng đến hai liên hệ tương quan: Diễn Pháp (Syntagmatic) và Mẫu Hình (Paradigmatic). Diễn Pháp chú trọng đến thứ tự của các yếu tố ngôn ngữ diễn đạt. Trong văn bản viết, thứ tự này bao gồm văn phạm, diễn trình của viết, tập quán và thói quen đa số của ngữ học. Trong khi, Mẫu Hình quan tâm đến những yếu tố ngôn ngữ có thể thay thế cho nhau trong văn bản đặc thù nào đó. Ví dụ, "Nghìn trùng xa cách, người đã đi rồi..." (Phạm Duy). Nghìn trùng có thể thay thế bởi "ngàn dặm"; Xa cách có thể thay thế bằng "ly biệt." Dặm ngàn ly biệt, người đã đi rồi...

Biểu đồ: Diễn Pháp và Mẫu Hình trong văn bản:

KyHieuHoc Phan7 Anh1 NguYen

(Trích và viết lại từ Language, Funtion and Cognitio, 2011-12, Figure 1. Chandler's diagram.)

Từ Diễn Pháp: Người đi rồi, Mẫu Hình cho phép chọn lựa:

Người xa xôi / Người xa mất / Người xa rồi / Người đi mất.

Mặc dù văn bản chính là "Người đi rồi" nhưng nếu đó là một cụm từ khó hiểu như " Hữu thể tuần hoàn vào siêu nhiên" thì sự chọn lựa từ khác trong Mẫu Hình sẽ giúp cho sáng tác viết sáng sủa hơn, giúp thưởng ngoạn dễ hiểu hơn và giúp dịch thuật trôi chảy hơn.

Riêng về dịch thuật, dịch văn bản văn chương khác với dịch văn bản pháp lý, dịch thư tín và lời nói thông thường. Vì sao người ta thường nói, Dịch văn thơ không phải là "Chuyển," không phải là "Sao y bản chánh," không phải " chữ thay chữ"....? Vì văn chương được sáng tác trong cấp bậc ngôn ngữ khác với cấp bậc ngôn ngữ bình thường, cấp bậc ngôn ngữ pháp lý.... Sự khó khăn của cấp bậc ngôn ngữ văn chương thể hiện trong tính đặc thù của ngôn ngữ cao cấp của mỗi dân tộc và thể hiện trong ngôn ngữ riêng biệt từ cá tính của mỗi tác giả. Nghĩa từ vựng trong tự điển không hẳn là nghĩa của từ ngữ ấy trong văn bản văn chương. Những từ ngữ "chính" trong văn bản thường phải được giám định bởi nghĩa toàn câu hoặc toàn bài. Nhất là từ ngữ thơ, khi được viết ra từ những suy tư sâu sắc, từ tưởng tượng mê mang, từ kinh ngạc bất ngờ, sẽ không có nghĩa thông thường " đồng nghĩa với từ ngữ khác trong tự điển". Sự chọn lựa trong Mẫu Hình trở nên cần thiết cho những trường hợp này. Giúp cho câu dịch trôi chảy, ý nghĩa hơn và nhất là thuận theo văn phạm và cách viết của ngôn ngữ dân tộc được dịch sang.

(Tham khảo Wang, Bo. Theme in Translation: A systemic Functional Linguistic Perspective. International Journal of Comparative Litterature & Translation Studies Vol.2 No.4. October 2014.)

Học thuật về Chức Năng nhắm vào những cấp bậc khác nhau. Có nghĩa: chú trọng vào hiệu quả và ảnh hưởng của ngôn ngữ hơn là cơ cấu của nó. Những chức năng căn bản:

(Trích và tóm lược: Mick O'Donnell. Introduction to Systemic Funtional Linguistics for Discourse Analysis. University Autonoma de Madrid.)

Trong hệ thống này, những từ ngữ có tính kỹ thuật chuyên môn cần phải lý giải, để có thể hiểu rõ khi áp dụng vào thực hành:

Hệ Thống Chức Năng Ngôn Ngữ được sự ủng hộ của các nhà chuyên môn về phân tích phê bình, đưa đến Phương Pháp Phân

Tích Diễn Đạt Nói/Viết (Critical Discourse Analysis) và mới nhất là biến mình vào Xã Hội Ngôn Ngữ Học (Sociolinguistics).

Hệ thống ngôn ngữ chia ra nhiều cấp bậc mang hiệu năng cho từng lãnh vực, nhiều khi có tính chuyên môn. Ngôn ngữ trong cấp chuyên môn thường gây khó hiểu cho một người có trình độ bình thường, như ngôn ngữ triết học, ngôn ngữ y khoa, ngôn ngữ khoa học.....

Ngôn ngữ văn học, văn chương là luồng ngôn ngữ có cấp bậc riêng biệt, giao thoa với luồng ngôn ngữ bình thường, nhưng có ý nghĩa biến hóa, cao kỳ hơn, đòi hỏi học thuật hoặc kinh nghiệm để nhận biết.

Nhưng cơ bản vẫn là đối phó với văn bản. Ai cũng có thể hiểu từ ngữ văn bản. Nhưng trong kỹ thuật ngôn ngữ, văn bản được xem là một phần tử trong Ngữ nghĩa học.

A B N M H X L O > <

Dù là chữ, cụm chữ này không thể là văn bản. Halliday và Ihab Hassan (1925-2015) định nghĩa văn bản phải có điều kiện văn phạm, để những đơn vị liên kết trong diễn tiến, từ hình vị cho đến mệnh đề, mang ý nghĩa diễn đạt. Nói một cách bình dân, văn bản phải chứa đựng ý nghĩa, cho dù là có ngôn từ hay không. Ví dụ, bài thơ Cụ Thể (16).

KyHieuHoc Phan7 Anh2 NguYen

Ý nghĩa câu nói, câu viết thường đến từ sự tiếp tục của diễn tiến. Nói một cách khác, văn bản thường trình bày trong một thể loại luận lý nào đó. Từ những luận lý chặt chẻ của toán học, khoa học cho đến những luận lý rời rạc, cách khoảng hoặc hiểu ngầm.

Mệt lắm rồi, không theo em nữa đâu
Mệt lắm rồi, tôi buồn thiu cúi đầu
Con chó không về, ổ rơm lành lạnh
Con chó không về, ai biết đêm sâu

(Cúi Đầu, Tạ Ký.)

Hai câu đầu thuộc vào luận lý liên tục trong diễn trình. Hai câu sau cũng cùng một loại nhưng giữa hai cặp câu là luận lý biểu tượng. Con chó trở thành sinh hoạt nối tiếp sau khi mệt rồi không theo em nữa. Và luận lý làm cho đoạn thơ dễ được cảm nhận thay vì phải diễn giải dông dài.

Đa Hiệu Năng ( Metafunction).

Tóm lại, trong khi những phương pháp khác tìm hiểu cấu trúc ngôn ngữ dựa lên Mẫu Hình, HTCNNN dùng Mẫu Hình là điểm khởi hành. Theo đó, sự lựa chọn ngôn ngữ luôn luôn nằm trong một mạng giao kết. Hệ thống chức năng này có thể tóm gọn là đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: "Ngôn ngữ sinh hoạt như thế nào?". Vì vậy, hệ thống này nhắm đến chức năng, nên nó có nhiệm vụ giám nghiệm những phần tử cấu tạo và hoạt động trong ngôn ngữ, gọi là Metafunction, Đa hiệu năng: Tất cả các ngôn ngữ liên quan đến ba chức năng tổng quát chính:

- Sự tạo thành ý tưởng, Ideational.

- Giao liên giữa cá nhân, interpersonal.

- Cấu tạo văn bản ( hoặc ký hiệu không văn tự), textual.

Ba chức năng này đến cùng một lúc để ngôn từ, ngôn ngữ có thể có ý nghĩa trong khi giao tiếp hoặc truyền đạt. Nhưng lợi hại không nằm nơi các chức năng đến mà ở nơi đi ngược lại, tức là phân tích sau khi ngôn từ, văn bản đã thành hình.

Lý thuyết của Halliday:

Năm 2003, Halliday chính thức đưa ra lý thuyết và thực hành Hệ Thống Chức Năng Ngôn Ngữ Học. Tóm lại trong năm nguyên tắc:

Nghĩa là sự chọn lựa. Người sử dụng sẽ chọn từ ngữ hoặc ký hiệu phát sinh từ môi trường diễn đạt. Sức mạnh của ngôn ngữ chính là sự tự tổ chức của nó thành một mạng lưới lớn, liên hệ với nhau.

Điều này đáng lưu ý khi chọn từ ngữ trong mẫu hình của mạng lưới này để dịch lại từ một từ ngữ hoặc cụm từ ngoại quốc, nhất là những từ ngữ trừu tượng. Ví dụ,

Hold fast to dreams
For if dreams die
Life is a broken-winged bird
That cannot fly.

[...]

(Dreams, Langston Hughes.)
Hãy ôm chặt giấc mơ
Vì nếu mơ tàn tạ
Đời sẽ gãy cánh bay
không thể lên cao vút

Ôm chặt: hoặc chọn 'giữ lấy', 'gìn giữ', 'níu vững', 'trói buộc'.....
Tàn tạ: hoặc chọn 'chết', 'hủy diệt', biến mất', 'tan tành'....
Gãy cánh bay: hoặc chọn 'gãy cánh chim'. 'rụng rơi' ...
Lên cao vút: hoặc chọn 'bay cao', 'lướt gió', 'tung trời'....

Không nhất thiết phải theo nghĩa tự điển, nghĩa chết, mà theo mạch văn trong tinh thần thẩm mỹ của thi ca, mà chọn từ và cụm từ trong mẫu hình.

Hãy ôm ấp ước mơ trong vòng tay
Vì khi giấc mơ không còn sức sống
Đời sẽ rụng rơi gãy cánh chim bay
Làm sao vùng vẫy giữa trời đất rộng

Đây chỉ là ví dụ về sự chọn lựa mở rộng của mạng lưới ngôn từ trong một môi trường, là bài thơ.

Trong quá trình tiến hóa từ nơi thấp nhất lên đến trật tự cao trong ký hiệu học, ngôn ngữ tạo ra những cấp bậc khác nhau trong hệ thống, ví dụ, ngôn ngữ bình dân, ngôn ngữ bác học, ngôn ngữ toán học. Ví dụ, truyện Trần Đại, Hoàng Guitar, Loan Mắt Nhung được xem là thành công trong lãnh vực xã hội băng đảng vì các tác giả biết sử dụng lề lối ngôn ngữ của xã hội đen.

Cùng một lúc, ngôn ngữ tạo ra những lề lối và ý nghĩa được tổ chức thành hệ thống theo qui luật riêng của nó; một loại mạng lưới trừu tượng. Nói nôm na là tạo ra những văn phạm tiêu chuẩn, gọi là văn phạm tự điển. Ví dụ, trong một câu phải có động từ. Tuy nhiên với sự phát triển không ngừng của ngôn ngữ, những qui luật văn phạm sẽ phải biến hóa theo. Ví dụ, văn phạm text qua điện thoại ngày nay mà giới trẻ tóm gọn, sử dụng cho nhanh và cho dễ hiểu.

Ngôn ngữ có những chức năng bổ sung cho nhau. Nó phát triển theo nhu cầu của loài người để tạo ra ý nghĩa của thế giới chung quanh và bên trong nội tâm. Và là phương tiện để duy trì các mối liên hệ giữa con người.

Ngôn ngữ sử dụng, nối tiếp nhau theo diễn tiến trong qui định thời gian (thời giờ dùng nói hoặc viết), và quy định không gian (vị trí trên văn bản). Cấu trúc này liên quan các đơn vị trong cấp bậc khác nhau trong mỗi tầng lớp của hệ thống ngôn ngữ. Nói cho dễ hiểu là ví dụ là ngữ pháp

Từ ngữ diễn tiến thành câu; câu thành đoạn; đoạn thành chương....

Điểm nhấn ở đây là khi sáng tác, trong một thời điểm nhất định, (thời giờ viết), trên một khoảng trống nhất định, (trên giấy hoặc màn ảnh), một từ ngữ nhất định được ý thức hoặc vô thức thói quen tuyển chọn sẽ xuất hiện. Khi từ ngữ này chiếm lấy vị trí này, nó sẽ tiêu biểu hoặc ám chỉ cái ý nghĩa nhất định mà ý thức hoặc vô thức của tác giả muốn diễn đạt. Từ ngữ này có ý nghĩa riêng trong văn bản của tác giả: có thể giống, có thể tương tựa, có thể mang nhiều ý nghĩa tiếp diễn từ ý nghĩa chung ở tự điển.

Nghiên cứu và phê bình đi ngược lại, từ ý nghĩa chung trong tự điển của từ ngữ này, suy xét vào văn bản, vào hệ thống ngôn ngữ, qua hoạt động của văn phạm, đi đến sự chọn lựa của tác giả để tìm ra ý nghĩa riêng, ý nghĩa thật sự.

Công việc này nhiêu khê, dù mang tính khoa học, vẫn dễ bị lầm lẫn, nhất là truy tầm từ ngữ trong thi ca. Nhưng dù sao, vẫn ít sai lầm hơn khi chỉ dùng cảm tính, sở trường trực giác và kinh nghiệm văn học riêng tư của một người để phân tích văn thơ, kể cả phê phán tác giả; cho dù là tác giả quen thân.

Tất cả những nguyên tắc trên sẽ lần lượt thuyết minh những ý nghĩa vô hình trừu tượng qua những gì cụ thể như từ ngữ, văn bản...Nói một cách khác, một văn bản cưu mang sau lưng một lề lối cấp bậc ngôn ngữ, do đó nó nói lên sự liên quan chính thức giữa tiềm năng và thực tế. Điểm lưu ý là giữa thực tế và hệ thống ngôn ngữ luôn luôn có sự phản hồi, nhờ vậy sự thuyết minh luôn luôn được cập nhất để thay đổi những phần tử thoái hóa trong hệ thống. Ví dụ, "Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau", trong thời xưa, đây là câu nói ám chỉ sự khôn ngoan. Thời trước tiệc tùng, mâm cỗ hiếm hoi, nên cần đi nhanh, ăn sớm. Sông sâu biển cạn khó dò, chờ người đi trước, nếu họ không chết đuối thì mình theo sau. Trong thời đại bây giờ, tiệc tùng dư thừa, cao máu cao mở cao đường...cần gì đi trước. Đám cưới bao giờ cũng trễ giờ, không đúng sao? Lội nước theo sau, nói lên sự hèn nhát, toan tính lợi ích của cá nhân. Mặc ai đi lính giữ quê, còn ta trốn lính xin thề theo sau. Ở thời đại này, chợt ý nghĩa khôn ngoan trở thành tham lam và hèn nhát.

Systemic Functional Linguistics và Con Mèo Trèo Lên cây...

Con mèo trèo lên cây cau
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà
Chú chuột đi chợ đàng xa
Mua mắm mua muối giỗ cha con mèo

Dùng Hệ Thống Chức Năng Ngôn Ngữ để phân tích bài đồng dao này, trước hết, chia làm hai phần:

Câu lục bát trên nói về chuyện mèo. Câu lục bát dưới nói về chuyện chuột. Ai cũng có thể nhận ra, mèo/chuột là một cặp, tự nó đã là một câu chuyện mâu thuẫn phổ thông:. Mèo bắt chuột; hà hiếp chuột; giết chết chuột. Chuột sợ mèo; lén lút kiếm ăn, vô tình phá hại mùa màng, nhà cửa.

Bốn câu này theo thể thơ kể chuyện. Hai câu đầu tạo ra câu hỏi. hai câu sau trả lời. Cấu trúc theo truyền thống, vững vàng và rõ ràng trong nghĩa đen.

Câu 1: từ 'con mèo' là nhân vật chung. Không phải mèo đen, mèo vằn, mèo của ai. Đối lại bên dưới là 'chú chuột'. Tại sao không gọi là con chuột? Chữ 'chú' cho thấy người kể chuyện thiên vị con chuột, thân thiện và trìu mến hơn 'con mèo'. Chuột được nhân cách hóa mà mèo thì không, vẫn là súc vật. Chuột làm ổ trên đỉnh cây cau là loại chuột thích ăn hạt, trái, lúa, ám chỉ một loại chuột gần gũi chuột đồng. Một loại chuột dính dáng đến giới nông dân, chân lấm tay bùn.

Câu 2: 'Hỏi thăm', cụm từ bày tỏ sự quan tâm dò xét. Biểu hiện lòng đạo đức giả.

Câu 3: Vì sao chuột phải đi chợ đàng xa? Ám chỉ một sinh hoạt vất vả, khó khăn.

Câu 4: Mắm và muối là hai thức ăn căn bản của dân quê, dân nghèo. Làm ruộng thì mót lúa, rau trồng sân sau, mắm muối cất trữ trong nhà, cách sống này được xem là cơ bản cho người dân quê ở miền bắc và miền trung. Dân quê miền nam may mắn hơn, tôm cua cá ê hề.

Mua mắm muối không phải để cất giữ, không phải để giỗ cha mình mà phải giỗ cha mèo, kẻ đáng ghét. Ám chỉ sự nhẫn nhục, luồn cúi, dâng lễ, hối lộ...của kẻ yếu.

Nghĩa bóng của bài đồng dao này ám chỉ những quyền lực của quan quyền, phú hộ (con mèo) ngoài mặt giả nhân nghĩa, thực chất là bốc lột sức lao động của dân nghèo, (chú chuột). Chẳng những phải đóng sưu cao thuế nặng, còn phải quà cáp đón đưa. Bài đồng dao, bên trong, kể lại câu chuyện 'nông dân' của người Việt. Dạng đồng dao dễ truyền khẩu và hát lên bởi trẻ con, không bị bắt bớ như người lớn đứng ra chống lại hệ thống quyền lực thời đó.

Có những phân tích khác cho rằng đây là việc ám chỉ quyền lực của Trung quốc hoặc Pháp quốc sang đô hộ dân ta. Thử xét xem chữ nào, cụm từ nào ám chỉ ngoại bang.

Bây giờ là lúc hữu sự của hệ thống ngôn ngữ. Bài đồng dao nằm trong cấp bậc ngôn ngữ bình dân, luồng châm biếm, hạng phản kháng. Trong tinh thần này, người kể (rất nhiều người qua nhiều đời để đúc kết) phải ám chỉ ngoại bang bằng một cụm từ hoặc một biểu tương nào đó, có tính bình dân, cùng một thể loại với các ngữ cảnh và mạch văn. Chúng ta không tìm ra được một ám chỉ nào liên quan đến ngoại bang.

Tuy nhiên như đã trình bày trong phần trước, ý nghĩa của văn bản sẽ thay đổi theo thời gian, qua thời đại và được giải thích tùy hoàn cảnh. Đó là bản tính tùy nghi và hòa hợp của biểu tượng và ẩn dụ. Bài đồng dao hội đủ điều kiện châm biếm bạo quyền, phê phán đạo đức giả, và phản đối sự bốc lột dân nghèo, nên qua nhiều thời đại dã dùng ám chỉ sự đô hộ của Trung quốc và về sau là sự xâm lược của Pháp. Bây giờ, nếu giải thích tình trạng dưới chế độ Cộng Sản thì vẫn: Con mèo trèo lên cây cau....

Ngu Yên

GHI:
(15) Discourse is the process of language in some reconnizable social context.
(16) Trích thơ Ngu Yên trong "Thi Sĩ và Thơ".