"Tôi là một người trong tay không lấy một tấc sắt, trên mặt đất không có chỗ nào dừng chân. Chẳng qua mình là một thằng tay không, chân trắng, sức yếu, tài hèn lại đòi vật lộn với hùm beo có nanh dài, vuốt nhọn. Dù sao mặc lòng, tôi vẫn cứ hăng-hái đi tới. Tôi vẫn muốn đổ máu ra mua Tự-Do "

** Phan Bội Châu **

 

Nguyễn Nghi (phần 2)

Tác giả truyện thơ QUÂN TRUNG ĐỐI

Ngôi sao và kiệt tác văn học họ Nguyễn Tiên Điền bị lãng quên

 

Hồi thứ Tư

Đánh Diêm cương trong trận được tin hay

 

Phần Đậu Tuyến Nương ngày đêm thương nhớ La Thành, nàng xin cha đi hành hương một ngôi chùa núi Tây. Trên đường về đến đồi Diêm Cương, gặp một đoàn quân người Đột Quyết, hai bên đánh nhau, nàng giải thoát được được hai viên tướng tù binh. Tra hỏi một tên là Hoa Mộc Lan, nữ cải nam tòng quân thay cha. Tuyến Nương cảm lòng hiếu thảo nên cùng nhau kết nghĩa chị em. Còn tướng kia lại là Tề Quốc Viễn từ Quan Trung đi mừng thọ La Nghệ về. Muốn tỏ tình ngay Tề trình bức thư La Thành.

          Tuyến Nương xem thư mới rõ La Thành nhờ Tần Thúc Bảo, Đơn Hùng Tín mai mối cho nàng và La Thành. Biết câu chuyện không thành tựu vì hai họ đang tranh chấp thù địch, nàng không thể ngỏ với cha nên Tuyến Nương quyết hy sinh. Nàng tráo thư sửa lại là La Thành nhờ làm mối Ái Liên con Đơn Hùng Tín. Nhưng trong lòng nàng buồn khổ vô cùng.

 

Tình này há chỉ riêng ai,

Chung tình ắt củng có người tình chung.

Nàng từ trở ngọn cờ hồng,

Ly sầu một gánh chất chồng yên câu.

Đeo sầu về chốn trang lâu,

Ngày chày bóng ác, đêm thâu ngọn đèn.

Dấu tình ai để chiếc tên

Biết bao bể hẹn non nguyền ở đây.                                       240

Nhớ người quên cả tháng ngày,

Xuân qua hạ lại đã đầy hai đông.

Chước nào khuây khỏa tấm lòng,

Sầu nầy đợi gỡ cho xong còn chầy.

Có chùa nghe ở non Tây,

Thừa nhàn nàng mới định ngày hành hương.

Dưới màn thỉnh chỉ Phụ vương,

Một chi binh mã ruổi sang rừng thiền.

Cầm thông, phách suối, mõ quyên,

Tưởng chiều bát ngát, xui nên bồi hồi.                                   250

Tham thiền, hành lễ đã rồi,

Ra về vừa tới đỉnh đồi Diêm Cương,

Thì vừa Đột Quyết binh sang,

Giáp công một trận sấm vang nửa ngày.

Một cơn ngói vỡ tro bay,

Hai tên tướng giặc bắt ngay trận tiền.

Đem về tra hỏi họ tên,

Một tên vào trước vẻ xem khác thường.

Mảnh đào phân phất hơi sương,

Mặt hoa lóng lánh dưới gương Quảng Hàn .                          260

Khấu đầu bày tỏ nguồn cơn.

Họ Hoa dòng bé, Mộc Lan tên hèn.

Nữ nhi đâu việc cung tên,

Liều mình ra chốn trận tiền thay cha.

Lạc loài chút phận dã hoa,

Muôn trông mưa tưới móc sa thế nào. »

Khen rằng : « Tên họ lạ sao !

Hoa nào hơn vẻ, lan nào đọ thanh.

Trọng vì một tấm hiếu thành.

Phòng khuê ta kết bạn lành chị em. »                                    270

Truyền cho đổi áo thay xiêm,

Thị tỳ ra rước nàng lên trên nhà.

Một tên sau lại hỏi tra,

Đem vào tới trước thềm hoa thoắt quỳ.

Rằng là : «  Quốc Viễn họ Tề,

Tôi Đường nhỏ mọn, chức thì Hộ quân .

Nay thời làm kẻ hành nhân,

Sai sang hạ thọ lão thần Lã Công.

Lễ rồi trở lại Quan Trung.

Đường về xảy gặp giữa trong chiến trường.                          280

Lượng trên dù chẳng xét tường,

Tờ La công tử rõ ràng còn đây. »

Đâu điều thốt chạm niềm tây,

Mượn điều thử lấy tờ này xem qua.

Dưới đèn vừa mở tờ hoa,

Nào hay trong ấy lại ra việc mình.

Kể từ những thuở đánh thành,

Kể từ những thuở đinh ninh thề nguyền.

Chỉ hồng chưa kẻ dắt duyên,

Vậy xin Thúc Bảo, Nhị Hiền giúp công.                                  290

Liền tay mở mở phong phong,

Hàng hàng chữ gấm, giòng giòng hạt châu.

Quan sơn chống vác bấy lâu.

Xa xôi ai biết còn đâu lòng nầy.

Đã điều tranh đánh bấy nay.

Hòa thân ai giúp việc này cho nên.

Dẫu mà nhắn cậy Nhị Hiền,

Tơ duyên chưa dễ trao bên mặt thù.

Tình riêng chút nỗi hẹn hò,

Dám đem làm chuyện mà thưa Phụ hoàng.                           300

Thôi thôi ra sự quải gàng,

Lửa hương nguyền ấy nợ chàng thân sau.

Phận ta dầu vậy cũng dầu,

Để người chiếc bóng bên cầu sao yên.

Bạn ta có một Ái Liên,

Tuổi xanh còn chửa định nguyền thất gia.

Ví đem người ấy thay ta,

Bên tài bên sắc cũng là vừa đôi.

Tiện đây ta đổi một lời,

Lấy người nghĩa cũ đển người tình riêng.                              310

Bút hoa bèn thảo vân tiên,

Cậy Tần Thúc Bảo đưa tin Nhị Hiền.

Rằng: “Xin hỏi lấy Ái Liên,

Để cùng công tử kết duyên Tấn Tần.

Thư rồi lại phó hành nhân,

Thêm cho ngân lạng, trung quân tha về.

Ai thêu ra mối tình chi ?

Dứt đi, mà lại bề bề chưa xong.

Dưới đời dễ mấy anh hùng,

Trăm năm một hội tương phùng dễ sao ?                             320

Tên, cung còn dấu ước giao,

Duyên ai mà lại xe vào cho ai !

Sầu trong tỏ nét ra ngoài,

Vẻ đào nhường lợt, vóc mai thêm gầy.

Ngỗn ngang tình nọ, nỗi nầy,

Phụ Vương nay lại định ngày Tây chinh.

Nàng thời hơi dịu dịu mình,

Bàn cùng Tào hậu lấy binh giữ thành.

 

Chú thích:

Ly sầu: nỗi buồn rầu vì thương nhớ chia lìa cách biệt nhau.

Yên câu: yên ngựa non, hai tuổi khỏe mạnh, chạy mau.

Thừa nhàn: nhân lúc thong thà.

Hành hương: đi lễ chùa.

Tham thiền: học phép thiền định, yên lặng chuyên nhất tư tưởng.

Câu 247, 248 Đạm Trai phê:” Khổ vì tình ! Phật hay cứu khổ, nên không thể đem mối tình ra giải bày với Phật, nghĩ Đậu Tuyến Nương cũng thực đáng thương !”

Đột Quyết: giống người ở các sa mạc phía Bắc Á Châu đời Tùy Đường sau bị Hồi Hột tiêu diệt phải dời sang Trung Á rồi tiến vào Tiểu Á. Dưới đời Minh diệt Đông La Mã dựng nên nước Thổ Nhĩ Kỳ.

Giáp công : hai bên quân địch ráp gần đánh nhau.

Câu 253, 254. Đạm Trai phê: « Lần trước đánh được tên công tử La Thành, lần sau đánh được thư công tử. Đại để Tuyến Nương lợi ở đánh. Cười ! »

Dã hoa : bông hoa ngoài đồng nội.

Hộ quân : chức quan võ đời nhà Tùy, phó tướng, Hổ Bôn lang tướng.

Chiếc bóng bên cầu : lấy ở điển Vĩ Sinh, ước hẹn với một người con gái ở dưới cầu, bạn gái không tới, nước triều lên, Vĩ Sinh chết đuối. Ở đây Tuyến Nương cho rằng để La Thành phải chờ đợi mình không thể nào yên dạ.

Thất gia : Thất là nơi chổ ở của vợ chồng, gia là nói chung toàn phần ở bên trong cánh cửa.

Phó : giao cho

Ngân lạng : bạc đúc thành lượng, mỗi lạng cân 37,783 gr.

Tương phùng: gặp gỡ nhau.

Câu 323, 324: Đạm Trai phê:” Một khối tình muốn làm tan đi không được, muốn vứt bỏ điu không đành sự việc vốn phải nên như thế.”

Văn bản:

Câu 319, 320 hai bản A, B chép :

Duyên này sau có hay không,

Thời rằng trước chẳng đèo bồng phải nao.

 

Hồi thứ Năm

Đậu Kiến Đức một trận, bị bắt ở Hổ Lao.

 

          Đậu Kiến Đức xuất binh Tây chinh, tiến về ải Hổ Lao, vừa qua Ngưu Khẩu bị quân Đường đánh úp. Lỡ cơ thất trận, để tránh cho ba quân không bị tàn sát Đậu Kiến Đức ra hàng và bị bắt nhốt vào xe tù. Được tin chồng bị bắt. Tào Thị dặn dò mọi việc lại với Tuyến Nương rồi uống thuốc độc tự tử.

 

Cho hay một ngọn lửa huỳnh,

Sáng chi là mấy, mà tranh mặt trời.                                       330

Tuế tinh ứng tượng có nơi,

Lòng trời nhường ấy, sức người được sao ?

Hạ Vương từ chỉ ngọn đào,

Ba quân thẳng ruổi Hổ Lao cõi ngoài.

Vừa qua Ngưu Khẩu dặm dài,

Quân Đường đâu đã ngất trời kéo ra.

Anh hùng khi đến thế sa,

Thà mình chịu khuất, chẳng thà hại quân.

Bá, Vương ra mặt hàng thần,

Hạm xa cầm ở trung quân nhà Đường.                                 340

Nghe tin Tào hậu kinh hoàng,

Dưới cờ đòi lại nhủ nàng đinh ninh.

Rằng : “Từ đức bác dấy binh,

Năm thu phá trận đánh thành như chơi.

Hưng vong việc ấy bởi trời,

Anh hùng ắt chẳng phải người tôi ai .

Chị thời trước xuống tuyền đài.

Đón chờ xe hạc, theo đòi dấu tiên.

Phận ai tòng nhất đã yên,

Sau này xử biến kinh quyền mặc em !”                                  350

Thôi thôi thay đổi áo xiêm,

Chuốc đầy chén ngọc nằm im giấc vàng.

 

Chú thích:

Lửa huỳnh: lửa đom đóm

Tuế tinh: Sao Mộc, sao Thái Tuế, dùng để bắt đầu tính vòng 12 năm.

Ứng tượng: điềm thiên nhiên báo trước, phù hợp một việc, một biến cố xảy đến.

Hổ Lao: tên đất xưa nay tây bắc huyện Thành Cao, tỉnh Hà Nam. Vua Mục Vương nhà Chu ra Tr(nh phố đi săn. Cao Bôn Nhung bắt sống được cọp đem dâng. Vua sai nhốt vào cũi nuôi ở Đông Ngu. Về sau đất ấy có tên là Hổ Lao.

Hạm xa: xe tù

Câu 337, 340 Đạm Trai phê: “Hạ Vương chính tự mình đem quân giúp Vương Thế Sung, thanh thế lừng lẫy, chưa từng bị thua thiệt hư hao, thế mà chỉ một phen đỗ ngã đến nổi bị cầm tù, thực là trời xanh xui khiến vậy. Nhưng Hạ Vương có bị thất bại thì Quân Trung Đối mới nên chuyện được.”

Đức bác: Đức là tôn kính, bác là cha (Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em), ở đây chỉ vua cha.

Tuyền đài: phần mộ tức hoàng tuyền: suối vàng, cửu tuyền: chín suối.

Câu 348: Tào Hậu tin chắc rằng anh hùng như Kiến Đức ắt không chịu khuất phục Lý Thế Dân đành cam một chết.

Tòng nhất: do câu Tòng nhất chi chung: người đàn bà chỉ lấy chồng một lần mà thôi.

Xử biến kinh quyền: gặp việc xãy ra khác thường, tùy ý Tuyến Nương, muốn xử theo phép thường (kinh) hay cân nhắc rồi xử trái với phép thường (quyền) cũng mặc.

Câu 347-352: Đạm Trai phê: “Tào Phi chết trong sạch, thực đáng kính mà cũng đáng thương. Tuy nhiên Phi không chết thì sau này Tuyến Nương không có chỗ vin vào để chờ mối duyên lành và để cho Quân Trung Đối thành chuyện được. Vậy đây chính là chỗ văn chương thắt nút, người đọc chớ sơ ý bỏ qua.

 

Văn bản:

Hai câu 329, 330 bản C chép là :

Cho hay nhửng thủa binh tranh,

Tóm thâu bầy mạnh đã sanh một người.

Sáu câu 337 -342 bản C chép:

Hạ quân khi đến thế sa,

Dẫu là tài mạnh, dầu là trí cao.

Tiếc cho một đấng anh hào,

Hạm xa cũng dễ nhốt vào như chơi.

Nghe tin Tào hậu rụng rời,

Đòi nàng dặn lại mọi lời đinh ninh.

Hai câu 345-346 bản C chép:

Số trời dấy mất là thường.

Anh hùng ắt cũng liệu đường sớm mai.

 

Hồi thứ Sáu

Đậu Tuyến Nương một mình vào lạy trước sân rồng

 

Đậu Tuyến Nương giải tán đội nữ binh và cùng Mộc Lan vào bệ kiến vua Đường để xin chịu chết thế cha. Vua đường ngợi khen lòng hiếu thảo, tha tội cho Đậu Kiến Đức, Kiến Đức tạ ơn xin đi tu. Vua Đường ban cho một cảnh chùa. Đậu Hoàng Hậu nghe chuyện đòi nàng vào. Hỏi rõ thân thế hoàng hậu nhận Tuyến Nương làm cháu. Nàng lạy tạ ơn và xin về cư tang Tào Thị. Hoàng hậu cho phép và cấp thêm hành lý và trăm lượng vàng. Tuyến Nương gặp cha, khóc lóc và chia tay.

 

 

Một cơn tang sự vội vàng,

Chợt tin đã thấy quân Đường tiến sang.

Năm trăm thị nữ sắp hàng,

Then lầu sịch mở, lịnh nàng truyền ra.

Rằng: “Năm thu dưới cờ ta,

Đông tây rong ruổi những là chúng ngươi.

Nay dầu thua được bởi trời,

Bó tay cũng chửa chịu người uổng danh.                               360

Thất cơ phải khuất vì tình,

Còn toan một trận bội thành sao nên.

Nầy đây ngân lạng năm nghìn,

Cấp cho ai nấy về yên nghiệp nhà.

Rồi đây lui tới mặc ta,

Cơ trời tan hợp hoặc là mai sau. »

Vâng lời sùi sụt trông nhau,

Dưới sân răm rắp khấu đầu giở ra.

Ghé bên mới dạy nàng Hoa :

Rằng : « Trong tình nghĩa một ta với nàng,                            370

Đánh liều nay đến quân Đường,

Thân ta đã vậy, ý nàng ngại chăng ?  »

Lạy rồi Lan mới thưa rằng :

« Nghĩa trong thầy tớ tình bằng chị em,

Dẫu là sống thác cũng cam,

Dám đâu gặp bước gian nan ngại lòng.

”Trước sau bàn bạc vừa xong,

Áo xanh đổi lốt đều cùng ra đi.

Dần dà mới đến Đế Kỳ.

Soing song vóc liễu cùng quỳ sân đan.                                  380

Dưới trời đánh tiếng tỏ oan:

“Con hèn Kiến Đức, thân tàn Tuyến Nương.

Nhà Tùy khi lỗi mối giường,

Cha tôi mong cứu một phương lửa nồng.

Ngôi trời đã tỏ tượng rồng,

Chậm chân hiệu thuận ra lòng bất cung.

Gẫm rằng lời “hậu phu hung”

Lọt ngoài thanh giáo, cam trong điển hình.

Xót vì phụ tử thâm tình,

Báo ân cả dám lấy mình thay cha.                                         390

Muôn ngàn nhờ đức thiên gia,

Đổi cho nhất tử cũng là tái sinh. »

Ngự nghe tấu đối phân minh,

Khen rằng : « Hiếu tử Đề Oanh khác nào.

Lượng dung há có quản bao,

Ban tha Kiến Đức, cho vào trước sân.

Rằng : “Ta đất Tấn dấy quân,

Trên vâng mệnh cả dưới nhân lòng người.

Kình nghê đâu dám nép hơi.

Bốn phương đâu chẳng làm tôi một nhà.                     400

Ngươi còn chống mệnh cõi xa,

Việt vàng, búa sắt, tội đà chẳng oan.

Nỗi niềm nghĩ lại nên thương,

Nhiêu sinh ta cũng tòng khoan phép thường.

Bấy lâu cờ, tán dọc ngang,

Nay làm phên dậu một phương thế nào ?”

Tâu rằng: “Che chở lượng cao,

Hiếu sinh đức ấy biết bao là ngần !

Sự đời nghĩ lại phù vân,

Thôi còn dám tưởng có thân phận nào.                                 410

Ơn trên mưa móc đã dào,

Xin ra nhân thế mà vào thiền môn.

Dưới trời đâu cũng tôi con,

Cỏ cây đâu cũng nước non một nhà.”

Ban rằng : “Cõi thế như hoa,

Đua tranh Vương, Bá cũng là chiêm bao.

Ngôi trời ai chẳng rằng cao,

Ta xem chẳng biết chừng nào gian nan.

Phúc chi bằng chữ thanh nhàn,

Lòng người đã vậy, nhà quan hẹp gì.”                                   420

Truyền ban một cảnh trú trì,

Sai quan hộ tống cho đi bạn cùng.

Một phen úy lạo thung dung,

Áo sa ban trước, điệp rồng ban sau.

Tin trong chợt xuống dưới lầu,

Ban đòi hiếu nữ vào chầu Hậu phi.

Vâng lời chẳng dám trù trì,

Theo chân thái giám cùng đi bấy giờ.

Cung lầu lặng ngắt như tờ,

Gió êm trướng hạc, hương đưa cánh gà.                              430

Tiếng vàng sang sảng lầu hoa.

Hỏi rằng: “Đôi ấy ai là Tuyến Nương ? “

Tâu rằng: “Bèo bọt phận thường,

Muôn trong đoái đến đủ thương một lời .”

Ban rắng: “Một nữa là ai ?

Họ hàng hay kẻ tôi đòi đó ru ? »

Tâu rằng : « Người ấy viễn chu,

Mấy tôi từng trải ba thu kết nguyền.

Họ Hoa, Lan ấy là tên,

Tình cùng xương thịt nghĩa nên tôi đòi . »                              440

Khen rằng : « Đôi ấy đáng đôi,

Nữ trung chưa dễ có người là ba.

Tuyến Nương họ Đậu, họ ta,

Nhận là con cháu một nhà trong thân.

Ở đây khuya sớm cho gần,

Rồi ra sẽ liệu nhắc cân hảo cầu. »

Tiểu thư ren rén quỳ tâu :

Ơn dày muôn đội trên đầu xanh xanh.

Thiên binh thuở nọ tiến thành,

Dì tôi quá sợ, liều mình trước tôi.                                450

Phận hèn may thấy mặt trời,

Lấy gì đền lại cho người thiệt đi.

Rộng dung xin được trở về,

Lều tranh hương khói giữ lề ba năm.”

Thương tình trên chẳng nhẽ cầm.

Cấp cho hành lý hơn trăm lạng vàng.

Tạ ân ra cửa vội vàng,

Đậu Công còn đợi tin nàng chưa đi.

Chiến bào đổi dạng tăng y,

Hãy còn mặt sắt đen sì như xưa.                                460

Cảm cơn gió bể rừng mưa,

Ngập ngừng đòi trận, vò tơ ruột tằm.

Dạy rằng: “ Trong chữ tình thâm,

Ví mà giở nỗi thương tâm xiết gì !

Đành cơn nương bóng cung vi,

Rừng thiền nấn ná qua thì mặc cha.

Nỗi tình còn chút việc nhà,

Dì con đã thoắt vì ta thiệt mình.

Sao cho sinh tử kiến tình,

Cậy con lo lấy cho đành lòng cha.”                                        470

Nghe lời tầm tả châu sa,

Lạy rồi còn chửa nói ra nên lời.

 

Chú Thích :

Bội thành : bội tín

Đế kỳ : kinh đô nhà vua.

Sân đan : sân vua, dùng cát đỏ để trát.

Hiệu thuận : hàng phục, theo về.

Bất cung : không kính trọng

383-386 Đạm Trai phê : «  Ngay thẳng mà uyển chuyển, chất phác mà đau thương, lời nói thực diệu kỳ, tác giả tỏ ra thấu hiểu chổ tinh hoa trong thư nàng Đề Oanh và trong bài trần tình biểu. Văn hay tuyệt. »

Hậu phu hung : kẻ đến sau thì dữ, không được tốt lành.Thanh giáo : do chữ thanh quy giáo hóa. Kinh Thư thiên Vũ Cống : Thanh giáo ngật vu tứ hải. Uy thế và việc dạy dỗ (nhà vua) cảm hóa lòng người đã tới khắp bốn biển.

Điển hình : hình phạt thi hành theo phép thường.

Phụ tử thâm tình : tình sâu xa giữa cha con.

Thiên gia : Hoàng đế.

Đề Oanh: Con gái nhỏ quan Lệnh Thái Thương đời Hán là Thuần Vu Ý chỉ sinh 5 gái. Đời Văn Đế, Ý phạm tội có chiếu chỉ bắt về Trường An. Ý than thở: Sinh con gái chẳng sinh con trai, gặp việc khó khăn thực là vô ích. Đề Oanh khóc lóc theo cha tới Trường An, dâng thư xin đem thân vào nhà quan làm tỳ nữ để vì cha chuộc tội.. Vua thương hạ chiếu miễn tội và tha cho.

Việt vàng, búa sắt: phủ là cái rìu, việt: cái búa lớn vật tượng trưng cho uy quyền thiên tử dùng để trị hình phạt nặng.

Nhiêu sinh: tha cho được sống.

Tòng khoan: theo lối rộng rải, có độ lượng bao dung được nhiều.

Điệp rồng: văn thư về việc quan nhà vua cấp cho.

Câu 421 -  424. Đạm Trai phê: “Trước đây Tuyến Nương tham thiền, ấy là muốn gột rửa cho sạch mọi điều phiền não trong vòng sắc giới. Bây giờ Kiến Đức quy y, ấy là muốn tìm sự tịnh diệt, cắt dứt lòng trần trong cảnh khổ . Xa xa trước sau chiếu ứng, văn viết có ý vị, cực hay .”

Hậu Phi: vợ vua.

Viễn chu: châu xa. một khu vực hành chánh địa lý. Phép nhà Chu định 2500 nhà là một châu, châu còn có nghĩa là làng trong chữ châu lý.

Hảo cầu: tốt đôi, đẹp đôi. Kinh thư: Thục nữ yểu điệu, quân tử hảo cầu.

Cung vi: nơi ở bà Hậu phi

Kiến tình: thầy rõ tấm lòng.

Trù trì: dùng dằng, do dự.

Văn bản:

Bản C sau câu 420, đổi chép như sau:

Có chùa ở viễn châu kia,

Một bầu trời quạnh bốn bề non cao.

Trần ai chẳng bá chút nào,

Cho người cảnh ấy tiêu dao mặc lòng.

 

Hồi thứ Bảy

Về nước cũ, con gái trả nghĩa bà Phi hiền

 

Tuyến Nương về Lạc Thọ, cảnh nước mất nhà tan, gợi bao niềm thương cảm. Nàng cư tang thủ hiếu. cùng Mộc Lan bên mồ Tào Thị. Ngày đem sầu khổ hết lo nghĩ cho cha đến thương nhớ La Thành.

 

 

Sụt sùi quán khách đêm dài

Tiếng gà đâu đã giục người sinh ly.

Người thời đến cảnh trú trì,

Người thời lại gót trở về cố kinh.

Ngại ngùng một bước trăm tình,

Mây xanh nửa đám, cỏ xanh đòi chòm.

Trùng trùng kìa nước, nọ non,

Càng khơi dặm liễu, càng chồn bước hoa.                             480

Thành đâu chất ngất nẻo xa,

Này là Lạc Thọ đất nhà phải chưa ?

Giang sơn còn đó trơ trơ,

Nào nền Vương Bá bây giờ đâu đây ?

Cầu sương in dấu chân giầy,

Xe loan ta những lối rày vào ra.

Đìu hiu nội cỏ ngàn hoa,

Nào là yến cũ, nào là oanh xưa.

Tưởng bây giờ với bao giờ,

Mơ màng giấc mộng, nửa ngờ nửa tin.                                  490

Chuông đâu văng vẳng mái chiền,

Ngỡ là doanh lũy còn truyền canh điêu.

Địch đâu réo rắc bên đèo,

Ngỡ là tiếng giốc ban chiều thu quân.

Những là nghĩ ngợi xa gần,

Cửa thành thoát đã dần dần tới nơi.

Nhìn xem vật đổi sao dời,

Xiết bao cảm nổi sự đời tang thương.

Nàng đà an đốn hành trang.

Định ngày sắm sửa lễ tang họ Tào.                                       500

Tháng ngày dâng lễ giản mao,

Bên lăng dựng mấy gian lều khói hương.

Lần lần thỏ bạc ác vàng,

Thương tâm sắc cỏ, đoạn tràng tiếng quyên.

Đòi phen bát ngát giang thiên,

Thôi sầu đường nọ, lại phiền nỗi kia.

Xót người lần lữa xa quê,

Rừng thiền ai kẻ sớm khuya đấy cùng ?

Bốn phương vốn chí anh hùng,

Biết là người được tấm lòng ấy chưa ?                                  510

Nhớ lời nguyện ước ngày xưa,

Xa xôi ai kẻ đợi chờ chăng ai !

Ái Liên như có nhận lời,

Nên ra khi đã vịnh bài Đào yêu.

Mạch sầu lai láng khôn tiêu,

Một mình vò võ trăm chiều đăm đăm.

 

Chú thích:

Chân ngất; chất ngất, nổi lên cao lắm

481-486 Đạm Trai phê: “ Núi sông như cũ, thành quách khác xưa, cảnh huống ấy từ ngàn xưa vốn vẫn não lòng người. Đoạn văn này mỗi chữ là một giọt lệ, tình thiết, văn hay, tâm trạng, tinh thần nào khác ở thơ Quốc Phong, Thử Ly. Văn chương rất mực diệu kỳ.

Doanh lũy: chổ quân lính ở có thành đất cao bảo vệ.

Canh điêu: Canh là một phần năm của đêm chia ra. Mỗi canh 2 giờ (120 phút). Điêu, điêu đẩu là nồi nấu cơm đúc bằng kim loại, ngày thổi cơm, đêm thì gõ cầm canh. Canh điêu là tiếng quân lính gõ canh gác ban đêm.

Giốc: cái tù và bằng sừng.

Vật đổi sao dời: cảnh vật biến đổi, thời tiết cũng khác. Vương Bột bài Đằng Vương Các: Vật hoán tinh di kỷ độ thu. Vật đổi sao dời thu mấy độ.

An đốn hành trang: sắp đặt đồ dùng đi đường.

Giản mao: rau trong khe, ý nói lễ vật tầm thường, cốt lòng thành kính.

Bát ngát giang thiên: trời rộng sông dài.

Đào yêu: tên một bài thơ trong thiên Chu Nam, Kinh Thi: Kỳ nữ vu quy, nghi kỳ thất gia. Có về nhà chồng thuận hòa nhà cửa.

 

Hồi thứ Tám

Về làng cũ, chị lớn trối trăn cùng em gái

 

Mộc Lan xin phép Tuyến Nương về thăm nhà. Tuyến Nương tặng 100 lạng vàng, và cấp hai thị tỳ, rồi gửi một bức thư và kèm theo chiếc tên bị bẻ mũi nhọn nhờ trao lại cho La Thành. Về đến nhà mới hay cha mẹ đã qua đời, chỉ còn cô em gái Hựu Lan. Chưa kịp ngày lên đường thi bỗng bị một tên Man tặc ép duyên, nếu nàng không thuận sẽ giết hêt họ hàng. Cùng đường Mộc Lan giao lại tên thư cho em dặn dò rồi gieo mình xuống giếng tự tử. Hựu Lan cho một nữ tỳ về báo tin cho Tuyến Nương, và cùng nữ tỳ còn lại lên đường sang U Châu đưa thư và tên cho La Thành.

 

 

Quê người đã ít tri âm,

Tạ từ Lan lại về thăm quê nhà,

Ngại ngùng một bước một xa,

Chén quỳnh một chuốc lệ hoa đôi hàng.                      520

Rằng: “Nay ở chốn tha hương,

Ra vào khuya sớm lấy nàng làm đôi.

Tuy rằng là phận chúa tôi,

Cũng tình máu mủ như người đồng sinh.

Bây giờ nàng lại quy ninh,

Thiết tình khôn nhẽ ngăn tình cho đang.

Về thời kíp lại trở sang,

Chớ lâu nữa kẻ một phương ngóng chờ.

Một tên này, mây một tờ,

Gửi trao công tử tiện vào đường đi.                                       530

Tiễn hành nào biết lấy chi,

Hoàng kim trăm lạng, thị tỳ hai tên.

Thấy lời Lan cũng đeo phiền,

Tình nhà chưa nặng bằng bên tình nàng.

Thưa rằng : « Từ trận Diêm Cương,

Muôn nhờ Công chúa lòng thương đã đầy.

Ân sâu há phải một ngày,

Tái sinh đức ấy xem tày thân sinh.

Nay dù trở gót quy ninh,

Kíp chầy ắt phải thượng trình tới nơi.                                    540

Vâng lời chẳng dám lỗi lời,

Còn thân chẳng dám phụ người tương tri. »

Tạ rồi Lan trở ra về,

Hai tên thị nữ cùng đi theo nàng.

Lần lần điếm nguyệt cầu sương,

Hai tuần mới đến Sóc Phương quê nhà.

Hai thân dấu hạc đã xa,

Còn con em gái tên là Hựu Lan,

Trước giường lăn khóc kêu than,

Ngậm ngùi chín chữ, châu chan đôi hàng.                             550

Một cơn tủi tủi thương thương,

Hựu Lan thấy cũng đoạn trường đòi phen ;

Cùng nhau mới kể hàn huyên,

Ba thu khơi cách nỗi niềm xiết đâu.

Ở nhà chưa đặng bao lâu,

Định ngày lại đến U Châu đưa tờ.

Sự đâu có sự chẳng ngờ,

Trách ai sao khéo xe tơ lỡ làng.

Nguyên ngày đánh trận Diêm Cương,

Một tên Man tướng ơn nàng cứu cho.                                   560

Bấy lâu luống những thăm dò,

Rày nghe nàng ở viễn chu mới về.

Khiến người tin đến phòng khuê,

Lấy làm thị thiếp định kỳ nhập doanh.

Giục người thân thuộc dỗ dành,

Lấy điều uy thế ép tình một hai.

Nàng nghe ruột rối bời bời.

Một mình luống những đứng ngồi thở than.

Ngọn đèn chong bóng canh tàn,

Các điều mới dặn Hựu Lan ân cần.                                       570

“Về nhà vắng mặt hai thân,

Vốn đà chẳng biết có thân ấy rồi.

Trót cùng Công chúa nặng lời,

Nên còn rốn lại báo người tương tri.

Bây giờ sự đến bất kỳ,

Đường lui nỗi tới hai bề dở dang.

Chẳng nghe lời lụy họ hàng,

Nghe lời thời phụ lời nàng dặn ta.

Tuồng chi ép liễu nài hoa.

Tiểu tình nhỏ mọn, phận là ra đâu.                                        580

Thôi thời nát ngọc chìm châu,

Chẳng thời châu ngọc lẫn màu bụi nhơ.

Nầy vàng Công chúa tiễn đưa,

Nầy hai thị nữ, nầy tờ, nầy tên.

Chị đều phó thác cho em,

Nghĩ sao cho phải, cho yên suối vàng.

Trăm nghìn lạy gửi Đậu Nương,

Biết cho nông nỗi đoạn trường này không.

Hựu Lan nghe nói hãi hùng,

Ngõ nàng nàng hãy một lòng khăng khăng.                            590

Canh khuya ra trước bóng trăng,

Trông vời cố tỉnh, thẳm chừng thốt gieo.

Hóa công nở hẹp hòi sao,

Sinh ra mệnh bạc thời theo má hồng.

Người so hiếu nghĩa làm lòng,

Thân sao nhẹ nhỡ lông hồng cho đang.

Hựu Lan theo dấu vội vàng,

Thời đà chìm ngọc phai hương còn gì.

Khóc kêu : “Lồng lộng trời kia,

Làm cho oan chị tội thì tại ai ?                                               600

Chị dù khuất mặt tuyền đài,

Còn em chẳng dám phụ lời nấy trao.

Hồn thơm nay ở nơi nào ?

Hay sang Lạc Thọ hay vào U Châu ? “

Trước sao mấy nỗi nguyên do,

Một cơn gào gió tuông mưa dầm dề.

Tỉnh ra mới gọi thị tỳ,

Một cho ở lại, một về báo tin.

 

Chú thích:

Quy ninh: về thăm cha mẹ mình

Thiết tình: thực tình cần kíp lắm.

527-530. Đạm Trai phê Không phải Đậu Nương muốn gấp thấy mặt Mộc Lan, mà chính là nóng lòng được tin trả lời về bức thư tình, nàng gửi La Công tử. Lòng quy ninh của Mộc Lan biết đâu không phải do Đậu Nương ngấm ngầm kích động, nhưng không để lộ dấu vết, nàng quả thực khôn ngoan.

Sóc phương: phương Bắc.

Giường: linh sàn, giường thờ.

Chín chữ: sinh (đẻ), cúc (nâng niu), phủ (vỗ về), súc (cho bú), trưởng (mong cho lớn), dục (dạy dổ), cố (trông nom), phục (săn sóc), phúc (bảo vệ). Kinh Thi: Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao. Thương thay cha mẹ sinh ra ta nhọc nhằn. Chín chữ cù lao : cù là công khó, lao là nhọc nhằn.

Man tướng: Người Hán gọi người phương Nam chưa khai hóa là Man.

Thị thiếp: nàng hầu

Định kỳ nhập doanh: Hẹn ngày đưa Hoa Mộc Lan vào chỗ đóng quân viên tướng Man.

Câu 563-564: Đạm Trai phê : “Há lại có thể có truyện đem người đối với mình có ơn cứu sống, ép uổng hạ xuống làm nàng hầu vợ lẽ được ư ? Tên Man tướng thực chẳng còn mặt mũi nào ! Hắn vô lễ đáng ghét, người đọc tới đây nổi giận bừng bừng, khiến tóc đều dựng ngược.

Chong bóng: để đèn không tắt.

Ngỏ nàng: nói với nàng trình bày thiệt hơn để khuyên can.

Cổ tỉnh: giếng cũ.

Văn bản:

Bản C câu 529 chép:

Tên cung này dấu năm xưa,

Với đây một bức phong thơ gửi nàng.

U Châu cùng giáp Bắc phương,

Nàng về nẻo ấy sang ngang tiện đường.

Tiễn hành có mấy lạng vàng,

Con hầu ta cấp cho nàng hai tên.

Câu 543-544 bản A, B chép :

Sự tình mấy nỗi nằn nì,

Tạ từ Lan mới ra về cố hương.

 

 

 

Hồi thứ Chín

Đưa thư tình, gái đổi bận đồ trai.

 

          Sau khi an táng Mộc Lan xong, Hựu Lan cùng nữ tỳ còn lại cải nam trang đi U Châu tìm La Thành. La Thành đang xót lòng chờ đợi. Cơ đồ họ Đậu tan nát không biết nàng ra sao ? Bỗng thấy Hựu Lan đem thư lại, xin cổi bỏ lời thề trên ngựa ngày xưa.

          La Thành không biết tính sao, thì La Nghệ đến chơi, sau khi rõ nguồn cơn liền bảo con việc ấy dễ giải quyết vì Tuyến Nương nay là thân thích Hoàng hậu, ắt có thể dâng biểu xin Hoàng hậu đứng ra tác thành cho. Khi La Công về rồi La Thành ngắm kỷ lại Hựu Lan quả là con gái giả trai, nhan sắc xinh đẹp, liền cật vấn và thử thách nàng. La Thành nài ép lứa đôi, nàng cự tuyệt, khiến La Thành không dám coi thường và tiếp đãi nàng kính cẩn.

 

Định ngày hành tán đã yên,

Ghi lời nấy thác hầu truyền phong thư.                                  610

Nghĩ mình chút phận đào thơ,

Trong khi đường xá còn chờ yến oanh.

Chước chi cho được thông hành,

Phải cùng thị nữ cải hình nam trang.

Áo quần gọn ghẽ lên đường,

Quan sơn trải mấy nắng sương dãi dầu.

Tuần dư vừa tới U Châu,

Cửa thành may gặp quân hầu một tên.

Dần dà dẫn kể căn nguyên,

Đường xa khách lạ tạm phiền gởi thưa.                                 620

“Nầy tôi người Đậu Tiểu thư,

Nầy tên Công tử ngày xưa trận tiền.

Đưa vào để nhận dấu tin,

Ở đây còn bức vân tiên sẽ trình.”

Lạ thay mối chỉ cho thành,

Khi nên dắt lại như dành sẵn cho.

La Thành từ thuở gửi thư,

Đăm đăm ngày tháng như chờ hai trông.

E người trên giá tiếc công,

Hai thu chưa thấy nửa giòng tờ mây.                                     630

Lại nghe Ngưu Khẩu bị vây,

Nước kia đã thế người nầy làm sao ?

Lơ thơ chồi liễu bông đào,

Lạc loài nay đã thuộc vào tay ai ?

Tấc niềm như nấu như mài,

Lạ sao tin thước vang tai cớ gì ?

Chợt đâu nhác thấy thị tỳ,

Trước hiên cầm chiếc tên về dâng lên.

Bâng khuâng nhận dấu trận tiền.

Bằng ai đem ngọc Lam Điền trao tay.                                    640

Chốc đà năm sáu thu chầy,

Lòng này mong mỏi tên nầy biết bao.

Hành nhân còn ở nơi nao ?

Kíp sai ra rước đưa vào nhà trong.

Mời ngồi chưa kịp thung dung,

Vột tay mở bức thư phong xem tường.

Rằng : “Từ giao ước chiến trường,

Mấy lời dặn ngọc thề vàng chưa quên,

Nào hay đôi ngả đôi phen,

Cơ đồ vương bá phút nên đổi dời.                                         650

Cửa Hầu rờ rỡ phương trời,

Lứa đôi đâu đến những người bèo mây.

Dấu tình nộp lại tên nầy,

Giải lời trên ngực riêng tây thề bồi.

Ngập ngừng cất bút châu rơi,

Trăm nghìn gửi tạ lòng người cố nhân.”

Cầm tờ nghiền ngẫm đòi lần,

Đôi hàng lã chã nhuốm khăn quyến bào,

Cung trăng kia mấy trùng cao,

Tấc son dường ấy nỡ nào chẳng soi.                                    660

Mấy thu non nước xa xôi,

Những chồn lòng kẻ bên trời trông mong.

Lòng này đã phụ chi lòng,

Mà sao toan bẻ chữ đồng làm đôi ?

Ruột loan chín khúc bồi hồi,

Phong thư mở mở sụt sùi đòi cơn.

Đương khi sầu não châu chan,

La Công vừa buổi thừa nhàn xuống chơi.

Thấy tình công tử ngậm ngùi,

Lòng ngờ mới hỏi khúc nhôi cớ gì ?                                      670

Đưa thư kể hết vân vi,

Cười rằng : « Việc ấy lệ gì chẳng xong.

Nàng là thân thích Hậu cung,

Ta làm biểu tấu Cửu trùng ắt nên. »

La Công thong thả trở lên,

Một mình lại giở vân tiên chẳng rời.

Thấy sau tên họ rạch ròi,

Gọi là nghĩa muội ấy người đưa thư.

Nửa tin nhưng lại nửa ngờ,

Ngắm người rồi lại nhìn tờ đôi khi.                                         680

Áo quần ra dạng nam nhi,

Mà sao dung sắc có bề thanh tân.

Giá này cũng giá nghìn cân,

Bởi đâu dun dủi xoay vần lại đây.

Một nhà may được sum vầy,

Người kia đáng chị, người này đáng em.

Hay đâu là chẳng thiên duyên,

Đã xe tơ đỏ lại chen chỉ vàng.

Hằng Nga đã tỏ bóng gương,

Còn đem đá thử tuổi vàng xem sao.                                      690

Mượn điều bả lả han chào:

“Hành nhân có họ làm sao với nàng ?

Ngỏ lời buổi mới được tường,

Kẻo khi tân chủ lỡ làng thất nghi”.

Dứt lời Hựu đã ứng lời :

“Tôi cùng Công chúa cũng người trong thân.

Anh em nhà bác họ gần,

Vốn là cật ruột tay chân trong ngoài.

Việc này chẳng lẽ nấy ai,

Vậy nên lại phải cho tôi đưa tờ.”                                  700

Nghe lời giả cách bơ lơ:

“Hèn nào mà cũng trông như khổ nàng.

Đã là thân thích họ hàng,

Xin đừng e lệ qua sang cùng ngồi. “

Làm chiều dạn dĩ vâng lời,

Kẻo ta e ấp nữa người sinh nghi.

Vừa ngồi chưa kịp chuyện chi,

Một hai chàng lại mời về chái trong.

Khuyên mời một tiệc thong dong.

Anh em trò chuyện giã lòng làm quen.                                   710

Rõ ràng ngọn đuốc kim liên,

Hạnh khoe sắc thắm, sen thêm màu hồng.

Lòng say chẳng tại chén nồng,

Chiều ngoài lơi lả, tình trong mặn mà.

Hỏi rằng : “Non nước cách xa,

May sao xui khiến đôi ta tương phùng.

Biết nhau trọng biết tấm lòng,

Cùng anh nên tạc chữ đồng nên chăng ? “

Điều đâu thực, cợt dở chừng,

Nghĩ mình lông vuốt khó bưng mắt người.                             720

Tình này hẳn biết tình rồi,

Khôn bài thoái thác, khó lời nói năng.

Tía tai đỏ mặt bừng bừng,

Liễu chừng ngại gió, hoa chừng e sương.

Chán chường trong cỡ tất gang,

Xem chiều khép nép lại càng say sưa.

Cầm tay rằng : “Sự tình cờ,

Thôi đừng bưng bít toan mờ nhau chi,

Một đời dễ mấy tương tri,

Đã may gặp gỡ lấy gì làm duyên.”                                         730

Thưa rằng :”Dạy thế sao nên,

Cẵng ngồi thong thả thiếp xin một lời.

Quan san lận đận ra khơi,

Vâng lời khuê các tới nơi cửa hầu.

Phải tuồng Sở quán, Tần lâu,

Phải tuồng Lam ngọc gieo cầu cho nên.

Vẻ cho bèo bọt phận hèn,

Mà cho công tử lỗi nguyền kim lan.

Nào người đợi phượng chờ loan,

Nào lời gắn bó keo son dưới thành.?                                     740.

Thấy nàng một mực sắt đanh,

Nặng tình bên nể, nén tình bên yêu.

Rằng : “Nay chịu lỗi đã nhiều,

Vâng lời chẳng dám ép điều riêng tây.

Trăm năm xin ước từ đây,

Mà chờ công chúa mai ngày nên chăng ?”

Dứt lời Hựu lại thưa rằng :

“Một ngày gặp gỡ sao bằng duyên xưa,

Cẵng xin vẹn việc tiểu thư.

Bây giờ đã biết gửi thưa thế nào ? “                                      750

Nghe lời mừng dạ xiết bao,

Dâng đầy chén lục, khêu cao đuốc hồng.

Nửa rèm gió mát trăng trong,

Dặn lòng thôi lại rộn lòng đòi khi.

Rằng :” Đà ngàn nể muôn vì,

Non vàng chẳng nhẽ trở về tay không.

Đành hay tuyết trắng giá trong.

Dám đen tấc bụi bợn lồng gương ngân.

Chẳng thân gọi chút là thân,

May sao chăn thúy được gần hơi hương .”                            760

Thưa rằng : “Dạy mãi chi trường,

Này là tình thực xin chàng lượng suy.

Với nàng tôi chẳng họ chi,

Vâng lời nàng dặn vốn là chị tôi.

Cũng vì phận ép duyên nài,

Bỏ mình mà phó tờ bồi cho em.

Ngậm ngùi chịu lấy đưa tin,

Hồn thơm tưởng hãy theo bên mơ màng.

Tiện nghi bỗng chiếm duyên nàng,

Mặt nàng thấy kẻ suối vàng mai sau ?                                   770

Mặt nào chưa ráo giọt sầu,

Đã lòng trên bộc trong dâu ra gì ?

Dù chàng thực có nể vì,

Trong khi vắng vẻ ai suy thấu tình ?

Ở đời mang lấy ô danh,

Thà như kẻ trước sạch mình cho xong ! "

Lời đâu kinh sợ hãi hùng.

Thưa rằng : « Chẳng dám nặng lòng nữa đâu,

Muôn ngàn giữ ngọc gìn châu.

Phận này hoặc có mai sau thế nào. »                                    780

Dạy người thêm đặt tửu hào,

Một màu tiếp đãi trăm chiều nể nang.

Mái tây riêng dọn phòng hương,

Để cho thị nữ hầu nàng một bên.

 

Chú thích :

Hành táng : lễ chôn cất.

Yến oanh : tên hai loài chim con trống có mái thường đi với nhau.

Thông hành : đi suốt không cản trở.

Câu 615-620 Đạm Trai phê : « Mộc Lan giả trai để thay cha tòng quân, không ngờ làm ngòi dẫn chuyện Quân Trung Đối này giờ lại đến Hựu Lan giả trai đưa thư, vốn để làm trọn vẹn cái chí của chị mình, không ngờ lại biến thành tình tiết bồi thấn cho Quân Trung Đối. Con gái nhà họ Hoa cải trang, đổi thực làm giả, Trẻ Tạo lại dựa ngay vào đấy đổi giả ra thực, quả là huyền ảo vô cùng. »

Người trên giá : băng nhân, Kẻ làm mai . Trong Tấn Thư truyện Nghệ Thuật chép : Sách Đam giỏi đoán mộng. Linh Hồ Sách đậu khoa thi Hiếu Liêm, nằm mộng thấy mình đứng trên băng, cùng một người dưới băng nói chuyện kể lại nhờ Đam đoán giúp. Đam rằng : Trên băng là dương, dưới băng là âm, vậy là việc âm dương : kẻ sĩ cưới vợ, kịp lúc băng chưa tan, vậy là việc vợ chồng. Ông ở trên băng cùng với người dưới băng nói chuyện, dương với âm, vậy là việc mối manh, ông nên làm mối giúp người, băng chưa tan mà việc hôn nhân thành tựu.

Quyến bào : quến bào làm thấm ướt áo bào.

Tắc son : đan tâm, thốn tâm . Tấc lòng đỏ như son.

Cửu trùng : chín tầng cao xa, nhà vua.

Vân tiên : tờ giấy viết thư có vẽ mây.

Thanh tân : vẻ trong trắng người trinh nữ.

Câu 689-690: Đạm Trai phê: Không những đem đá thử vàng, còn có vẻ dùng bướm thử hoa buồn cười thực.

Thất ngơi: không thích hợp.

Tân chủ: khách và chủ.

Bơ lơ: bỏ lửng.

Kim liên: ngọn đuốc cắm trên đế hình hoa sen bằng vàng hay thếp vàng.

Cẵng: hãy hay hãng

Quán Sở lầu Tần: Tích vua Sở Hoài Vương đi chơi Cao Đường, mộng thấy thần nữ núi Vu Sơn cùng chăn gối, sớm làm mây, chiều làm mưa. Vua Tần Mục Công dựng lầu cho con là Lộng Ngọc đánh đàn thổi sáo. Ở đây chỉ sự phóng túng trai gái trong việc ân ái xướng hát.

Lam Ngọc: Lam kiều ngọc chữ. Bùi Hằng qua cầu Lam vào hàng uống nước thấy nàng Vân Anh đẹp, muốn cưới làm vợ, bà mẹ Vân Anh có cối bằng ngọc, buộc phải đem chày ngọc lại giã thuốc tiên. Bùi Hàng được tiên cho chày, đem lại giả thuốc, trăm ngày xong, cưới được Vân Anh, rồi hai vợ chồng thành tiên.

Gieo cầu: Vua Hán Vũ Đế kén phò mã. Công chúa ngồi trên lầu ném quả cầu ai cướp được thì làm rể.

Kim lan:giao tình kết hợp như vàng,khí vị thơm như hoa lan.

Câu 753-754 Đạm Trai phê: Gió mát trăng trong ! Cái đêm hôm ấy đêm gì, phòng riêng gặp người đẹp như tiên, ngoại trừ Liễu Hạ Huệ ra, không ai cầm nổi được lòng, chẳng cứ riêng một mình La Công tử.

Văn bản:

Hai câu 633-634 bản C chép là :

Mạnh chi là sức liễu đào,

Anh hùng còn chửa tài nào lọ ai !

 

Hồi thứ Mười

Tới viếng tang chàng rể buộc duyên xưa

 

          La Thành định về triều xin Hậu cung can thiệp. Hựu Lan khuyên nên sang Lạc Thọ điếu tang Tào Phi và gặp Tuyến Nương, La Thành nghe theo. Về phần Tuyến Nương hay tin Mộc Lan đã chết, đau đớn thương tiếc. Hựu Lan đến Lạc Thọ vào gặp Tuyến Nương kẻ mọi sự tình.Tuyến Nương tiếp đãi ân cần cùng nàng kết nghĩa chị em.

          La Thành vào lễ trước linh sàng Tào Thị, Tuyến Nương mặc đồ tang lạy trả, xong vào nhà trong bày tiệc khoản đãi. Tuyến Nương từ chối lấy lẽ trên nàng còn có Đậu Hoàng Hậu chủ trương.

 

 

 

Trị tang rồi mới gác yên,

Toan ra biểu tấu Trường An tiện đường.

Đợi ban ngự chỉ rõ ràng,

Sẽ về Lạc Thọ rước nàng nghi gia.”

Hựu rằng; “Suy dạ đàn bà,

Như lời công tử đặt ra bất tình.                                   790

Tiểu thư lòng vốn đinh ninh,

Một lời chưa dễ đã khinh ngàn vàng,

Bấy giờ đòng bác ngỗn ngang,

Thưa tin chẳng lẽ trách chàng xa xôi.

Chỉn vì cuộc thế đồi dời,

Không lời tôn mệnh, thiếu người băng nhân.

Kể đà nghĩ ngợi muôn phần,

Mới cho sứ nhạn ân cần báo tang.

Nước non chẳng quản dặm nghìn,

Đưa thư xem ý, trả tên thử lòng.                       800

Luận trong hai chữ tình chung,

Thuyền quyên há phụ anh hùng chút nao ?

Năm thu được bức thư trao,

Lẽ thời pha gió ruổi sao thấy nàng.

Tiến kinh vội đã tiện đường,

Mặt ai chửa giáp, tình chàng ở đâu ?

Lòng kia vốn tạc xưa sau,

Ép lòng lọ phải biểu tâu làm gì ?

Nghe lời kể hết vân vi,

Hỏi rằng: “Đã vậy nên thì làm sao ? “                           810

Thưa rằng; “Trong nghĩa cựu giao,

Nên sang Lạc Thọ mà vào điếu tang.

Một là cho thấu tình chàng,

Hai là tiện thể rước nàng vu quy.

Dầu nàng quyết hẳn một bề,

Sẽ ra biểu tấu thế thì mới nên. »

Khen lời thông nhẽ kinh quyền,

Dè chừng Lạc Thọ băng miền ruổi sang.

Xiết đâu chép cảnh đường trường,

Xót người mong mỏi một phương tin nhàn.                  820

Phong thư từ gửi Mộc Lan,

Tấc lòng hoài viễn bàn hoàn đòi khi.

Nhác trông chợt thấy thị tỳ,

Sự Lan sau trước đã về báo tin.

Ngập ngừng kể hết căn nguyên,

Một cơn mây tủi gió phiền bởi đâu.

Chị em tôi chúa bấy lâu,

Gian nan tân khổ cùng nhau đã nhiều.

Thương thay tài sắc đủ điều,

Nghìn vàng thân ấy nỡ liều bỏ đi.                      830

Những rằng nhiều hợp ít ly,

Ai hay vĩnh biệt từ khi tiễn hành.

Thư từ còn dở mối tình,

Nỗi nàng đã thế việc mình làm sao ?

Giang sơn cách trở âm hao,

Cửa hầu tựa bể lối nào thông tin.

Cùng ai dở dói nỗi niềm ?

Đêm đêm vừng nguyệt hoa đèn làm đôi.

Áo xanh chợt thấy bóng người,

Kìa tên thị nữ cùng ai mới về.                                     840

Ngửng trông thác bức mành the,

Hỏi rằng: “Ở lại việc gì bấy lâu ? “

Thưa rằng: “Hoa tỉ trầm châu,

Theo Hoa muội đến U Châu đưa tờ.

Vâng lời công tử dạy chờ,

Lên đường một lũ nay vừa tới nơi.

Có Hoa muội ở bên ngoài,

Nhủ tôi vào trước có lời gửi thưa.”

Dàn dà mới kể tóc tơ,

Xem tờ ngắm dấu sau xưa các điều.                           850

Nghe lời lặng chẳng rằng sao,

Gục ra rước Hựu Lan vào kẻo lâu.

Rõ ràng cây ngọc cành châu,

Xem ra khổ dạng đã màu phương phi.

Gọn gàng trang phục nam nhi,

Khác nào Hoa tỉ gặp khi trận tiền.

Gót sen vừa tới bên thềm,

Mới hay thần nữ xuống miền nhân gian.

Lòng riêng thôi nghĩ lại bàn,

Gặp con người ấy ai làm trượng phu ?                        860

Mời vào trong trướng lưu tô,

Chủ tân một tiệc, chuyện trò gần xa,

Dang tay chuốc chén la đà,

Rằng : « Xưa lệnh tỉ vốn là chị em.

Với nàng hiềm chửa được quen,

Mà nay lận đận nặng phiền nể thay.

Đã dời gót ngọc đến đây,

Kết nguyền xin lại nối ngày xưa kia. »

Hựu rằng : « Ơn lượng chở che,

Cứu cho tiên tỉ thủa khi lỡ chừng.                     870

Thiếp tuy khơi cách chưa từng,

Dẫu em như chị há rằng khác nhau.

Đương cơn gió thảm mưa sầu,

Lại vâng phó thác trước sau ân cần.

Ghé vai chịu lấy gánh ân,

Xa xôi bao quản nhọc nhằn quan sơn.

Cửa hầu từ bắn tin nhàn,

Tình công tử cũng ra nhường khôn nguôi.

Lên đường vội ruổi tới nơi.

Châu quan còn rước nghỉ ngơi bên thành. »                880

Lặng nghe đã thấu mọi tình,

Khoan thai lại chuốc chén quỳnh mời khuyên.

Những là thết đãi chưa yên,

Lầu điêu nghe đã tiếng truyền tan canh.

Thước đâu réo rắt bên mành,

Chợt tin công tử bên thành tới nơi.

Dừng yên xuống ngựa mái ngoài,

Sau đem một lễ dâng nơi linh sàng.

Khiến người đón trước tế đường,

Rằng : « Đà ơn đội tình chàng xa xôi.                          890

Chỉn nay tang sự đã rồi,

Dám xin miễn lễ tạm ngồi thong dong.

Chàng rằng: “Khơi cách mấy đông,

Đã cam phụ chữ tình chung tại mình.”

Song xin xét lại thứ tình,

Quan san bao nả, lửa binh nhường nào.

Bấy chầy viễn vọng khát khao,

Trước vào hành lễ, sau vào thỉnh an.

Phải là dung thứ cho nên,

Mà sai lời dạy có bên cả nề ?                                      900

Lũ hầu vâng mệnh trở về,

Chàng đà sửa áo trước hè bước lên.

Trước sàn vừa cuốn bức rèm,

Hạ phi Tào thị nhắc trên chữ bài.

Đăm chiêu mấy kẻ tôi đòi,

Bên người chuốc rượu, bên người dâng hương.

Tả môn vừa hé then sương,

Đôi hầu phù vực một nàng bước ra.

Vóc quỳnh vận áo thôi ma,

Nguyệt lồng kim cúc, tuyết pha hải đường.                  910

Giây gai ren rén dẽ dàng,

Hãy còn bước bước sen vàng nở theo.

Não nùng một bước trăm chiều,

So ngày trên ngựa nét nào có sai.

Sụp ngồi đáp lễ bên ngoài,

Dầu dầu như có ngậm ngùi vẻ hoa.

Ngập ngừng cảm nỗi gần xa,

Khiến công tử cũng châu sa ngắn dài.

Án tiền bốn lễ vừa rồi,

Tiểu thư thoắt đã giở hài mái trong.                             920

Đặt bày một lễ tảo phong,

Hữu biên tân vị mời công tử ngồi.

Chực bên sẳn có con đòi,

Thong dong chàng mới gửi lời vào thưa.

Rằng : « Từ gặp gỡ dưới cờ,

Chăm chăm tháng đợi năm chờ đến đây.

Xoay vần lại có ngày nay,

Một lời xin dạy việc nầy cho xong. »

Gái hầu lĩnh mệnh vào trong,

Giở ra mới thấy thủy chung lời nàng.                           930

Rằng : « Từ một ước chiến tràng,

Bên tai tưởng hãy mơ màng hôm qua.

Cũng vì thời thế khác xa,

Người sang sao dám đem ra sánh bày.

Ơn lòng tri kỷ đã dày,

Nước non còn giữ lời này trước sau.

Dấu bèo từ lọt cung châu,

Chủ trương muôn việc mặc dầu lượng trên.

Vâng lời cố vấn cần quyền,

Biết đâu thưa lại là nên lẽ nào ?  »                               940

 

Chú thích :

Trị trang : sửa soạn đồ đi đường.

Gác yên : đặt yên lên lưng ngựa, rồi buộc qua bụng cho vững chắc.

Ngự chỉ : lệnh truyền của vua

Nghi gia : Nghi kỳ thất gia. Kinh Thi bài Đào Yêu. Chi tử vu quy, nghi kỳ thất gia. Con gái về nhà chồng, vợ chồng thuận hòa, cửa nhà êm ấm.

Bất tình: không có tình nghĩa.

Đinh ninh: dặn dò, khăn khăn tự hẹn với lòng mình.

Đòng bác: Đòng là giáo nhọn như đòng đòng. Bác là súng lớn. Câu 793: Bấy lâu nay có giao tranh bắn giêt lẫn nhau.

Tôn mệnh : lời truyền bảo cha mẹ, bề trên.

Cựu giao : bạn bè chơi nhau đã lâu.

Kinh quyền : Kinh là đạo thường, đường dọc, sợi thẳng, quyền là quả cân. Gặp lúc biên phải cân nhắc làm cho phải lễ, tuy việc ấy trái với đạo thường.

Hoài viễn : nhớ người xa.

Bàn hoàn : quanh co, ý nói Đậu Nương nghĩ ngợi quanh co (khác bàng hoàng : bối rối ; nghi ngại, ý không chủ định.)

Âm hao : tin tức.

Câu 839- 840 Đạm Trai phê “Đi tới một nơi nước thẳm non cùng, tường là hết lối thoát ra, ai ngờ bỗng lại có một con đường tươi sáng. Sung sướng thực.”

Thác: mở ra, vén lên.

Trầm châu: hạt châu chìm xuống nước, chết

Khổ dạng: Cở người, hình thể.

Phương phi: đẫy đà, đẹp đẽ.

Lưu tô: đời cổ lấy chim năm sắc, buông rủ xuống để tô điểm, phàm xe ngựa lâu đài, rèm trướng đều trang sức như vậy cho đẹp gọi là lưu tô.

Châu quan: vị quan cai trị ở châu.

Thước : con chim khách, báo hiệu có khách đến.

Tế đường : nhà thờ cúng tế.

Cả nề : nhiều e ngại, câu chấp.

Vóc quỳnh : thân người như cây quỳnh.

Tảo phong : tẩy trần, quét sạch trừ những khí độc của gió sương nhiểm vào mình khi di đường.

Tân vị : chổ ngồi dành cho khách

 

Văn bản :

Từ câu 841 đến 654 bản C chép như sau :

Trước doanh kể hết vân vi,

Từ khi thượng lộ đến khi tiến thành.

Vâng lời nghỉ lại công dinh,

Đợi chờ công tử trị hành cùng đi.

Nay công tử trú thành kia,

Nàng Hoa muội đã cùng về với tôi.

Dừng chân hãy ở bên ngoài,

Còn e đường đột phải lời thưa qua.

Nghe lời mừng một đặng ba,

Sửa giày thay áo vội ra rước vào.

Nhác xa cây ngọc cành dao,

Vẻ mai chẳng kém sắc đào một ly.

Từ câu 877-886 bản C chép :

Trướng hoa giao bái lễ rồi,

Khoan thai lại chuốc chén mồi mời khuyên.

Vui người vui chuyện suốt đêm.

Nhỏ to kể hết nỗi niềm tóc tơ.

Hựu rằng «  Buổi mới đưa thư,

Nguyên vì chữ ‘muội’ trong tờ hở đuôi.

Tôi còn bưng bít dấu người,

Chịu ngồi đối mặt, chịu mời làm anh.

Dần dà ra ý thử thanh,

Cố cùng phải nói tận tình mới thôi.  »

Tiểu thư thấy nói mỉm cười,

Rằng : « Ai ai cũng lòng người yêu hoa.

Đôi ta cũng bạn đàn bà,

Ví làm công tử chẳng mà thế ru . »

Cùng nhau cợt giễu chuyện trò, 

Phù tang đã gác vầng ô đầu cành.

Thước đâu một tiếng trước doanh,

Chợt tin công tử bên thành mới sang.

 

Bấm vào đây để coi tiếp 1 2 3

Paris 28-7-2013
TS Phạm Trọng Chánh

Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục. Viện Đại Học Paris V Sorbonne.Tác giả : Hồ Xuân Hương Nàng là ai ? Nguyễn Du mười năm gió bụi và mối tình Hồ Xuân Hương. Truyện thơ Odyssé thi hào Homère qua 12110 câu thơ lục bát. Sử Thi Iliade qua 16833 câu thơ lục bát. Tự điển tình yêu bằng thơ tình Xuân Diệu Thơ Tình Nhất Uyên (Huy Cận, Xuân Diệu đề tựa)..

 

 

 

 

 

                                        

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

,