"Tôi là một người trong tay không lấy một tấc sắt, trên mặt đất không có chỗ nào dừng chân. Chẳng qua mình là một thằng tay không, chân trắng, sức yếu, tài hèn lại đòi vật lộn với hùm beo có nanh dài, vuốt nhọn. Dù sao mặc lòng, tôi vẫn cứ hăng-hái đi tới. Tôi vẫn muốn đổ máu ra mua Tự-Do "

** Phan Bội Châu **

 

NGUYỄN DU  QUA  PHỤC  BA  MIẾU 

« Đồng trụ biên cương lòe gái Việt  » 

         

     Mã Viện là một danh tướng nhà Hán, nhưng dưới ngòi bút thi hào Nguyễn Du, Mã Viện  được tả hài hước chẳng kém gì con cháu họ Mã trong Truyện Kiều  : Mã Giám Sinh : Ghế  cao ngồi tót sổ sàng. Mã Viện, sáu mươi tuổi sức đã suy, râu dài đến rốn,  nhưng thì trước mặt vua Hán, nhảy tót lên mình ngựa để được vua khoái  khen : « ông này còn quắc thước » !  Cứ thường mặc giáp ngựa như phi. Mã Giám Sinh : Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao,  còn  Mã Viện :  Đồng trụ biên cương lòe gái Việt. Thật thú vị khi đọc thơ Nguyễn Du trong Bắc Hành Tạp Lục viết về Mã Viện, Nguyễn Du viết bốn bài thơ nói về Mã Viện, nhân đi qua các nơi có miếu thờ Mã Viện : ở Giáp thành phía nam Ải Chi Lăng,  và ở thác Đại Than.

          Mã Viện (14 TCN- 49) tự Văn Uyên, được gọi là Phục Ba Tướng Quân, hay Mã Phục Ba, người Phù Phong, Mậu Lăng., nay là huyện Phù Phong, tỉnh Thiểm Tây. Trung Quốc. Tổ tiên Mã Siêu, Mã Đằng, Mã Đại  thời Tam Quốc. Lăng mộ ở Đông bắc Hưng Bình, tỉnh Thiểm Tây. Danh tướng dưới đời vua Hán Quang Vũ Đế, thống nhất Trung Quốc sau loạn Vương Mãn. Con gái Minh Đức trở thành Hoàng Hậu vua Hán Minh Đế. Mã Viện lập chiến công đánh dẹp khởi nghĩa  Hai Bà Trưng tại Giao Chỉ  năm 43 và các bộ tộc Vũ Lăng (Quý Châu, Tây Bắc Hồ Nam.) Được phong Phục Ba tướng quân. Tước Tam túc hầu, ban cho thực ấp 3000 hộ.

          Mã Viện còn lập chiến công đánh bại lãnh chúa Ngỗi Hiệu (30-33) tại tỉnh Cam Túc.

          Năm 49, khi đánh các bộ lạc Ô Hoàn, Mã Viện chết vì bệnh truyền nhiễm, bệnh giết  chết một số lớn quân đội viễn chinh. Phó tướng Cảnh Thư cùng với  Phò Mã Lương Tùng, ngụy tạo nhiều chứng đổ tội cho Mã Viện :

- Mã Viện chịu trách nhiệm về bệnh truyền nhiễm, khi ra lệnh hành quân chống lại các bộ lạc Ô Hoàn.

- Mã Viện biển thủ ngọc trai cùng sừng tê giác. Thật ra Mã Viện chỡ một xe hạt bo bo để dùng về Lạc Dương.  Hán Quang Vũ Đế tin cáo buộc này và đã tước đi thái ấp và tước hầu của Mã Viện. Tới năm Kiến Sơ thứ ba (năm 78) Hán Chương Đế mới truy tặng Trung Thành Hầu.

          Mã Viện là nguồn gốc hai thành ngữ :

Da ngựa bọc thây (mã cách khỏa thi) do câu nói Mã Viện với người bạn Mạnh Kỷ : «  Làm trai nên chết ở chốn biên thùy, lấy da ngựa bọc thây, mà chôn mới là đáng trọng, chứ sao lại chịu nằm ở xó giường, chết ở trong tay bọn đàn bà con trẻ thì có hay ho gì. »

Vẽ hổ không thành, lại thành chó (họa hổ bất thành, phản loại khuyển) Mã Viện khuyên răn các cháu. Viện khuyên đừng có bắt chước nhân vật anh hùng thời đó là Đỗ Bảo, có thể không thành anh hùng như Bảo, mà thành kẻ bỏ đi.

          Miếu Mã Viện ở Giáp Thành tức thành Kép, ở khoảng Giáp đông, thuộc châu Lang Giang ở phía nam ải Chi Lăng. Nguyễn  Du đi qua nơi này vào khoảng trước ngày 6-4 năm Quí Dậu (1813). Nguyễn Du viết : Người già tuổi sáu mươi thì gân sức suy. Mà ông mặc áo giáp nhảy lên yên ngựa phi như bay,  Mã Viện đã ngoài 60 tuổi mà còn xin đi đánh dẹp ở Man động Ngũ Khê tỉnh Hồ Nam, vua Hán không cho, Mã Viện mặc áo giáp nhảy lên mình ngựa tỏ ra mình còn khỏe .  Chỉ mong được vua Hán khoái, nhà vua ở sân cung điện cười khen : « Quắc thước tai thị ông ». Ông này quắc thước lắm. Đâu biết nỗi buồn anh em ở xóm làng : Em họ của Mã Viện là Thiếu Du đã từng nói với ông ta rằng :  « Kẻ sĩ chỉ cần cơm áo cho đủ, làm người tốt ở trong làng mà giữ mồ mã vườn tược, không cần phải vất vả đi kiếm công danh mà khổ thân, ngoài cơm áo ra là thừa cả. Cột đồng trụ chỉ có thể lừa đàn bà con gái Việt. Truyền thuyết nói rằng, Mã Viện dẹp được cuộc khởi nghĩa của Trưng Trắc thì dựng cột đồng để đánh dấu biên cương và ghi hàng chữ : « Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt ». Cột đồng gảy, Giao Chỉ sẽ bị diệt vong, người nước ta qua đó mỗi người đều mang một hòn đá đấp vào nên trụ đồng bị lấp mất. Theo Ngô Sĩ  Liên cột đồng dựng ở Cổ Lâu thuộc Khâm Châu. Quảng Tây Trung Quốc. Theo Tự điển Từ Hải ở núi Phân Mao, động Cổ Sâm ở phủ Tây, Khâm Châu. Sứ thần Vũ Huy Tấn đời Tây Sơn năm 1789 có viếng di tích này và viết bài thơ. Theo Đào Duy Anh ở núi Thành còn gọi là núi  Đồng Trụ (núi Hùng Sơn, Nghệ An). Xe Ngọc châu rốt cục làm lụy con cái trong nhà. Mã Viện ở Giao Chỉ thích ăn hạt ý dĩ (bo bo) để chống chướng khí, khi trở về nước có chỡ một xe ý dĩ để dùng. Người ta đồn đó là hạt trai ở phương Nam. Sau khi Mã Viện chết có người tố cáo là Mã Viện đã chở về một xe hạt trai. Vua Hán nổi giận. Vợ con Viện phải chôn cất ông ở phía Tây thành, chỗ Mã Viện đóng quân ở Hồ Nam, không dám đem xác về. Họ và tên Mã Viện chỉ đáng ghi ở gác Vân Đài. Sau còn ngoảnh về nước Nam đòi hỏi việc cúng tế. Vua Hán Quang Vũ cho vẽ mặt 28 công thần ở gác Vân Đài, vì Mã Viện có con gái làm Hoàng Hậu nên không cho vẽ Mã Viện để tránh tiếng. Sau khi Mã Viện chết, đời sau các quan lại Trung Quốc cai trị bắt dân ta lập miếu thờ ở nhiều nơi. Câu này chỉ  Mã Viện chết rồi mà còn muốn bòn cúng tế nhân dân địa phương.

MIẾU  THỜ  MÃ   PHỤC  BA  Ở  GIÁP THÀNH

Tuổi  lão sáu mươi  sức  lực suy,

Cứ thường mặc giáp  ngựa như phi.

Chỉ mong cung điện quân vương khoái,

Đâu biết xóm làng huynh đệ bi.

Đồng trụ biên cương lòe gái Việt,

Xe châu về nước lụy gia nhi.

Tuổi tên được thưởng Vân đài vẽ,

Còn bắt dân Nam hương khói chi.

Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt :

GIÁP THÀNH  Mà PHỤC  BA  MIẾU

Lục thập lão nhân cân lực suy,

Cứ an bị giáp tật như phi.

Điện đình chỉ bác quân vương tiếu,

Hương lý ninh tri huynh đệ bi.

Đồng trụ cận năng khi Việt nữ,

Châu xa tất cánh lụy gia nhi.

Tính danh hợp thống Vân Đài họa,

Do hướng Nam trung sách tuế thì.

          Đại Than là một ghềnh lớn của sông Minh Giang hay Tả Giang.  Theo truyền thuyết Mã Viện khi đem quân  xuống  xứ nóng phương Nam, sang nước ta, đã cho mở đường sông phá các ghềnh thác, cho thuyền dễ đi. Do đó những nơi  ghềnh thác thường có miếu thờ Mã Viện..  Bài  thơ đề  Miếu Phục Ba ở Đại Than Nguyễn Du Viết:   Đục thông đường núi Ngũ Lĩnh để đi bình định xứ nóng phía Nam. Công danh che trùm đời được ghi vào sử sách. Tuổi cao già rồi mà vẫn còn khoe quắc thước. Ngoài cơm áo ra tất cả đều là thừa (Lời Thiếu Du em họ Mã Viện). Sóng gió Đại Than còn lưu dấu công lao to lớn ngày trước. Cây tùng, cây sam ở nơi cổ miếu cách xa quê nhà. Chiều tà  nơi chôn  Mã Viện, dưới lớp gai góc phía Tây thành.  Nỗi hận ở Dâm Đàm rốt lại như thế nào rồi ?. Mã Viện đem quân đánh Hai Bà Trưng, mãi không được phải lui về Lãng Bạc. Trời nóng bức, hơi  độc từ dưới hồ bay lên, khiến cho diều hâu không bay được. Viện đã hối hận vì không nghe lời em mình. Câu này Nguyễn Du mỉa mai Mã Viện. Theo ông Đào Duy Anh : Lãng Bạc là vùng đất trũng ngập nước ở khoảng dưới chân núi Tiên Du thuộc tỉnh Hà Bắc ngày nay. Có  nhiều người lầm với Hồ Tây Hà Nội.

ĐỀ MIẾU PHỤC  BA Ở  ĐẠI  THAN

Đục đường thông núi định Viêm  Bang,

Sử sách  danh truyền  ghi chiến công.

Bạc tóc  vẫn khoe  mình quắc thước,

Áo  cơm ngoài  nó có chi danh.

Đại Than  sóng gió lưu công trước,

Miếu cổ tùng sam cách cố hương.

Chiều xuống thành Tây gai góc phủ,

Dâm Đàm hận cũ có còn vương.?

Nhất Uyên dịch thơ.

Nguyên tác phiên âm Hán Việt :

ĐỀ ĐẠI  THAN  Mà PHỤC  BA MIẾU

Tạc thông lĩnh đạo tạc  Viêm khư,

Cái thế công danh tại sử thư.

Hướng  lão  đại niên căng quắc  thước,

Trừ y thực ngoại  tẫn  doanh dư.

Đại Than phong  lãng  lưu tiền liệt,

Cổ miếu   tùng sam cách cố lư.

Nhật  mộ  thành  tây  kinh  cúc hạ,

Dâm Đàm  di hối  cánh  hà  như ?

          Bài chiều xuống  Đại Than nước lũ mới tràn về. Bài này làm trong thời đi giang hồ. Vì khi đi sứ, với đồ cống phẩm. Vị  tướng chỉ huy  không thể để đồ cống phẩm và đoàn sứ đi trong tình hình nước lũ tràn về, khó khăn trong việc  chức hộ tống, và bảo đảm an toàn khi qua thác Đại Than. Khi gặp trường hợp như thế họ dời ngày đi qua cửa Nam Quang, đoàn phải ở lại Đoàn Thành, Lạng Sơn chờ đợi. Nguyễn Du viết: Đêm qua  dòng  sông Ngân từ trên trời đổ xuống, Nước sông mênh mông, bờ sông ngập bằng. Chưa tin quỉ thần có thể giúp đõ gì. Đến cả rồng cọp cũng đều mất hết  linh thiêng. Ngày thường không biết nói chuyện trung tín. Đường Giới đời Tông có câu: Bình sinh thương trung tín, Kim nhật nhiệm phong ba. (Ngày thường giữ trung tín , nay mặc kệ phong ba). Nguyễn Du nói ngược lại, Ngày thường không giữ trung tín,  Thì đến bất cứ nơi nào cũng không thể giải quyết việc sống chết cho mình được.  Vẫn còn có chỗ hiểm nguy gấp mười lần.  Ta sẽ lấy gì để xin với thần minh.

CHIỀU  XUỐNG  ĐẠI  THAN

NƯỚC  LŨ MỚI  TRÀN  VỀ

ĐƯỜNG  HIỂM  NGẬP  NƯỚC

Đêm qua trời đổ nước dòng Ngân,

Ngập nước mênh mông, đâu bến sông.

Chẳng đợi quỷ thần gì cứu giúp,

Mà xem rồng cọp hết uy linh.

Ngày thường chẳng nói  điều trung tín,

Hạn đến ai mà nhắc tử sinh.

Còn gặp mười phần nguy hiểm nữa.

Khấn gì  đây hỡi  với thần linh.

Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt :

VÃN HÁ ĐẠI THAN, TÂN LẠO BẠO TRƯỚNG CHƯ HIỂM CÂU THẤT

Ngân hà  tạc  dạ tự  thiên khuynh,

Giang thủy  mang mang giang  ngạn bình.

Vị tín quỷ thần năng tướng hựu,

Tn giao long hổ thất tinh linh.

Bình cư bất hội giảng “trung tín “.

Đáo xứ  vô  phương tề  “tử sinh “.

Cảnh hữu hiểm  hy nhiêu  thập bội,

Ngô  tương hà dĩ  khấu  thần minh ?

          Bài Hạ Than Hỷ phú , bài này ció chi tiết:  một con thuyền, và song thuyền lặng lẽ (một mình) bài này Nguyễn Du viết trong thời kỳ đi giang hồ 1788 khi đi qua Quảng Tây. Khi đi sứ với sứ đoàn 27 người, hàng trăm quân hộ tống, đánh trống, đốt pháo ầm ỉ.. Khi sứ đoàn đi qua thì thuyền chài cũng dừng lại tò mò  nhìn vào đoàn cống sứ, không có cảnh thuyền chài cao hứng hát. Nguyễn Du viết: Thành tâm dâng hương cầu khẩn trước đền tướng quân (Mã Viện). Một con thuyền giữa dòng nước chảy mặc cho nó trôi đi. Đến nơi nào cũng thích thú như núi sông đã từng quen biết. Mừng cho người, vì rắn, cọp đã không ra oai. Muôn cụm tùng kia là nơi nhà sư ở. Nơi có một dãi khói lạnh là Hòn Én. Lặng lẽ bên cửa sổ thuyền không có việc gì. Nghe khúc hát của thuyền chài bên sông, ngắm bóng chiều tà.

TẢ NỖI  MỪNG  XUỐNG  KHỎI THÁC

Thành khẩn dâng hương đền  tướng quân,

Một con thuyền chảy mặc theo dòng.

Đến sông núi lạ như quen biết,

Chẳng cọp rắn nào cản bước chân.

Thấp  thoáng  chùa sư  tầng  biếc phủ,

Lung linh Hòn Én khói  sương dâng.

Song  thuyền  lặng  lẽ ngồi  thong thả,

Khúc hát  chài  vang  bóng  tối dần.

Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

HẠ THAN HỶ PHÚ

Tâm hương  bái đảo tướng quân tỳ (từ),

Nhất  trạo trung lưu tứ sở chi.

Đáo xứ giang sơn như thức thú,

Hỷ nhân xà hổ  bất  thi uy.

Vạn  châu tùng  thụ tăng nhân ốc.

Nhất đái  hàn yên Yến Tử ky (cơ).

Tịch tịch thuyền song vô cá ự,

Ngư ca giang thượng  khán  tà huy.

          Vũ Huy Tấn (1749-1800) Phó sứ sứ đoàn Tây Sơn năm 1789 có viết bài thơ Vọng đồng trụ cảm hoài khi đi thăm trụ đồng Mã Viện ngoài thành Minh Châu:   Sáng sớm ra khỏi thành Minh Châu, Tìm hỏi vết tích cột đồng. Người dân  sắc tộc địa phương chỉ tay về phía xa.  Nơi hai đống đá xanh xanh !  Than ôi ! cột đồng kia ! là đất cũ của nước ta ! Thời Trưng Vương buổi trước, Phục Ba (Mã Viện) đã vạch làm biên giới. Bậc phấn son thật cũng anh hùng, Muôn đời tiếng tăm còn vang dội. Đáng giận tên gian thần  nhúng tay vạc (Mạc Đăng Dung). Cắt đất dâng đi chẳng tiếc đoái gì. Bờ cõi xưa vì thế luân lạc đi mất. Đến nay đã hằng mấy trăm năm. Khói mù cộng với thời gian. Cảm khái việc xưa nay biết dường nào !  Bên này có núi Phân Mao. Trời đã làm cho phần Bắc Nam bị chia tách. Chia đã lâu rồi cần họp lại. Vết tích lạ này há lại bỏ không .( Với chiến thắng Tây Sơn, triều đại Tây Sơn  đã có ý muốn bằng ngoại giao: cầu hôn công chúa  nhà Thanh, Lễ Ôm gối..  đòi lại đất Lưỡng Quảng, nơi có đông người Việt cổ, người Choáng hay người Nùng, thời Việt Vương Câu Tiễn, và Triệu Đà, việc này chưa thực hiện thì vua Quang Trung mất năm 1792.)

TRÔNG  CHỔ  CỘT  ĐỒNG  CẢM  XÚC

Sáng rời Minh Châu thành,

Hỏi vết tích trụ đồng.

Dân chỉ về phía trước,

Nơi hai đống đá xanh.

Than ôi, cột đồng kia,

Là đất cũ nước ta.

Thời Trưng Vương buổi trước,

Biên giới mốc Phục Ba.

Bậc phấn son anh hùng,

Muôn đời vang tiếng danh.

Đáng thẹn kẻ gian tặc,

Cắt đất đã hiến dâng.

Bờ cõi xưa lạc dấu,

Đến nay mấy trăm năm.

Thời gian mù sương khói,

Cảm khái việc xa xăm.

Bên này núi Phân Mao,

Trời chia cách Nam Bắc,

Chia lâu cần họp nhau,

Há bỏ qua di tích.

Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt :

VỌNG  ĐỒNG  TRỤ CẢM HOÀI

Hiểu xuất Minh Châu thành,

Tầm phỏng đồng trụ tích.

Thổ nhân dao chỉ điểm,

Thanh thanh  song đôi thạch.

Ngã bang cựu chỉ trạch !

Tại tích Trưng Vương thời.

Phục Ba vi trung hoạch,

Chi phấn tự anh hùng.

Vạn cổ do trách trách.

Khả linh nhiễm đỉnh phu,

Cát hiến vô cố tích.

Cố cương toại luân một,

Vu kim niên sổ bách.

Yên vụ cộng triêu hôn,

Đồ nhiên khái kim tích.

Thử bàng hữu  Phân  Mao,

Thiên vị Nam Bắc tích.

Cửu phân chung đương hợp,

Khởi hư thử dị tích.

Paris, 12-4-2016

PHẠM TRỌNG CHÁNH

Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V Sorbonne.