TÁI LẬP VĂN BẢN
HƯƠNG ĐÌNH CỔ NGUYỆT THI TẬP
CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG

 

                Hồ Xuân Hương có một tập thơ tên gọi Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập . Năm 1863 đại thần triều đình Huế Trương Đăng Quế, trong bài tựa cho Diệu Liên thi tập của Mai Am nữ sĩ, tức Lại Đức công chúa, đã sánh Mai Am với Hồ Xuân Hương và Phạm Lam Anh tác giả tập thơ Chiến cổ đường. Hai người thơ hay nhất nước Nam. Theo tôi tập thơ này không phải là tập hợp những bài thơ truyền khẩu do Antony Landes  mướn Lê Quý và Nguyễn Văn Đại đến làng Nghi Tàm sao chép trước năm 1892, từ những sưu tập của hai người con Tử Minh tức Cả Tân, cũng là học trò Hồ Xuân Hương, cũng không phải là Lưu Hương Ký những bài thơ tình Tốn Phong viết tựa, mà là Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập.

          Năm 1974 ông Bùi Hạnh Cẩn có tìm ra tại nhà cụ Trần Xuân Hảo làng Quần Phương, Hải Hậu Nam Hà và Thư Viện Quốc Gia một tập thơ chỉ còn sót lại 10 bài mang tên Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập. Đó là tập thơ Hồ Xuân Hương viết trong gần ba năm sống với chồng là Tham Hiệp Yên Quảng, Trần Phúc Hiển, và sau khi chồng bị tử hình. Ngày xưa chưa in được bản sao như ngày nay, vì nguyên nhân những vụ án những nhân vật có liên hệ đến văn học đương thời, thơ văn tao đàn Cổ Nguyệt Đường bị cất dấu, trong lúc vội vàng họ tách rời ra tập thơ thành nhiều mảnh, và tập thơ lưu lạc qua nhiều nơi khác nhau, bản chép trong Phượng Sơn Từ Chí Lược của Nguyễn Bảo năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), bản được ông Bùi Hạnh Cẩn tìm được tại Nam Hà, bản được Gs Hoàng Xuân Hãn tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Paris Paris.

          Trong bài viết này tôi tái lập lại văn bản Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập, và dịch lại thơ Đường Luật các bài thơ, vì các bản dịch và phiên âm có nhiều điều không ổn ví dụ bài Ngư Ông khúc hành hai câu « Dã ông đạm bạc diệc phồn hoa, Thác nhận đào yên thị hệ la ». có nghĩa là ông già quê đạm bạc xa lánh chốn phồn hoa. Tự nhận mình có họ hàng (họ Ngư) với người đến xứ mây đào, đào nguyên, trong Đào Nguyên Ký của Đào Tiềm, có bản dịch « thị hệ la » thành ra dây rau muống, dây bìm bìm. Cụ Bùi Hạnh Cẩn tại Hà Nội dịch : « Già quê đạm bạc cũng phồn hoa, Lầm tưởng đào non là dây hờ ». GS Nguyễn Ngọc Bích tại Hoa Kỳ dịch : « Ông dù đạm bạc vẫn phồn hoa. Lầm tưởng đào non giăng lưới ra. »

Hay câu : «  Ngâm khách hữu thần lai sắc tướng. Tình ma vô lực khước sầu binh », vì không đặt bài thơ vào hoàn cảnh Hồ Xuân Hương viết khi chồng bị bắt nên cụ Bùi Hạnh Cẩn dịch là « Bạn hữu có thần cùng họp mặt », thành ra ngược với ý nghĩa bài thơ Nỗi niềm gối lẽ, tôi dịch lại «  Ngâm khách thế thần đâu sắc tướng. Tình ma không sức đuổi sầu binh » Hồ Xuân Hương thật tài tình khi dùng chữ sắc tướng nhà Phật, « sắc tức thị không, không tức thị sắc. », để chỉ tướng quân Trần Quang Tĩnh, trước làm Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ, từng tán tỉnh nàng, trở ra làm Quan Tào Binh Bắc Thành, nay vì vụ việc chồng nàng Tham Hiệp Trần Phúc Hiển bị  cáo ăn hối lộ. Hồ Xuân Hương tìm đến minh oan, vị tướng quân lánh mặt không tiếp và nàng bị lính đuổi.

          Hồ Xuân Hương không chỉ là bậc thầy trong thơ chữ Nôm, những câu thơ tuyệt đẹp : « Dưới cành vô ngại ngờ hồn bướm, Trên cội tàn hương rúc tiếng sanh. » (Bài Thanh Minh). « Nước mắt trên hoa là lối cũ, Mùi hương trên nệm suốt đêm thâu. » (bài Họa Sơn Phủ chi tác). và trong thơ chữ Hán, những câu thơ cũng đẹp tuyệt vời, xứng đáng thơ bậc thi hào. ví dụ : Bài Đông Sơn tự : « Nham thạch điểm đầu hoàn vũ hạ. Thiên hoa mãn thụ lộng phong tiền », Đá núi điểm đầu mưa phất xuống, Ngàn hoa nở rộ gió tung lên. Nếu không đọc kỷ từng chữ, dịch lại từng câu, nghiên cứu hoàn cảnh sáng tác từng bài thơ, người nghiên cứu có thể đánh mất những tài tình, tuyệt diệu của thơ Hồ Xuân Hương, lại biến thơ Hồ Xuân Hương thành ra tối tăm, vô nghĩa, nhạt nhẽo, vụng về. Thậm chí như câu thơ : « Vàng đá nọ treo tầng giá », đọc thành « Vàng đá nọ treo tăng giá. » thơ Hồ Xuân Hương biến thành thơ Mã Giám Sinh đang cò kè bớt một thêm hai.

          Bài thơ Hồ Xuân Hương viết lần đầu tiên gặp gỡ Trần Phúc Hiển : « Hàn danh cữu ngưỡng hỉ tương phùng. Cận tiếp quang nghi nhật chính đông » . Các bản dịch, dịch thành : Bấy lâu ngưỡng mộ nay gặp mặt. Được tiếp dung nghi vào buổi hừng đông ?. Làm gì mà Hồ Xuân Hương gặp Trần Phúc Hiển quá sớm lúc rạng đông ? Tôi dịch lại ý nghĩa câu thơ : Bấy lâu ngưỡng mộ nay tương phùng, được tiếp dung nghi chàng đường đường chính chính như mặt trời mọc lúc rạng đông. « Bấy lâu ngưỡng mộ nay tương phùng, được tiếp dung nghi : nhật chính đông. » Mặt trời lúc rạng đông vừa mới xuất hiện, to lớn rỡ ràng, oai nghiêm, có thể nhìn ngắm mà không bị chói mắt, thành ngữ ‘nhật chính đông’ rõ ràng ai cũng hiểu, không cần chuyển thành : Mặt trời mới mọc xuất hiện vào hướng đông. Trong Lưu Hương Ký cả ba ông Trần Phúc Hiển, Trần Quang Tĩnh, Trần Ngọc Quán đều viết là Trần Hầu, điều khó khăn cho người nghiên cứu là phân biệt ra mỗi bài thơ viết cho từng người.

          Tài năng dùng điển tích chữ Hán của Hồ Xuân Hương thật khó mà dịch ra thơ chữ Nôm toàn vẹn, ví dụ Hiệp Trấn Sơn Nam Thượng Trần Ngọc Quán đến Thăng Long đã làm thơ tặng nàng :  « Thổ phượng tài cao nhất thế kinh. Long Thành hà hạnh thỉnh huyền linh. » Tài cao nhả phượng thế gian kinh, Nay đến Long Thành được thấy danh. Hồ Xuân Hương đã đối đáp lại thật tài tình : « Quỷ vô tài điệu sử nhân kinh, Thập tải phong trần quán nhỉ linh. » Tài tôi thẹn còn kém, có ai kinh đâu, quan lớn khen quá lời. Mười năm qua tôi lận đận trong gió bụi phong trần, chẳng qua tự dối mình như kẻ trộm bịt tai đi trộm chuông. Thật là nan giải cho người dịch làm sao gói ghém được trong câu thơ ý nghĩa thành ngữ « quán nhỉ linh. » đối lại với « thỉnh huyền linh » tiếng danh vang như chuông.

          Đó là một vài ví dụ cho thấy tài năng thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Hồ Xuân Hương. Và ta hiểu Tốn Phong khi đọc thơ Hồ Xuân Hương đã tự dậm chân, múa tay, sảng khoái tự lúc nào mà không biết.

Theo tôi Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập gồm những bài thơ sau :

THƠ VỊNH CẢNH HẠ LONG

          Nguyên tác có 8 bài Hạ Long bát cảnh nay còn lại 5 bài. Có một bài thứ sáu Nhập An Bang không phải của Hồ Xuân Hương. Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn tìm được  năm 1952, nhân việc Thư Viện Quốc Gia Pháp nhờ làm thư mục sách Hán Nôm Việt Nam.

1. QUA VỊNH HOA PHONG

Thong dong buồm lá vượt Hoa Phong,

Giữa nước lô nhô dựng vách hồng.

Thế nước theo màu non sắc chuyển,

Hình non nghiêng lối lạch dòng thông.

Ngư long ẩn hiện hơi thu nhạt.

Âu lộ cùng bay bóng xế hồng.

Động ngọc tiên ba trăm lẽ sáu,

Biết đâu là chốn thủy tinh cung.

 

2. TRỔI TIẾNG CA CHÈO

Lung linh bốn vách cảnh vân bình,

Đá núi như măng vượt nước bằng.

Mới biết Đào nguyên ngăn cửa đá,

Nào ngờ Ngư phố dựng đồn binh.

Mặc cho Tạ Khách rong chơi mãi,

Dẫu có Văn Lâm vẽ chẳng thành.

Cuối biển trông vời non với nước,

Xa đưa văng vẳng tiếng ca thanh.

3 . MẮT TỎA XANH

Biển xanh xanh ngát nối trời xanh,

Mà ngỡ về đây mắt tỏa xanh,

Nước bạc đá mài nghìn kiếm sắc,

Đầm xa rơi lạnh một sao băng,

Quái hình không dễ đề Tam Giáp,

Thần lực nào ai tạc Ngũ Đinh.

Phản phất mây buông trời sụp tối,

Cao Tăng đâu đó tụng thời kinh.

4. HƯƠNG NƯỚC MÂY

Chân mây bờ đá tổ hang ong,

Ánh nước, ánh non đầy mắt xanh.

Vượt bể tạc non cười Lý Bột,

Đội thuyền dấu động phục Nguyên Chương.

Chiều êm gờn gợn vời cơn sóng,

Sáng nhạt mù tan lộ núi trong.

Cười bảo ngư nhân thuyền một lá,

Len muôn cửa đá kiếm non Bồng.

5. CHỐN THỦY CUNG

Giữa dòng nhẹ lướt mái chèo lan,

Chân đảo càng ưa ngắm cảnh nhàn.

Núi hiện mây trôi sừng sững đá,

Thuyền qua núi dựng khách vời trông.

Bằng Di chống cột trời nghiêng đổ,

Long Nữ thêm nêu chỉ thủy cung,

Nơi đó Thủy Hoàng chưa biết tới,

Trời dành riêng định nước nhà Nam.

Nguyên tác phiên âm Hán Việt :

1. ĐỘ HOA PHONG

Phiến phàm vô cấp độ Hoa Phong,

Tiêu bích đan nhai xuất thủy cung.

Thủy thế mỗi tùy sơn diện chuyển,

Sơn hình tà kháo thủy môn thông.

Ngư long tạp xử thu yên bạc,

Âu lộ tề phi nhật chiếu hồng.

Ngọc động vân phòng tam bách lục.

Bất tri thùy thị Thủy tinh cung.

Dịch nghĩa : Thong dong chiếc thuyền buồm vượt qua Hoa Phong. Giữa nước nhìn xa lô nhô như bức vách màu hồng. Tùy theo thời gian trong ngày, màu sắc biển núi chuyển màu khác nhau, khi thuyền đi vào núi đá vôi như nghiêng lối để lộ đường đi qua lại thông suốt. Sương thu nhạt bay lên ngư cá, rồng ẩn hiện. Lúc trời chiều cò cùng chim âu bay lượn. Núi có nhiều hang động như ba trăm lẽ sáu động tiên. Biết đâu là chốn cung điện Thủy Tinh cung của vua Long Vương dưới nước.

Chú thích :

Ngư long : Các loài sống dưới nước. Tục truyền xưa có rồng hiện xuống nên gọi là  Hạ Long. Thời Pháp thuộc, các thủy thủ Pháp từng kể lại thấy có rắn biển hiện lên lòi trên mặt nước dài trên 30 m.

Âu : loài chim sống dọc bờ biển, thường nằm yên nổi trên mặt nước. Lộ là cò.

Ngọc động vân phòng : động ngọc phòng mây nơi tiên ở, thường chỉ 36 động, trong bài này 306, ý muốn nói Vịnh Hạ Long có nhiều động tiên.

Thủy Tinh cung : cung điện nơi Long Vương ở dưới biển.

2. TRẠO CA THANH

Lung linh tứ bích liệt vân bình,

Ngọc duẩn sâm si thủy diện bình.

Tiệm giác đào nguyên sơn tác hộ.

Chỉ tùng ngư phố thạch đồn binh.

Tận giao Tạ Khách du nan biến.

Già mạc Văn Lâm hoạ bất thành.

Dao vọng thủy cùng sơn tận xứ,

Hốt nhiên xung xuất trạo ca thanh.

Dịch nghĩa : Lung linh bốn vách cảnh mây núi như trên chiếc bình phong. Đã núi như măng non vượt khỏi mặt nước bằng. Mới biết rằng cảnh Đào Nguyên có cửa đá ngăn lại, nào ngờ phố làng chài cá dựng như đồn binh. Mặc cho Tạ Linh Liên thích rong chơi ngao du sơn thủy tha hồ đi chơi. Dẫu có Ngọc Văn Lâm thích vẽ cảnh sơn thủy, vẫn vẻ không hết cảnh Hạ Long. Cuối biển trông xa chỉ thấy non và nước. Xa đưa văng vẳng tiếng hát người thuyền chài trong trẻo.

Chú thích :

Ngọc duẩn : măng ngọc, trong thi văn để chỉ vật gì quý hay đẹp hình cao nhọn đầu như măng tre.

Đào Nguyên : Đào Tiềm hiệu Đào Uyên Minh trong truyện Đào Nguyên Ký kể chuyện một người ngư phủ ngược dòng nước trong rừng Đào Hoa ở Vũ Lăng, qua một cửa động đến vùng có dân cư, đời Tần 600 năm trước đã vào đây tỵ nạn, sau ngư phủ muốn trở lại nhưng không tìm thấy lối xưa.

Đồn binh : Đá xếp chồng hùng tráng như đồn binh.

Tạ Khách : Tạ Linh Liên thích ngao du sơn thủy.

Văn Lâm : Ngọc Văn Lâm thích vẽ cảnh sơn thủy.

3. NHÃN PHÓNG THANH

Vi mang loa đại tháp thương minh,

Đáo thử tu giao nhãn phóng thanh.

Bạch thủy ma thành thiên nhẫn kiếm,

Hàn đầm phi lạc nhất thiên tinh.

Quái hình vị dĩ tiêu Tam Giáp,

Thần lực hề dung tạc Ngũ Đinh.

Phản phất vân đồi đầu ám điểm,

Cao Tăng ưng hữu toạ đàm kinh.

 

Dịch nghĩa : Biển xanh xanh ngát nối liền với trời. Về đây ngỡ mắt mình chỉ toả ra màu xanh. Nước bạc đá mài như nhô lên nghìn thanh kiếm sắc. Lấp lánh ánh sáng như ngôi sao băng vừa rơi xuống nơi đầm lạnh xa xa. Đá núi hình dáng kỳ quái không thể đục để đề tên người thi đổ Tam Giáp : Trạng nguyên, Bảng nhản, Thám hoa. Đảo núi như tượng đá khổng lồ nào ai tạc được. Phản phất chiều xuống sụp tối. Trông đảo Thầy Tăng tưởng như nghe tiếng ai tụng hồi kinh công phu.

Chú thích :

Loa đại : bột màu lam xưa dùng để chế mực xanh vẽ lông mày. Tác giả cố ý dùng chữ loa có nghĩa là ốc.

Câu 4 : nước long lanh phản xạ tia sáng như có sao rơi xuống.

Tam Giáp : Ba bậc đậu khoa thi Đình ngày xưa : Nhất Giáp có :Trạng nguyên , Bảng Nhãn, Thá m Hoa. Nhị Giáp là Hoàng Giáp. Tam Giáp là Tiến sĩ.

Ngũ Đinh : Xưa vua Tần hiến cho Vua Thục một mỹ nhân. Vua sai Lực sĩ Ngũ Đinh đi đón trên đường thấy con rắn lớn, trườn vào hang đá Ngũ Đinh đuôi theo bị đá sấp đè chết, hoá ra tượng đá khổng lồ, ý nói đảo đá giống tượng đá khổng lồ.

Cao Tăng : Đảo núi Thầy Tăng giống Cao Tăng đang tụng kinh.

4. THỦY VÂN HƯƠNG

Vân căn thạch đậu tự phong phòng,

Mãn mục sơn quang tiếp thủy quang.

Thiệp hải tạc sơn si Lý Bột,

Phụ chu tàng hắc bái Nguyên Chương.

Loa ngân tịch tể lân tuân xuất.

Vụ ảnh triêu mê thử đệ tàng.

Mạn thuyết ngư nhân chu nhật diệp,

Sổ trùng môn hộ thủy vân hương.

Dịch nghĩa : Chân mây bờ đá lởm chởm như tổ  hang ong. Ãnh nước, ánh non đầy màu xanh trong mắt. Cười cho Lý Bột làm chuyện vô lý vượt bể để đục vào núi. Phục cho Nguyên Chương đội thuyền dấu vào động. Chiều êm gờn gợn con sóng xa xăm. Sáng nhạt khi sương tan đi lộ ra núi trong xanh. Cười khi thấy ngư nhân chèo một chiếc thuyền con, như qua các cửa đá tìm chốn mây nước cõi bồng lai.

Chú thích :

Thiệp hải tạc sơn : Vượt bể đục non, chỉ việc làm khó nhọc mà vô ích. Sách Nam Hoa Kinh có câu Thiệp hải tạc hà. Vượt bể đào sông, là chuyện làm vô lý. Ở đây chỉ những hang động đục thiên nhiên trong đảo núi.

Đội thuyền dấu động : Nam Hoa Kinh thiên 6. Đại Tông Sư có câu ấy, với ý làm như vậy tưởng là chặc chắn, nhưng không ngờ khi ngủ kẻ trộm lấy mất. Trong thi văn xưa, dấu thuyền trong động núi có ý kẻ đi ẩn không muốn để dấu lại. Nguyên Chương trong sử sách chỉ ghi chép là Chu Nguyên Chương người đánh đuổi Mông Cổ và tranh hùng với Trần Hữu Lượng con Trần Ích Tắc, từng chia đôi Trung Quốc, và sáng lập nhà Minh. Trong trận đánh tan tác thủy quân khiến Trần Hữu Lượng đại bại, có lẽ Nguyên Chương đã áp dụng chiến thuật  đội thuyền dấu động. Đời nhà Trần quân ta đánh Mông Cổ cũng đã từng dấu thuyền, cọc gổ trong các động đá Vịnh Hạ Long.

Loa ngân : dấu ốc trỏ các loài phiêu sinh ánh bạc lân tinh trên mặt nước, thành sóng nhỏ hoặc hình vòng tròn.

Thủy vân hương : làng nước mây, nơi tiên ở.

5. HẢI ỐC TRÙ

Lan nhiêu tùy ý dạng trung lưu.

Cảnh tỷ sơn dương cánh giác u.

Sinh diện độc khai vân lộ cốt,

Đoạn ngao tranh kỵ khách hồi đầu.

Bằng Di diệp tác kình thiên trụ,

Long Nữ thêm vi hải ốc trù.

Đại để Thủy Hoàng tiên vị cấp,

Cố lưu Nam điện cung kim âu.

Dịch nghĩa :  Giữa dòng một mái chèo lướt nhẹ. Đến chân đảo ngắm cảnh nhàn cư thật thú vị, ưa thích. Núi hiện mây trôi qua, núi đá vôi sừng sững. Thuyền đi qua đá dựng khách còn quay lại trông theo. Núi như Bằng Di chặt chân rùa làm trụ chống trời sụp đổ. Như Long Nữ cắm thêm cây nêu để chỉ thủy cung. Nơi đây Tần Thủy Hoàng chưa hề tới nơi. Trời để dành riêng cho nước nhà Nam.

Chú thích :

Lan nhiêu : chèo nhẹ bằng gỗ lan.

Đoạn ngao : Thần thoại Trung Quốc kể chuyện vòm trời bị sụp, bà Nữ Oa chặt chân rùa rất lớn làm cột chống trời. Đây chỉ đảo hình cột đá như chiếc đũa.

Bằng Di :  tên thủy thần trong Nam Hoa Kinh, trong thơ Tào Thực đặt ngang hàng với Nữ Oa.

Long Nữ : Nữ Vương cai trị dưới bể.

Thủy Hoàng : Vua Tần sau khi thống nhất thiên hạ, đi tuần du về phương Nam đi đến vùng Cối Kê tỉnh Triết Giang thì mất, nên chưa biết đến nơi đây.

Câu 8. Mượn ý thơ Vua Lê Thánh Tôn vịnh núi Chiếc Đũa. Trời còn dành để An Nam mượn. Vạch chước Bình Ngô mãi mới vừa.

          Năm bài thơ Vịnh Hạ Long là những bài đầu tiên tôi dịch thơ Hồ Xuân Hương năm 1983, nhân dịp nghỉ hè tại dã thự Cam Tuyền tại Trouville, bờ biển Normandie của Gs Hoàng Xuân Hãn, tôi trình giáo sư xem và ông rất hài lòng, khuyến khích tôi trên bước đường nghiên cứu văn học.

II. ĐỒ SƠN BÁT VỊNH

Gồm 9 bài thơ vịnh tám thắng cảnh Đồ Sơn.

1. HÓNG MÁT ĐÔNG SƠN

Đông Đồ Sơn núi gọi Đông Sơn,

Yên ngựa hình non xa thoáng trông.

Cổ tự, cổng thiền rừng thấp thoáng,

Hang Giang, cửa động đá mênh mông.

Thả thuyền khách hát trong trăng sáng,

Nằm khểnh ai ngâm giữa thạch bàn.

Non núi nào hay dâu biển mãi,

Bên trời sừng sững chắn cuồng phong.

2. QUA CHƠI GIẾNG RỒNG

Dưới núi Ngọc Sơn dòng nước trong,

Thắm hoà xuyên đá rót trăm sông.

Hồn như nước ngọc lên ngời sáng,

Hơn thể rải rồng toả ngát hương.

Róc rách tưới lên ngàn gốc đỏ,

Chan hoà dòng thắm vạn đồng xanh.

Há riêng giếng nước cho thôn ấp.

Chu cấp Minh Vương phước báu ban.

3. PHẬT ĐỘNG THÂM U

Tương truyền dấu Phật tại Linh Sơn,

Nay được sơn ông chỉ đỉnh non.

Cửa động nông sâu cây cỏ dại,

Chữ mờ phai nhạt dấu rêu mòn.

Ngoài hồ đèn thả cầu soi bóng,

Bến nước khe trong chẳng cạn dòng.

Sắc tức thị không, không thị sắc,

Thiền gia hiểu thế việc trần gian.

4. LÊN CHƠI ĐÔNG SƠN TỰ

hai bài.

  A.

Đông Sơn cảnh chiếm một hồ riêng,

Uyên báu bay về, khói Pháp chen.

Đá núi điểm đầu, mưa phất xuống,

Ngàn hoa nở rộ, gió tung lên.

Đế Bà hương hỏa thơm bên xóm.

Trịnh Chúa xe qua vết cũ còn.

Cứu độ bè từ qua bể khổ,

Thuần âu ngủ đứng bến ngư thôn.

 B.

Cò trắng qua sông nước nối trời,

Chùa thiền một cảnh khói mây trôi.

Nữ Vu trị vũ không đông hạ,

Ngư phủ thuyền qua sau trước bơi.

Ngộ đạo Cao tăng mang gậy xuống,

Hiện thân Phật tổ đến đây rồi,

Một mình lên núi Đông Sơn dạo,

Thi hứng đầy thuyền, trăng sáng soi.

5. LÊN NÚI NHỚ XƯA

Tháp cũ nền xưa cỏ dại tràn,

Dục Vương xa vắng cảnh hoang tàn.

Ngàn cân bảo khí reo bên nước,

Chín bậc phù đồ gạch ngói tan.

Tiều tử tựa rìu bên đá ngủ,

Mục đồng xua nghé xuống đồi hoang.

Lên cao muốn hỏi sơn tăng đạo,

Chuông vắng đâu đây vọng cuối ngàn.

6. BẾN ĐÁ XEM ĐÁNH CÁ

Gió im lặng sóng dạo bên sông,

Ngắm ngắm thuyền chài giăng giăng hàng.

Tay kiếm hang rồng sông mở lối,

Lưới quăng chợ hến sóng cờ dâng.

Bà buôn xách giỏ vin khoan cuối,

Ông lái gõ chèo chén rượu nâng,

Hoặc lúc quẻ ly khi quẻ hoán,

Thánh nhân định vật ý người trần.

7. THIỀN ĐỊNH Ở CHÙA CỐC

Thần bào, quỷ đẽo tự bao niên,

Hình thể an bài sẵn tự nhiên,

Mái chẳng ngói, tranh, thềm chẳng trát,

Vách như tường lát, đá như sườn.

Đàn dơi cúng trái đài sen quý,

Ong mật dâng hoa trước án hương.

Sóng vỗ ca tiều chim chóc hát,

Sư già chợi tỉnh giấc miên mang.

8. DẠO CHÙA KHÁNH MINH CẢM HỨNG

Phạn Vương đi khỏi bao giờ lại,

Còn để Kỳ Viên cỏ mọc đầy.

Khánh đá có duyên dời viện khác,

Chuông không giá móc vất bên đài.

Ngói tan, xà mục chim làm tổ,

Bệ vỡ, bia mòn rêu biếc vùi.

Giá được ngàn tay như Phật tổ.

Hư không một tối dựng lâu đài.

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

ĐỒ SƠN BÁT VỊNH

1. ĐÔNG SƠN THỪA LƯƠNG

Đồ Sơn chi đông viết Đông Sơn,

Dao vọng sơn hình tự mã yên.

Cổ tự môn tòng lâm lộc xuất,

Giang phi động tại thạch bình gian.

Phiếm châu hữu khách ca minh nguyệt,

Cao ngận hà nhân vịnh thạch bàn.

Sơn đỉnh bất tri tang hải biến,

Ngật nhiên chi trụ chướng cuồng lan.

Dịch nghĩa :

Núi phía Đông Đồ Sơn gọi là núi Đông. Từ xa nhìn hình núi như chiếc yên ngựa, Cổng chùa cổ hiện ra trong đám rừng cây. Hang Giang phi ở giữa nơi thành đá dựng, Có khách thả con thuyền trôi hát trong trăng sáng. Có người nằm khểnh ngâm thơ, trên bàn đá. Đỉnh núi không biết gì đến biển xanh hoá thành ruộng dâu. Núi ngang tàng như kình trụ chống lại bão tố.

Chú thích:

Đồ Sơn tên núi và bãi biển nơi nghĩ mát nổi tiếng nay thuộc tỉnh Hải Phòng.

Giang Phi : tên thần sông.

Chữ Vịnh thạch bàn, sơn đỉnh, vạn lục điền:  bị mất tôi suy nghĩa, tìm các chữ đối nhau hiệu đính các chữ mất.

2. LONG TỈNH QUÁ TRẠC

Ngọc Sơn sơn hạ tiểu khê biên,

Xuyên thạch quyên quyên chú bách xuyên.

Nhuận hoạt  hồn như hòa ngọc dịch,

Thanh hương sai khả thắng long diên.

Dư ba tư tưởng thiên chu thụ,

Lưu trạch xuyên xuyên vạn lục điền.

Tinh diệp khởi ưng tư nhất ấp,

Minh Vương dụng cấp phúc di thiên.

Dịch nghĩa :

Dưới núi Ngọc có một khe suối nhỏ. Nước xuyên qua đá chan hòa khắp miền. Nước loáng sáng tưởng như chan hoà nước rửa ngọc trai. Mùi thơm hơn cả nước rải rồng thiêng. Làn nước tươi mát thấm qua ngàn cây cối. Dòng nước mát tưới vạn mảnh ruộng xanh. Giếng ngọt há riêng vui cho một ấp. Vị vua quang minh theo mệnh trời đã ban phúc ân, cung cấp nước ngọt muôn dân.

Chú thích :

Ngọc dịch : nước giếng Cổ Loa để rửa ngọc trai.

Long diên: rãi rồng, nước miếng cá voi.

Long diên hương : hải sản quý thơm ngon.

Minh Vương: văn bản chép ngược Vương Minh, chỉ vua A Dục (Asoka) sinh sau Đức Phật ba trăm năm. Cứ mỗi 30 dặm trên đường đi cho đào giếng, trồng cây ăn trái có bóng mát, dựng trụ đá khắc lời kinh Phật dạy làm nhà cho người và vật nghỉ chân. Các vị vua từ nhà Đường Trung Quốc, nhà Lý Việt Nam noi theo việc này lập trường đình, đoãn đình, giang đình, thạch đình.

3. PHẬT ĐỘNG THÂM U

Truyền văn Phật tích tại Linh San,

Cận đắc sơn ông chỉ thử gian.

Động khẩu thiển thâm hoang thảo kính,

Tự ngân nồng đậm ấm đài ban.

Phóng đăng hồ ngoại kiều do tại,

Cấp thủy biên khê tỉnh bất can.

Sắc tức thị không, không thị sắc,

Thiền gia đương tác thị như quan.

 

Dịch nghĩa: Truyền rằng dấu vết Phật ở núi Linh Sơn. Nay được cụ già trên núi chỉ dấu chân Phật in trên núi đá nơi này. Cửa động nông sâu cây cỏ dại. Nét chữ nhạt mờ in làn rêu. Ngoài hồ cầu thả đèn hoa sen vẫn còn. Bên suối nước chảy đến không bao giờ cạn. Sắc tức là không, không là sắc. Thiền sư thường hiểu sự vật như thế.

Chú thích:

Linh Sơn: Núi Linh Thứu nơi cuối đời Phật ở và thuyết Kinh Pháp Hoa, những bài kệ ngắn cô đọng.

Sắc không : thuyết vô ngã : sắc là hình tướng sự vật do nhiều yếu tố mà hợp thành, là không vì tự nó không thật có.

Phóng đăng : nơi thả đèn hoa sen.

4.ĐĂNG ĐÔNG SƠN TỰ KIẾN

Nhị thủ

A.

Đông sơn cảnh chiếm nhất hồ thiên,

Bảo áp phi lại pháp giới yên.

Nham thạch điểm đầu hoàn vũ hạ,

Thiên hoa mãn thụ lộng phong tiền.

Đế Bà hương hỏa phương lân cận,

Trịnh Chúa xa luân cựu tích truyền.

Phổ độ hàng từ siêu khổ ải,

Thuần âu than hạ túc ngư thuyền.

Dịch nghĩa : Cảnh núi Đông in bóng bầu trời dưới hồ. Những con uyên ương loài vịt quí báu bay về trên khói nước lên. Điểm đầu đá núi mưa lất phất bay xuống. Ngàn hoa nở đầy trời rụng gió lộng bay lên. Đền Đế Bà hương lửa dân chúng thường đến cúng vái thắp hương thơm bay chung quanh.  Đường xe Chúa Trịnh Giang vết cũ còn in. Những chiếc thuyền chài đi qua như bè từ bi qua bể khổ, trên thuyền, những con chim bồ nông ngủ đứng như vị sư mãi mê cứu độ trần gian.

Chú thích:

Bảo áp; loài vịt quý, chim uyên ương.

Đế Bà: Cô gái địa phương bị Chúa Trịnh Giang hiếp, có mang bị dân làng bắt tội ném xuống biển, hiển thánh, sau được dựng đền thờ gọi là Đế Bà.

Thuần âu: ngư phủ thường nuôi chim bồ nông, để bắt cá, bồ nông đầu trọc như vị sư đứng trên thuyền, như thuyền từ qua bể khổ. Trung Quốc vùng Quảng Tây, nuôi chim thuần, một loài ngỗng đen để bắt cá, và đặt vòng quanh cổ để chim không nuốt mà nhả cá ra.

B.

Bạch lộ hoành giang thủy tiếp thiên,

Tùng lâm nhất thốc tiếp vân yên.

Nữ Vu trị vũ vô đông hạ,

Ngư phủ phi điêu hoặc hậu tiền.

Ngộ đạo cao tăng huề tích khứ,

Hiện thân Cổ Phật đáo kim truyền.

Đăng lâm độc bộ Đông Sơn thượng,

Thừa hứng lâm lưu nguyệt mãn thuyền.

Dịch nghĩa: Con cò trắng bay ngang qua sông nước sông nối liền với trời. Chùa thiền một cảnh cách khói mây. Bà Nữ Vu, thần nữ Vu Sơn ban mây mưa không cần biết đến mùa hạ hay mùa đông. Ngươi ngư phủ bơi thuyền khi trước khi sau. Vị cao tăng ngộ đạo chống gậy xuống núi. Là hiện thân Phật Tổ truyền đạo ngày nay. Một mình lên dạo núi Đông Sơn. Thừa hứng thuyền trôi, trăng sáng đầy thuyền.

5. THÁP SƠN HOÀI CỔ

Cổ tháp di khư loạn thảo đôi.

Dục Vương khứ hậu ủy hôi đồi.

Thiên quân bảo khí minh lưu thủy,

Cửu cấp phù đồ hoá kiếp hôi.

Tiều tử ỷ kha miên thạch đắng,

Mục nhi khu độc hạ sơn ôi.

Đăng cao dục hội sơn tăng giảng,

Hà xứ chung thanh khứ nhất hồi.

 

Dịch nghĩa : Tháp cũ nền xưa cỏ mọc loạn. Vua A Dục xa vắng rồi cảnh chùa chiền hoang tàn. Vật báu ngàn năm bên dòng nước róc rách. Phù đồ chín bậc chùa chiền hoá thành tro bụi. Chú tiều đốn củi tựa rìu ngủ bên tảng đá. Chú mục đồng xua nghé xuống đồi cỏ hoang. Lên cao muốn đàm đạo cùng nhà sư trên núi. Chợt nghe tiếng chuông thanh vang vọng một hồi.

Chú thích:

Dục Vương : vua Asoka thống nhất Ấn Độ, dựng chùa, kết tập kinh điển. Gửi 12 đoàn các nhà sư Truyền bá Phật Pháp khắp vùng Nam Á, có đoàn sang tận Alexandrie, có đoàn sang Giao Châu, Trung Quốc.

Phù đồ: Stupa, chùa trên núi Đông Sơn, hoang tàn từ sau cuộc khởi nghĩa nhà sư Phạm Ngọc chống nhà Minh. Theo Hồ Bạch Thảo, sử nhà Minh chép khá nhiều và đầy đủ, một cuộc khởi nghĩa lớn có tầm vóc, trước Lê Lợi được đông đảo nhân dân ủng hộ, gây nhiều tổn thất cho triều Minh Thành Tổ, nhưng cuối cùng bị thất bại, toàn bộ cơ sở chùa chiền tại Đồ Sơn bị tàn phá. Sử Việt Nam chép sơ sài.

6. THẠCH PHỐ QUAN NGƯ

Phong điềm ba tĩnh độ giang mi,

Vọng vọng ngư châu nhất tự nhi,

Thủ thám giao cung giang tác lộ,

Võng thu thần thị tịch vi kỳ.

Huề la bản phụ phan thuyền vĩ,

Khẩu tiếp đà sư hệ tửu chi.

Hoặc thủ  chư ly kiêm thủ hoán,

Thánh nhân khai vật  dữ nhân nghi.

Dịch nghĩa : Gió im sóng lặng dạo bước bên bãi sông. Nhìn nhìn thuyền chài giăng hàng, như mở đường sông đi tìm cung hang giao long. Lưới thu chợ trai hến sóng chiều làm cờ. Bà mua cá xách giỏ vin cuối thuyền. Ông lái gõ chèo nâng chén rượu. Các con thuyền về bến như các dấu vẽ bát quái  Kinh Dịch, khi thì giống như quẻ Ly khi như quẻ Hoán. Thánh nhân định ra có ý thích hợp với cuộc đời con người.

Chú thích:

Quẻ Ly, quẻ Hoán trong Kinh Dịch ý nói luôn luôn chia tản.

7. CỐC TỰ THAM THIỀN

Thần ngoan quỷ tạc bất tri niên,

Thế thế an bài nhược tự nhiên.

Ốc bấy ngõa từ giai bất thế,

Nham như tường bích thạch như diên.

Dạ minh hiến quả liên đài hạ,

Phong tử hàm hoa bảo án tiền.

Đào hưởng tiều ca hòa điểu ngữ.

Thanh thanh hoán tỉnh lão tăng miên.

 

Dịch nghĩa: Thần tạc quỷ đẽo không biết tự năm nào. Hình thể sắp đặt y như thiên nhiên. Mái chẳng ngói tranh, thềm chẳng xây trát.. Vách núi như tường lát đá như kèo, sườn. Dưới đài sen đàn dơi cúng trái ngọt. Trước án báu, ong mật dâng hoa thơm. Tiếng sóng vỗ, tiếng ca tiều phu, hòa tiếng chim hót. Lời lời làm tỉnh giấc vị sư già đang ngủ.

8. BỘ KHÁNH MINH TỰ CẢM HỨNG

Phạn Vương quy khứ ủy thời lại,

Không ủy Kỳ Viên ế thảo lai.

Khánh hữu cơ duyên quy biệt viện,

Chung vô cư nghiệp trệ không giai.

Đồi lương bại ngỏa sào ma tước.

Phá kế tàn bi yểm lục đài.

An đắc Như Lai Thiên Thủ Phật.

Hư không nhất dạ khởi lâu đài.

 

 Dịch nghĩa: Đức Phật đi rồi bao giờ quay trở lại. Để lại vườn Kỳ Viên cỏ mọc tơi bời. Khánh đá có duyên dời sang viện khác. Chuông không giá treo nằm xó đài suông. Xà mọt ngói vỡ, đàn chim sẽ làm tổ. Bia mòn bệ vỡ rêu phong phủ khắp. Sao được như Phật ngàn tay. Một đêm từ hư không dựng nên lâu đài.

Chú thích:

Phạn Vương : Đức Phật.

Kỳ Viên (Jetavana):  Nơi Đức Phật và ba ngàn chư tăng an cư kiết hạ, để học tập trong mùa mưa, vì không thể đi xa giảng pháp.

          Trong khoảng thời gian này Hồ Xuân Hương còn đi thuyền ra Sầm Sơn, Thanh Hoá, trước Hòn Trống Mái, Hồ Xuân Hương đề vịnh. Hồ Xuân Hương tả cảnh gia đình mình êm ấm nơi góc biển, ngày tháng đi thuyền nhàn du rong chơi đây đó, đề thơ khắp non núi, nàng cười cho đá Vọng Phu phải chờ chồng, nàng nghĩ rằng tình nghĩa gắn bó lâu dài, phu xướng phụ tùy như lời thề non hẹn biển. Nàng muốn hỏi các hòn đá nhỏ như đám con cháu vợ chồng đá. Lời khách dưới thuyền hỏi đá đầu non chứng kiến hạnh phúc của lứa đôi.

VỊNH VỢ CHỒNG ĐÁ

Gia thất yên lành nơi góc biển,

Thong dong ngày tháng mãi nhàn du.

Đông Tây ngóng núi cùng bên vợ.

Nam Bắc trông non cười Vọng Phu.

Gắn bó nghĩa dài trời đất định,

Xướng tùy lời động biển non chờ.

Qua đây muốn hỏi đàn con cháu,

Đá ở đầu non, khách dưới đò.

Nguyên tác phiên âm Hán Việt :

VỊNH THẠCH PHU PHỤ

Gia thất hòa bình lập hải ngu,

Thung dung tuế nguyệt nhất nhàn du.

Đông hồi Tây lĩnh lân đề phụ,

Bắc hướng Nam sơn tiếu vọng phu.

Đề đính nghĩa trường thiên địa tịnh,

Xướng tùy thanh động hải sơn thu.

Vãng lai hoặc vấn cừ tôn tử,

Thạch tại sơn đầu nhân tại chu.

          Bài Ngư Ông Khúc Hành viết : Ông già quê sống đạm bạc xa lánh chốn phồn hoa, tự nhận mình cùng họ Ngư với ông thuyền chài lạc lối đến đào nguyên, trong Đào Nguyên Ký của Đào Tiềm. Nói vọng sang người câu cá qua sông đừng lắng nghe tiếng đàn tỳ bà, Qua sông đừng lắng nghe tiếng đàn tỳ bà vì tiếng đàn người tiên nữ, không giống tiếng sáo người Hồ thê lương. Đến nguồn đào trời nước mênh mang, mái chèo ngư ông sẽ mở ra, cảnh mùa xuân hoa lá xanh tươi, trùng trùng điệp điệp cảnh thiên thai. Tiếng ốc người ngư phủ chẳng hợp với tiếng đàn tiên nữ nên phải xa nhau. Chia tay  chốn non lạnh mái cỏ tranh buông, người ngư phủ trở về với sông Tô Lịch với gió mát nhàn hạ. Bài thơ này hiếm có trong thi ca Việt Nam, sau bốn câu thất ngôn mở đầu, bài thơ chữ Hán theo thể thơ lục bát. Thể thơ lục bát chỉ có trong thơ Việt và Lào, không có trong thi ca Trung Quốc.

KHÚC HÁT NGƯ ÔNG

Già quê đạm bạc lánh phồn hoa,

Người đến đào nguyên cùng họ ta.

Nhắn với thuyền nan người câu cá,

Qua sông đừng lắng tiếng tỳ bà.

 

Qua sông đừng lắng nghe tỳ bà,

Tiếng không giống sáo Hồ già thê lương.

Nguồn đào trời nước mênh mang,

Ngư ông một mái nhà tiên mở mời,

Muôn trùng xuân khóa thiên thai,

Tiếng đàn vui, tiếng ốc dài buồn tênh.

Non hàn mái cỏ tranh buông,

Sông Tô đến đấy thong dong gió nhàn.

Nguyên tác phiên âm Hán Việt :

NGƯ ÔNG KHÚC HÀNH

Dã ông đạm bạc diệc phồn hoa,

Thác nhận đào yên thị hệ la.

Ký ngữ  khinh châu tòng điếu tử,

Quá giang ưng bất thính tỳ bà.

Quá giang mạc thính tỳ bà,

Cao thanh bất tự Hồ già thê lương.

Đào nguyên thủy khoát thiên trường,

Ngư ông nhất trạo tiên đường bán khai.

Vạn trùng xuân tỏa thiên thai.

Cầm thanh lạc giốc thanh ai bất đồng.

Hàn sơn thảo sắc thong thong.

Tô giang ký đáo thanh phong tự nh

          Bài Quá Khinh Dao từ hoài cổ. Hồ Xuân Hương viết nhân khi đi qua đền thờ Phạm Đình Trọng (1714-1754) một danh tướng đời vua Lê Hiển Tông, ở làng Khinh Dao, huyện Giáp Sơn, Trấn Hải Dương, nay thuộc Hải Hưng, có công dẹp giặc Nguyễn Hữu Cầu và Nguyễn Cừ. Danh tướng bị gian thần Đỗ Thế Giai dâng rượu đầu độc chết năm 40 tuổi. Hồ Xuân Hương nghĩ tới chuyện làm trai việc cung tên chinh chiến cho đất nước là chuyện từ xưa đến nay. Trên đường dài dừng bước rong chơi đến thăm đền mà mà chạnh lòng. Trước sân đền còn tượng ngựa voi bằng đá với đôi vòng bạc, Trong điện còn y trang và đôi ngọc của vị danh tướng. Cây cỏ vẫn âm thầm mùa đông qua. Núi sông vẫn còn buồn thương vị danh tướng bị gian thần đầu độc. Trời đất có lẽ sắp sang vận hội mới. Gió cuốn bụi bay cho sạch cuộc đời này.

QUA ĐỀN KHINH DAO NHỚ CHUYỆN XƯA

Non biển tang bồng xưa đến chơi,

Đường dài dừng bước nhớ khôn nguôi.

Trước sân voi ngựa hai vòng bạc.

Trong điện y trang ngọc một đôi.

Cây cỏ âm thầm đông tuyết giá,

Núi sông buồn vẫn nhớ thương người.

Cao xanh có ý sang thời mới,

Gió cuốn bụi hồng sạch kiếp đời.

 

Nguyên tác phiên âm Hán Việt :

QUÁ  KHINH DAO TỪ HOÀI CỔ

Sơn hải tang bồng dĩ cổ lai,

Trường đồ cước trước xạ quan hoài.

Đình tiền tượng mã ngân song tỏa,

Cung lý y quan ngọc nhất đôi.

Thảo mộc ám tùy đông tuyết lão,

Giang sơn hoài vị tích nhân ai.

Hoàng thiên hữu ý khai tân vận,

Phong quyến hồng trần phất kiếp hôi.

          Bài Tái ngoại vân châm. Ngoài ải nghe tiếng chày dệt vải, cảnh thành bên sông cạnh biên giới Trung Quốc, cho ta xác định Hồ Xuân Hương làm bài này trong khoảng thời gian tại Yên Quảng năm 1916-1818. Nghe tiếng trống canh của lính ở thành bên sông, lại nghe tiếng chày đập vải trong sương, bầy nhạn hoảng hốt bay lên tứ tán, tiếng côn trùng bên vách kêu ồn ào. Người chinh phu đi xa làm tan cơn mộng người vợ chốn khuê phòng. Người đi chơi xa còn nặng mối tình cố quốc. Đắc ý biết đâu cần thang thuốc đắng, tiếng sáo đàn còn chen lẫn với tiếng gà gáy. Bài viết này nói lên tâm trạng Hồ Xuân Hương hoảng hốt, lúc chồng bị Án Thủ Dung xui người vu cáo, nằm thức trắng đêm nghe tiếng chày đập vải trong sương chưa biết sự kiện sẽ đến ra sao,  nàng tự an ủi phải chăng đây là một thang thuốc đắng chữa bệnh.

NGOÀI ẢI NGHE TIẾNG CHÀY NỆN VẢI

Chợt nghe tiếng trống lính giang thành,

Lại vẳng chày sương tiếng thậm thình,

Đứt nối nhạn bầy tung sợ hải,

Đế trùng bên vách loạn ca thanh.

Khuê sầu chinh khách tan cơn mộng,

Nước cũ du nhân nặng mối tình,

Đắc ý biết đâu cần thuốc đắng,

Sáo đàn chen lẫn tiếng gà canh.

Nguyên tác phiên âm Hán Việt :

TÁI NGOẠI VĂN CHÂM

Thúc văn giang cổ thú giang thành,

Hốt đắc hàn châm tấu nhỉ thinh.

Tục đoạn sương trung kinh nhạn trận,

Y hy bích hạ loạn trùng thanh.

Chinh phu dục phá thâm khuê mộng,

Du tử hoàn thiêm cố quốc tình.

Đắc ý bất tri cần khổ dược,

Quản huyền vận vận gián kê minh.

          Bài Bán chẩm thư hoài, nói lên nỗi niềm tâm sự Hồ Xuân Hương sau khi chồng bị tù. Vụ án chưa rõ trắng đen, chưa biết bị xử tội hay được tha, như trời khi mưa khi tạnh, nửa trời mưa gió nửa trời thanh. Nàng phải rời nơi trấn đóng của chồng đến cư ngụ tại quán khách. Nơi lữ quán trở nên thê lương trong giấc mộng an lành. Những người bạn đến họp mặt ngâm thơ nơi Cổ Nguyệt đường ngày trước nay lẫn tránh nàng không tìm thấy bóng dáng đâu cả. Hồ Xuân Hương dùng chữ « sắc tướng » nhà Phật, đối với chữ « sầu binh » thật là tài tình, để nói lên sư, việc Trần Quang Tĩnh, trước từng làm Hiệp Trấn Sơn Nam Hạ, xưa từng xướng họa với nàng, nàng từng có ý muốn thoát xác như Sảnh Nương theo chàng, khi chàng đến từ giả về Nam trấn nhậm. Nay tướng quân Trần Quang Tĩnh trở ra với chức vị cao hơn Quan Tào Binh Bắc Thành, chỉ huy quân sự toàn cõi Bắc. Hồ Xuân Hương có nhiều lần đến cầu cứu Trần Quang Tĩnh sự việc chồng bị nạn, nhưng Trần Quang Tĩnh lánh mặt không tiếp, và nàng bị lính hầu đuổi đi. Tình nàng ngày xưa như tình với ma. Trong chăn nàng gầy guộc phân nửa vì lo lắng, quên ăn mất ngủ. Nàng không còn ngồi trên chiếu cùng chồng, chiếu như chia đôi góc biển tình. Nàng càng hiu quạnh nỗi niềm không sao nói được, Tìm đâu trên trần thế, thượng cấp người có được đôi mắt xanh sáng suốt, như Nguyễn Tịch để soi tỏ vụ án, giải mối oan cho chồng nàng ? Bài thơ này thật là một bài thơ tuyệt tác trong thơ chữ Hán Hồ Xuân Hương.

NỖI NIỀM GỐI LẼ

Nửa trời mưa gió nửa trời thanh,

Lữ quán thê lương đến mộng lành.

Ngâm khách thế thần đâu sắc tướng,

Tình ma không sức đuổi sầu binh.

Trong chăn gầy nửa thân phong nhã,

Trên chiếu chia đôi góc biển tình.

Hiu quạnh nỗi niềm sao nói được,

Tìm đâu trần thế mắt ai xanh ?

Nguyên tác phiên âm Hán Việt :

BÁN CHẨM THƯ HOÀI

Bán thiên phong vũ bán thiên tình,

Lữ huống thê lương nhập mộng tình.

Ngâm khách hữu thần lai sắc tướng,

Tình ma vô lực khước sầu binh.

Khâm trung bán sấu phong lưu cốt,

Tháp thượng bình phân hải giốc tình.

Nhất phiến vô liêu ngôn bất tận,

Trần hoàn an đắc nhãn song thanh.

          Bài Đề Trấn Quốc Tự cho biết Hồ Xuân Hương đi thăm Chùa Trấn Quốc với một người bạn, theo tôi đó là Nguyễn Du trong thời kỳ « chữ tình chốc đã ba năm vẹn » 1791-1794. Nguyễn Du sống tại Gác Tía nơi câu cá của anh Nguyễn Khản, nay cạnh đình làng Nghi Tàm, nơi đài Khán Xuân ngày xưa, người khách đài trang là Nguyễn Du. Trong bài Chơi Tây Hồ nhớ bạn gửi Nguyễn Du về sau năm 1804. Hồ Xuân Hương có nhắc lại : Trấn Quốc rêu phong vẫn ngấn thơ. Lời thơ đề vịnh chùa Trấn Quốc vẫn còn mênh mang  thơ vang vọng như  vòng tròn ngấn nước. Trong cơn gió nam nhè nhẹ thanh thanh, nhìn những đóa hoa sen nở lung linh trong trăng nước. Hương khói nhà chùa bay lên, như cánh cò bay liền theo làn mây. Nhìn đoá hoa hàm tiếu như rửa nhiềm trần tục. Gợi tỉnh niềm mơ cỏ xanh mượt mùa xuân đến. Đến cảnh Xuân Hương ngây thơ muốn hỏi chàng. Nhưng Nguyễn Du lòng muốn quay về Hồng Lĩnh, vì nhiệm vụ của anh Nguyễn Nễ, giao phó  cùng em Nguyễn Ức xây dựng lại từ đường, làng Tiên Điền bị tàn phá sau cuộc khởi nghĩa chống Tây Sơn của Nguyễn Quýnh. Nguyễn Du không đáp đưa tay vẫy đàn hồng nhạn tung trời bay về hướng Đông Nam Hồ Tây. Có lẽ bài thơ này Nguyễn Du cũng phục tài thi ca của Hồ Xuân Hương : những câu thơ tuyệt đẹp : Trăng nước sóng lồng sen nỏn cánh. Khói hương tàng báu hạc bay ngàn. Nên Hồ Xuân Hương nhắc lại trong bài Chơi Tây Hồ nhớ bạn trả lời bài Độc Tiểu Thanh Ký.

ĐỀ CHÙA TRẤN QUỐC

Ai người đến đó khách đài trang,

Nhè nhẹ thanh thanh cơn gió Nam.

Trăng nước sóng lồng sen nõn cánh,

Khói hương tàng báu hạc bay ngàn.

Rửa niềm tục lụy hoa hàm tiếu,

Gợi tỉnh niềm mê cỏ thắm xuân.

Đến cảnh quay đầu người muốn hỏi,

Đông Nam tay vẫy nhạn tung đàn.

 

Nguyên tác phiên âm Hán Việt :

ĐỀ TRẤN QUỐC TỰ

Trang lâm thùy thị cảnh trung nhân,

Tế tế thanh phong phiến phiến huân.

Thủy nguyệt ba lung liên quải choát,

Hương yên bảo thoại lộ liên vân.

Tẩy không trần lự hoa hàm thoại,

Hoán tỉnh mê đồ thảo diệc xuân.

Đáo cảnh linh nhân hồi thủ vấn,

Đông Nam phất tụ nhạn thành quần.

          Bài Gửi bạn khăn gói sang sông Nam, bải thơ Hồ Xuân Hương tiễn biệt Nguyễn Du tại Thạch đình, đình đá sông Vị Hoàng, Nam Định. Khăn gói bây giờ tiễn chàng đi  xa. Nơi trường đình, đình đá nơi bến sông rót chung rượu tiễn chàng ra đi. Đôi cánh buồm căng lên vun vút gió thuyền đi, thuyền nghiêng nặng. Sầu nén vào lòng cho nước mắt chẳng trào. Nhìn lại bãi cỏ xưa cùng dạo chơi, mùi hương chưa mất. Xa quê quay ngóng núi non Hồng Lĩnh cao vời. Xa nhau rồi đây sẽ gặp lại. Lời thề non hẹn biển sống chết cùng nhau trên ngọn sóng đào.

GỬI BẠN KHĂN GÓI SANG SÔNG NAM

Khăn gói bây giờ vạn dậm nao,

Trường đình rượu tiễn chén mời trao.

Thuyền căng đôi cánh sầu nghiêng nặng,

Sầu nén sông sông nước chẳng trào.

Cỏ cũ quay nhìn hương chữa mất.

Xa quê quay ngóng núi quê cao.

Xa nhau còn có ngày gặp lại.

Thề biển thà cho ngọn sóng đào.

GIANG NAM PHỤ NÍP KIÊM LƯU BIỆT HỮU NHÂN.

Phụ níp tòng kim vạn lý dao.

Trường đình tửu tiễn thượng thù giao.

Muộn đôi phàm tịch thuyền thiên trọng,

Sầu áp giang tâm thủy bất trào.

Cựu thảo ngưng mâu hương vị tán,

Tha hương hồi thủ vọng cô cao.

Tuy nhiên thượng hữu tương phùng nhật,

Thệ hải ninh dung nhất lãng đào.

           Bài Thu Vũ, Hồ Xuân Hương viết gửi Nguyễn Du khi chàng báo tin : « Cùng niên ngoạ bệnh Quế Giang Tân. » Bài Thu Dạ I. Cuối năm nằm bệnh nơi bến sông Quế Giang, làng Tiên Điền. Trời cách mây mù ảm đạm mờ mịt, Lòng em như mây, nhưng mây mù mịt ảm đạm. Tí tách mưa thu rơi trên sân vắng. Đầu cành cây khô như giọt lệ rơi khi ngắn khi dài. Trên tàu lá chuối vàng tiếng mưa rơi mau. Ngâm xong đê mê thương nhớ chàng xa cách ngàn dậm. Sầu vấn vương giăng mắc mối tình năm canh. Nơi khuê phòng người phụ nữ mặt như hoa đau khổ vô cùng. Một mãnh lòng sầu vẽ mãi không thành.

MƯA THU

Trời thảm mây giăng tối mịt mùng,

Mưa thu tí tách nhỏ ngoài sân.

Cây khô dài ngắn rơi hàng lệ,

Tàu chuối vàng tơi tiếng chậm nhanh.

Ngâm dứt đê mê sầu vạn dặm,

Buồn giăng quạnh quẽ nỗi năm canh.

Khuê phòng riêng khổ người nhan sắc.

Một phiến sầu vương vẽ chẳng thành.

Nguyên tác phiên âm Hán Việt :

THU VŨ

Thiên cách vân âm thảm bất minh,

Tiêu tiêu thu vũ lạc nhàn đình.

Đoản trường khô thụ chi đầu lệ,

Thư cấp hoàng tiêu diệp thượng thanh,

Ngâm đoạn đê mê thiên lý mộng,

Sầu khiên liêu tịch ngũ canh tình.

Thâm khuê tối khổ như hoa diện,

Nhất phiến sầu dung họa bất thành.

 

          Bài Cố kinh thu nhật Hồ Xuân Hương dùng lại điển tích Thanh Chiên trong bài Khai song của Nguyễn Du. Thấm thoát bao mùa thu qua, bóng trăng xế bóng. Nơi chốn cũ phồn hoa nhớ xưa cùng uống rượu với nhau. Dòng sông Tô Lịch nước chảy về tây mãi. Phía bắc trời quang đảng nhìn bóng núi Tam Đảo xa. Dưới đền trăng thương chăn xanh di vật cha ông, di sản dòng dõi Nho học. Sương buông móc trắng đọng bên nhà, sương không chỉ nơi anh mà cũng rơi nơi em. Mong lần này gặp lại càng thêm nhung nhớ. Năm hết  tết sắp đến chàng mãi xa thế a ?

 

NGÀY THU KINH ĐÔ CŨ

 

Thấp thoáng đường thu ánh nguyệt tà,

Chốn xưa rượu chuốc chén phồn hoa.

Dòng Tô nước cuốn về tây mãi,

Tam Đảo trời quang vọng bắc xa.

Đèn nguyệt chăn xanh thương vật cũ,

Sương buông móc trắng đọng bên nhà.

Lần này gặp lại càng mong nhớ.

Khách cũ năm tàn mãi thế a ?

 

 

CỐ KINH THU NHẬT

 

Nhiễm nhiễm chinh đồ nguyệt thu tà,

Nhất bôi hoàn đối cựu phồn hoa.

Nhất Tô thủy lạo tây lưu tận,

Tam Đảo tình quang bắc vọng xa.

Đăng nguyệt thanh chiên bi cổ vật.

Sương tiền bạch lộ lạc thùy gia.

Thử lai tương đối trùng tương ức

Khách cửu niên thâm nại nhược hà.

 

          Trong thơ Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương, Tây Phong ám chỉ quân Tây Sơn ra Bắc.. Bài thơ mượn cảnh vật để nói lên tình hình thời thế trong khoảng thời gian  1786-1789. Bài thơ xướng họa lúc Nguyễn Du ở Hồng Lĩnh và Hồ Xuân Hương ở Nghi Tàm. Ngọn gió Tây đêm qua mang lạnh về, dậu cúc đìu hiu dù không có tuyết. Mưa rơi nặng mặt nước sông hồ mờ mịt. Mưa dứt trơ trọi một đám mây núi, như có ai vẽ đường viền quanh núi. Sen tàn cuối mùa hạ còn lưu lại chút hương. Cây liễu còn che áo biếc màu xanh hương mùa cũ. Chim hót có thấu chăng cõi lòng mình. Mỗi lời chim còn đọng mối tình thương nhớ quê.

NGÀY THU TỨC CẢNH

 

Đêm qua lành lạnh gió Tây về,

Dậu cúc đìu hiu tuyết chửa đi.

Mưa nặng sông chia mờ mặt nước,

Mây trơ núi biếc vẽ đường mi.

Sen tàn cuối hạ làn hương sót,

Liễu rũ hương thừa áo biếc che.

Chim hót nỗi mình ai có thấu,

Lời lời còn đọng mối tình quê.

 

THU NHẬT TỨC SỰ

Tây phong tạc dạ áp hàn chi,

Ly cúc tiêu sơ tuyết vị phi.

Mật vũ tà si phân thủy diện,

Cô vân miêu chức viễn sơn mi.

Liên dư tàn hạ lưu xuân đối,

Liễu bạng dư hương lão thúy y.

Đề điểu mạc phi tri ngã huống,

Thanh thanh trường động cố hương tư.

          Cũng như Lưu Hương Ký. Hương Đình Cổ Nguyệt thị tập còn có một phần thơ chữ Nôm. Theo tôi thì phần này có những bài sau :

CHƠI TÂY HỒ NHỚ BẠN

Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa,

Người đồng châu trước biết bao giờ.

Nhật Tân đê lở nhưng còn lối,

Trấn Bắc rêu phong vẫn ngấn thơ.

Nọ vực trâu vàng trăng lạt bóng,

Kià non phượng đất khói tuôn mờ.

Hồ kia thâm thẳm sâu dường mấy,

So dạ hoài nhân dễ chưa vừa.

 

Chú thích :

Trâu vàng : Tích Sư Minh Không mượn đồng, thu hết kho đồng nhà Tống trong một túi đem về đúc chuông, chuông đánh lên con trâu vàng từ Tàu chạy sang quậy nước thành vực sâu Tây Hồ.

Non phượng đất : mãnh đất nhô lên mé Trường Chu Văn An.

Theo tôi đây là bài thơ Hồ Xuân Hương trả lời bài Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du : Tây Hồ vườn cảnh đã hoang vu, khi Nguyễn Du làm tri phủ Thường Tín đến thăm lại Cổ Nguyệt Đường, thì Hồ Xuân Hương đi lấy chồng Tổng Cóc Nguyễn Công Hòa, số phận nàng bi đát như nàng Tiểu Thanh. Nguyễn Du đã gửi bài thơ hai câu cuối : Bách tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp tố như. Không biết rồi đây ba trăm năm lẽ nữa. Ai sẽ khóc người phẩm hạnh cao quý như nàng Tiểu Thanh. Hồ Xuân Hương nhận được thư dứt tình Tổng Cóc và trở về lại Cổ Nguyệt đường viết bài thơ này. Tố là tơ trắng nghĩa bóng người phụ nữ phẩm hạnh cao quý, như là như thế như vậy.

Bài thơ có nhắc lại bài Đề Trấn Quốc Tự. Hồ Xuân Hương làm khi thăm chùa cùng Nguyễn Du trong thời gian  «  Chữ tình thoát đã ba năm vẹn ».

VỊNH HOA CÚC

BÀI I

Chấp cả hàn phong, xiết cả sương.

Trước rào sum họp tấm bào vàng.

Yêu vì vãn tuyết hương càng lạ,

Lẫn với phàm hoa sắc cũng thương.

Đào Lệnh nòi xưa nghe chửa hết,

Tây Thi giống trước hãy còn ương .

Yêu hoa nên hóa người say tỉnh,

Rượu chén hoàng hoa ngẫu những hương.

Chú thích »

Đào Lệnh, Tây Thi là hai giống cúc. Đào Lệnh là Đào Tiềm, thi hào đời Đường, khi về ở ẩn ông trồng nhiều cúc và sáng tác thơ về hoa cúc.

Tây Thi ; Gái nước Việt thời Đông Châu Liệt Quốc được Việt Vương Câu Tiễn dùng mỹ nhân kế cống cho vua Ngô Phù Sai.

Hoàng hoa tửu : rượu ướp hoa cúc vàng.

BÀI II

Uẩy uẩy nhà ai đóa tuyết sương,

Loi thoi ngọc trắng nhuốm bông vàng,

Phong lưu Bành Trạch đà xa tục,

Cốt cách Tần Châu chũng khác thường.

Phố lão đã nhàm ba lối cũ,

Thoa quỳnh thử đánh một chồi ương.

Rồi đây thử ngẫm thu về đó.

Hương ấy hay là có khác hương.

 

Chú thích :

Uẩy uẩy ; tiếng xưa có nghĩa là rực rỡ.

Bành Trạch, Tần Châu là hai giống cúc. Đào Tiềm từng làm tri huyện Bành Trạch. Tần Châu cung nữ nhà Tần.

VỊNH THANH MINH

BÀI I.

Man mác tàn tro giải mặt đường,

Ngẫn ngơ mấy lũ dạo tà dương.

Chân trời lảng bảng vừng mây bạc,

Mặt đất lơ phơ nấm cỏ vàng.

Cười lạt gió đông đào cũng tẻ,

Khóc om nội vắng ác càng thương.

Bốn bề khí muốn cơn trời lại,

Chân đất xây thành trắng ngỡ sương.

BÀI II.

Dàu dàu hai nấm lẫn vàng xanh,

Kìa nấm thâm ân, nọ nấm tình.

Mấy giọt sa thầm nơi khoáng dã,

Trăm đường tẻ ngắt kiếp phù sinh,

Dưới cành vô ngại ngờ hồn bướm.

Trên cội tàn hương rúc tiếng sanh.

Ngoãnh lại càng trông càng ngán nỗi,

Sầu tuôn vũ trụ buổi thanh minh.

Chú thích :

Vô ngại : ngọn phướng trước chùa phơ phất như cánh bướm.

Mộ cha mẹ Hồ Xuân Hương chôn tại nghĩa địa Đồng Táo, trước chùa Kim Liên nay bị nước Hồ Tây lấp khoảng hơn một thước.

Hai câu 5,6 theo tôi là hai câu tuyệt tác trong thi ca Việt Nam.

THẢ THUYỀN CHƠI TRĂNG

Hà Đông một giải nước trong veo,

Lãng đãng thuyền tình chở nặng chèo.

Gợn sóng nhấp nhô tăm cá lội,

In dòng giáp giới mảnh trăng treo.

Muốn trôi thư lá mà than thở,

Phải mượn tin băng để dập dìu.

Cây cỏ buồn lòng cho Thúy Ái,

Ái ân lênh láng biết bao nhiêu.

Chú thích :

Thúy Ái. chuyện bà Phan thị Thuấn trầm mình chết theo chồng ở bến Thúy Ái, phía nam Hà Nội , khi Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân Tây Sơn ra Bắc, chồng bà là Ngô Cảnh Hoàn đem thủy quân ngăn lại trước bến Thúy Ái bị tử trận. Bà chèo thuyền tới chổ chồng chết mà nhảy xuống sông tự vẫn thêo chồng. Bài này cho thấy Hồ Xuân Hương cũng muốn chết theo chồng Trần Phúc Hiển.

Câu ̃7 : có dị bản chép « Cây cỏ thêm vui lòng nước cũ »

THƠ VỊNH BÃI BÌNH THAN

Một đụn Bình Than vành vạnh tròn,

Bốn mùa nước chảy chẳng hề mòn,

Li ti vó cất bên kia suối,

Thủng thẳng chài buông mái nọ non.

Dặm dọ đầu ghềnh sào một cột,

Lênh đênh mặt nước đá hai hòn.

Ngư ông chèo khiến khoan lại nhặt,

Thủng thẳng trèo lên đá dựng con.

THƠ ĐỀ NÚI LÃ VỌNG

Bài I

Ông xuống chi đây mới lạ đời,

Hay là ông xuống thử ngồi chơi.

Mình chen trời đất so gan đá,

Bạn với nước non trả kiếp người.

Nhật nguyệt hai vầng soi trước mặt,

Càn khôn một gánh sẵn hai vai.

Có ai hỏi lão đà bao tuổi,

Từ thuở ta ra mới có trời.

BÀI II

Lão được như ông mấy lão so,

Biếng đường danh lợi chẳng bôn xu.

Bằng cùng trời đất dầy niên kỷ,

Bền với non sông dãi phát phu.

Trốn ẩn chẳng màng đôi Hứa Phủ.

Cuộc cờ thương trải mấy Thương Chu.

Có ai hỏi lão rằng bao tuổi,

Kể tự hồng mông biết mấy thu.

Chú thích :

Hứa, Phủ : Hứa Do và Sào Phủ về ở ẩn không ăn thóc nhà Chu.

Thương Chu : Truyện Phong Thần. Vua Kiệt chấm dứt nhà Thương, Võ Vương khởi đầu nhà Chu.

Lã Vọng Khương Tử Nha ở ẩn ngồi câu cá ở ẩn, 80 tuổi mới ra làm quan nhà Chu.

CHIẾC BÁCH

Chiếc bách buồn về phận nổi nênh,

Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh.

Lưng khoan tình nghĩa mong đầy đặn,

Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.

Chèo lái mặc ai lăm đổ bến,

Buồm lèo thay kẻ rắp xuôi duềnh.

Ấy ai tham ván cam lòng vậy,

Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.

Chú thích :

Tham ván : do câu tham ván bán thuyền.

Ôm đàn gảy sang thuyền khác, ý nói lấy chồng khác.

TỰ TÌNH

BÀI  I.

Canh khuya văng vẳng tiếng canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non,

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vừng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.

Xuyên ngang mặt đất rêu từng đám,

Đâm toạt chân mây đá mấy hòn.

Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại.

Mãnh tình san sẻ tí con con.

TỰ TÌNH

BÀI II

Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom.

Oán hận trông ra khắp mọi chòm.

Mõ thảm không khua mà cũng cốc,

Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om ?

Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ.

Sau giận vì duyên để mõm mòm,

Tài tử văn nhân ai đó tá ?

Thân này đâu đã chịu già tom.

 

Chú thích :

Bom : là chòi canh

Mõm mòm : chín quá, chín nhũn, chín mõm.

Tài tử : người có tài thơ văn.

Già tom : già tép lại.

VẤN NGUYỆT

Mấy vạn năm nay vẫn hãy còn,

Cớ sao khi khuyết lại khi tròn.

Hỡi chàng thỏ ngọc đà bao tuổi,

Chớ ả Hằng Nga được mấy con.

Đêm tối cớ chi soi gác tía,

Ban ngày sao lại thẹn lòng son.

Năm canh thờ thẩn chờ ai đó,

Hay có tình riêng với nước non.

THƯƠNG

Ôi có thương chi khách má hồng,

Thương vì một nỗi phận long đong,

Thương con bướm trắng thân gầy guộc,

Thương cái bầu xanh phận não nùng.

Thương vợ chồng Ngâu duyên chểnh mảng,

Thương cha mẹ nhện kiếp long đong,

Có thương thì những thương vì thế,

Ví có thương chi khách má hồng.

 

KHÓC CHỒNG

Trăm năm Phúc Hiển hỡi chàng ôi.

Cái nợ phong trần vỗ trắng rồi.

Chôn chặt văn chương ba thước đất,

Phá tan hồ thỉ bốn phương trời.

Hạt sương dưới chiếu chau mày khóc,

Giọt máu trên tay mĩm miệng cười.

Thân thế thôi còn chi nói nữa,

Trăm năm Phúc Hiển hỡi chàng ơi !

Chú Thích :

Theo tôi câu đầu và câu cuối là : Trăm năm Phúc Hiển hỡi chàng ôi.

Phủ  Tam Đái  nơi Tri phủ Trần Phúc Hiển trấn nhậm trước năm 1813, trước khi làm Tham Hiệp Yên Quảng, sau 1831 đời Minh Mạng đổi tên thành Phủ Vĩnh Tường,  Do đó kiêng kỵ gọi tên tục gọi thành ông Phủ Vĩnh Tường. Người đã mất do một biến cố, được gọi phẩm trật trước đó. Như giấy khai tử Tổng Thống Ngô Đình Diệm được ghi là Tuần Vũ Bình Thuận.

          Vì đâu Hồ Xuân Hương, chép các bài thơ cuối đời này thành thi tập. Và tập thơ này đến tay các quan đại thần  Huế. Phải chăng Hồ Xuân Hương muốn minh oan cho chồng Trần Phúc Hiển, dùng tài năng thi ca mình để vận động triều đình : « Rằng tài nên trọng, rằng tình nên thương », để nhẹ tay ban một ân huệ cho chồng nàng Trần Phúc Hiển.  Nhưng than ôi, triều đình thời vua Gia Long hai vây cánh Lê Văn Duyệt, Lê Chất, Án Thủ Dung.. quyết liệt thanh toán phe Trung Quân Nguyễn Văn Thành, chỉ huy toàn quân đội, nhân một bài thơ của con là  Nguyễn Văn Thuyên có câu : « Giúp nhau thay đổi hội cơ này. » Lê Chất, Tổng trấn Bắc Thành quyết triệt hạ những tay chân của Nguyễn Văn Thành tại Bắc Hà. Nguyễn Văn Thuyên bị án chém, cha Nguyễn Văn Thành uống thuốc độc tự tử. Đặng Trần Thường Thượng thư Bộ Binh bị án giảo, xử thắt cổ tội ẩn lậu ruộng đất, ao đầm và tội làm sắc phong thần cho Hoàng Ngũ Phúc tướng nhà Trịnh vào bậc phúc thần. Hoàng Ngũ Phúc từng cùng cụ Nguyễn Nghiễm đem quân đánh Phú Xuân, chấm dứt hơn 150 năm các Chúa Nguyễn.  Vũ Trinh, anh rễ Nguyễn Du, Hữu Tham Tri Bộ Hình, thầy dạy  Nguyễn Văn Thuyên cũng bị án giảo rồi giảm án đày đi Quảng Nam từ năm 1816 đến 12 năm sau, thời Minh Mạng dẹp xong vây cánh Lê Văn Duyệt, Lê Chất.. 1828 mới được ân xá.. Trần Ngọc Quán, quan Trấn thủ Sơn Nam Thượng, Thi tướng Tao Đàn Cổ Nguyệt Đường cũng tự tử. Nguyễn Gia Cát, Tham tri Bộ Lễ và Vũ Quý Đỉnh, Thiên sự Bộ Lễ cũng bị án giảo. Trước những bản án nặng nề này làm những người lưu giữ thi ca Cổ Nguyệt Đường phải dấu diếm, đó là lý do làm thi ca Hồ Xuân Hương bị biệt tích trong một thời gian dài. Mãi đến khi Antony Landes trước năm 1882, lúc làm Đốc Lý Hà Nội mướn Lê Quý và Nguyễn Văn Đại về làng Nghi Tàm sao chép bộ sưu tập của hai người con Tử Minh, làng Nghi Tàm, thơ Hồ Xuân mới lại xuất hiện.

Paris 27-7-2022

Phạm Trọng Chánh

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

BÙI HẠNH CẨN. Hồ Xuân Hương, Thơ chữ Hán chữ Nôm và giai thoại. VHTT Hà Nội. 1995

HOÀNG XUÂN HÃN. Hồ Xuân Hương thiên tình sử. Văn Học Hà Nội 1995.

PHƯƠNG TRI. Tài liệu về Hồ Xuân Hương trên đất Nam Hà. TCVH số 3-1974.

PHẠM TRỌNG CHÁNH Hồ Xuân Hương. Nàng là ai ? Khuê Văn Paris. 2001.

NGUYỄN NGỌC BÍCH. Lưu Hương Ký. Viện Việt Học. California Hoa Kỳ.