"Ta muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém cá tràng-kình ở Biển Đông, quét sạch bờ-cõi để cứu dân ra khỏi nơi đắm-đuối chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu, cong lưng làm tỳ-thiếp cho người ta." ** Triệu Thị Trinh **

 

Nguyễn Nghi (phần 3)

Tác giả truyện thơ QUÂN TRUNG ĐỐI

Ngôi sao và kiệt tác văn học họ Nguyễn Tiên Điền bị lãng quên

 

 

Hồi thứ Mười một

Lạy thềm rồng cung thẳm buộc giây tơ

 

 

          La Thành đành phải về Trường An, trước hết ghé thăm Tần Thúc Bảo, gặp Tề Quốc Viễn nhắc lại chuyện xưa. Tần Thúc Bảo đem bức thư ra. La Thành nhận xét không phải chữ của mình, mà giống chữ trong thư Hựu Lan đưa đến mới vỡ lẽ Đậu Tuyến Nương hy sinh duyên mình, nhưng Ái Liên đã có chồng rồi. Hôm sau Tần Thúc Bảo vào chầu Hậu Cung. Đậu Hoàng hậu giáng chỉ đòi Tuyến Nương về bệ kiến. Tuyến Nương ép Hựu Lan cùng về. Hoàng hậu tán thành nhân duyên Tuyến Nương với La Thành và cho Hựu Lan cùng về làm dâu họ La. Sau khi cử hành hôn lễ cả ba đi thăm cha Đậu Kiến Đức rồi trở về U Châu một nhà hợp hòa vui vẻ.

 

Nghe lời dám gạn lời sao,

Việc này chẳng kẻo tâu vào nhà vương.

Đinh ninh từ biệt với nàng,

Vó câu thẳng ruổi dặm tràng vào kinh.

Nắng sương kể mấy nhật trình,

Hai tuần vừa thấy tới thành Trường An.

Khách đình tạm trú chinh yên,

Tìm nhà Thúc Bảo trao tin thiếp hồng.

Quân hầu chuyển báo doanh trung,

Tần Công kíp khiến rước công tử vào.                        950

Trước hiên mừng rỡ đón chào,

Hàn huyên cùng giải khát khao bấy chầy.

Tửu hào một tiệc đặt bày,

Thong dong lại giở chuyện ngày năm xưa.

Tần rằng : « Trước thấy có thư,

Cậy tôi giúp sức đưa tin Nhị Hiền.

Song nhà Đơn nữ Ái Liên,

Thất gia vốn đã kết nguyền cháu đây.

Quan sơn binh lửa bấy nay,

Những là công vụ nên chầy phục thư. »                       960

Thấy lời công tử ngẩn ngơ,

Giờ lâu nghĩ ngợi, chẳng thưa một lời.

Sự đâu ngán lẽ nực cười,

Tề huynh há phải là người sai ngoa ?

Tần Công truyền lấy tờ ra,

Phong thư còn dấu, tờ đà chữ ai ?

Nhạc vàng sang sảng bên tai,

Chợt vừa Quốc Viễn lại chơi buổi nhàn.

Mời ngồi tân chủ đã an,

Cầm tờ chàng mới hỏi han sự tình.                             970

Tề răng : Thuở ấy hồi trình,

Gặp quân Hạ đuổi man binh bên đèo.

Đương khi ngọc đá hổn hào,

Hạ quân bắt lấy đem vào hỏi tra.

Ví không có bức tờ hoa,

Thì ai biết rõ cho là hành nhân.

Kế cùng chẳng lẽ phân trần,

Phải đem tờ nạp trong quân làm bằng.

Tuyến Nương dường có ý mừng,

Thu tờ giữ lấy dùng dằng suốt đêm.                            980

Dầu xem, dầu chẳng mở xem,

Đến khi phó trả còn niêm rành rành.”

Nghe lời chàng đã hay tình,

Vì người mà chẳng vì mình mấy gan !

Soi cùng thư gửi Hựu Lan,

Hai tờ dấu chữ như in một người.

Tần Tề gạn hỏi khúc nhôi,

Khen rằng : « Có tiếng trong đời chẳng nhưng. »

Thốt thôi cả mở tiệc mừng.

Dặt dìu chén chúc, chưng lừng khúc ca.                      990

Đêm khuya bước nguyệt ngồi hoa

Lời đồng tâm nức một nhà chi lan.

Thẻ rồng khắc đã lụn tàn,

Chín lần cửa mở, trăm quan vào chầu.

U Châu bản quỵ dâng tâu,

Cậy quan Thái giám đón hầu Hậu Phi.

Dạy rằng : Khói cách biên thùy,

Lão thần phải có việc gì đến ta ? »

Truyền cho mở tấu xem qua,

Mới hay là việc hai nhà kết duyên.                               1000

Cười rằng : « Cửa tướng con hiền,

Nhắc cân tài sắc đã nên cân bằng.

Đôi nơi cũng một cung trăng,

Tay ta xe mối xích thằng này cho.

Cắt người kíp ruổi đình phô,

Ban bài lấy Đậu Tiểu Thư vào hầu.

Nội quan vâng mệnh giong câu,

Hai tuần gióng giả mới hầu tới nơi,

Vâng lời nội chỉ truyền đòi,

Tiểu thư sắm sửa mới dời chân ra.                             1010

Hựu Lan xin ở lại nhà,

Một hai nàng cũng ép ra một đoàn.

Gót hoa vừa tới Tràng An,

Cung môn đã có nội quan đưa vào.

Thoát nhìn Vương hậu hỏi chào:

“Tuyến Nương đã những ngày nào mới ra.

Ngày rày có hiểu họ La,

Việc người mà lại đến ta tâu bày.

Lứa đôi xem cũng xứng tày,

Lòng ta đã định chọn ngày kết nhân.”                          1020

Tâu rằng: “Lạm dự trong thân,

Nhờ công gây dựng bằng ân sinh thành.

Xót còn dở một mối tình,

Tấc niềm canh cánh bên mình chưa an.

Thiếp xưa vốn với Mộc Lan,

Chị em trót đã đa mang chữ tình.

Từng phen cửa khuyết nộp mình,

Từng phen chầu chực hậu đình có nhau.

Chẳng may tảo phận trầm châu.

Em là Hựu lại nối nhau kết nguyền.                             1030

Phận hèn dầu đội ơn trên,

Cũng trao duyên mới cho tuyền nghĩa xưa.”

Nghe lời minh bạch tâu thưa,

Sai quan cho triệu Hoa thư vào chầu.

Mảng đòi nàng chẳng dám lâu,

Theo chân nội giám khấu đầu trướng loan.

Nhìn xem con trẻ khôn ngoan.

Khen rằng đọ với Mộc Lan một nhòng.

Sự này thật sự lạ lùng,

Tay xe một sợi chỉ hồng được hai.                              1040

Truyền quan trạch nhật ngày mai,

Để cho ba họ kết đôi lấy ngày,

Tin xuân một xuống năm mây,

Hoa cười hạnh uyển, hương bay tiêu phòng.

Phấn vua rạng rỡ má hồng,

Thuyền ly sáu nhạn sân rồng trăm xe.

Cùng nhau bái tạ đan trì,

Một đoàn xe ngựa ra về thong dong.

Tiện đường đến trước Đậu Công,

Khấu đầu chàng mới giải lòng xưa sau.                       1050

Cảm tình cánh biệt bấy lâu,

Tiểu thư đòi trận giọt châu chan hòa.

Hựu Lan dập lạy trình qua :

“Mộc Lan tảo phận tôi là con em »,

Một cơn rộn rã dưới thềm,

Xui lòng thiền định bỗng nên bồi hồi.

Đường kia nỗi nọ tơi bời,

Phần mừng con đến, phần vui rể hiền.

Phần ngừng thân phận già chiền.

Phần thương Lan những truân chuyên vì mình.           1060

Hàn huyên đã hết mọi tình,

Thuyền quan bái biệt trường đình gác yên.

Ngựa lên đường cũ như tên,

Giang sơn đòi chốn cảnh quen nước người.

Một làn bãi phẳng dặm khơi,

Nầy năm năm trước là nơi chiến trường.

Rỡ ràng nghìn tía muôn vàng,

Cỏ hoa nay đã tỏ tường chúa xuân .

Quản huyền đòi chặp dậy rân,

Chẳng như trống trận trong quân ngay nào.                 1070

Yến oanh tấp nập nhường bao,

Đôi xe một ngựa ruổi vào thành trung.

Dưới hiên yết kiến La Công,

Lầu châu dọn sẵn đuốc hồng khêu cao.

Giữa trời vằng vặc ba sao,

Khúc cưu đã ngợi thơ đào lại không.

Trăm năm khăn khít giải đồng.

Chăn loan đầm ấm, giấc hồng say sưa.

Cửa cao trăm phúc thừa lưa,

Ba hòe năm quế sởn sơ đòi ngành.

 

Chú Thích:

Khách đình tạm trú chinh yên: La thành tạm nghĩ trọ nơi nhà khách, yên ngựa tạm xếp lại.

Thất gia: gia thất, vợ chồng.

Câu 336 Đạm Trai phê: “Lúc này chủ khách cùng sống trong mơ, rượu uống vào khó trôi qua thực quản. Câu 337 “Đây là thư riêng nơi của tướng, nên chỉ lạ lùng, mặt đối mặt nhìn nhau sửng sốt, giá ví dụ lại là công văn nơi Nha, Vệ ắt coi như có sự lầm lạc mà nhiều kẻ chết đòn oan.”

Hồn trình: Đường về.

Trần trần: trơ ra, ỳ ra.

Chưng lừng: tưng bừng rực rỡ.

Đình phô,: nhà trạm. Ruổi đình phô: chạy ngựa trạm.

Bài: Thẻ ở trong cung hay nha môn dùng để sai, đòi.

Nội chỉ: lệnh truyền bảo từ cung cấm, lệnh Đậu Hoàng Hậu.

Kết nhân: kết nhân duyên vợ chồng.

Hậu đình: sân ở cung sau, trỏ cung Hoàng hậu.

Tảo phận trầm châu: phận ngắn ngủi nên chết sớm.

Mảng: nghe

Nhòng: tiếng xưa là giống.

Hạnh uyển: vườn mận.

Thềm ly: thềm rồng. Con ly giống con rồng, sắc vàng không có sừng.

Sáu nhạn : Theo sách nghi lễ. Hôn lễ của bậc sĩ có sáu: 1 Nạp thái (chạm ngõ) 2. Vấn danh (ăn hỏi) 3. Nạp cát (báo tin được điềm lành khi lễ từ đường) 4. Nạp chưng: dần lễ. 5 Thỉnh kỳ (xin cưới). 6 Thân nghênh (rưóc dâu). Trừ nạp chứng 5 lễ kia đều dùng chim nhạn (ngỗng trời). Vậy thềm ly và sáu nhạn là cử hành hôn lễ ở triều đình, có vua hoàng hậu đứng chủ hôn.

Trăm xe: bách lạng thơ Thước Sào: Chi tử vu quy, bách lang nha chi, Cô về nhà chồng xe đón hàng trăm. Ngày xưa con gái nước chư hầu gả con cho chư hầu khác, tiễn đón bằng trăm cái xe.

Dập lạy: lạy đụng đầu xuống đất.

Già chiền: Thiền già, Thiền môn, cửa chùa.

Quản huyền, sáo và đàn.

Khúc cưu đã ngợi. Kinh thi, thơ Quan thư: Quan quan thư cưu. Tại hà chi châu: Chim thư cưu hót vang trên bãi sông

Thơ đào lại không: thơ Đào yêu trong Kinh Thi: Đào chi yêu yêu. Chước chước kỳ hoa. Chi tử vu qu., Nghi kỳ thất gia. Cành đào non non, Hoa đẹp dễ thương. Cô về nhà chồng. Cửa nhà hoà thuận.

Giấc hùng: hùng là con gấu. Ngày xưa cho rằng nằm mơ thấy gấu là điềm sinh con trai.

Thừa lưa : dồi dào

Ba hoè năm quế: con cái đông đúc hiển đạt.

Về đọan 1073 -1078. Đạm Trai phê: Vốn là đuốc hoa động phòng lại nhường nắng mãi nay mới gặp mưa, chẳng những ngâm thơ Đào Yêu, Thước Sào, lại thêm sao nhỏ năm ba.. tề tề chỉnh chỉnh, thơ Tiểu tinh ý nói có Hựu Lan làm trắc thắt, kể về điều mừng thì được hai trong bốn, kể về thơ thì được ngâm ba bài thơ trong hai nước thuộc Chinh phong: Chu, Thiệu. Quân Trung Đối thực dồi dào thịnh mỹ, không truyện nào có thể sánh được.

Văn bản:

Từ câu 934 đến câu 912 hai bản A, B chép là :

Sang hèn phải trái nghĩ đà chẳng nên,

Ơn lòng hạ cố cần quyền,

Xét trong phận nhỏ, còn trên trướng gà.

Nghe lời thị nữ trình ra,

Việc này ắt phải tâu qua nhà vàng.

Từ câu 1018 đến câu 1026 bản C chép là :

« Vì người ta dựng cửa nhà cho an .» 

Tâu rằng: « Cỏ nội hoa hèn,

Gót đầu đền đội ơn trên tài bồi.

Lều tranh tang chế vừa rồi,

Rừng xuân khơi cách chưa lời trình qua.

Dám xin xét đến tình nhà.

Cho toàn chữ hiếu ấy là vẹn thương. »

Dạy rằng : « Trung hiếu hai đường,

Hành quyền với lúc thủ thường khác xa.

Bằng nay muôn việc ở ta,

Mệnh trên so với tình nhà đâu hơn ?

Bôn tang, có thuở thành hôn,

Nghi gia rồi lạy thiền môn há chầy “.

Tâu rằng : “Nhờ đức cao dày,

Vâng lời giáo huấn dường này dám sai.

Tình riêng chút bạn trúc mai,

Mộc Lan cùng thiếp nặng lời đồng minh.

Từ câu 1033 đến 1038 hai bản A, B chép :

Ngự nghe ban triệu Hoa Thư,

Cho vào gần trước thư từ hỏi han.

Khen rằng con trẻ khôn ngoan,

So vào chị nó Mộc Lan cũng dòng.

Câu 1041-1044 bản C chép:

Lứa đôi đã xứng sắc tài,

Truyền quan trạch nhật nay mai chớ chầy.

Tư thiên tâu đã được ngày,

Sính nghi chàng đã sắp bày an xong.

Từ câu 1060-1064 hai bản A, B chép là :

Phần thương Lan đã châu chìm ngọc tan,

Giờ lâu mới kể hàn huyên,

Một tuần nghỉ lại thiền quan dã dề.

Vâng lời tôn mệnh ra về,

Một đoàn cùng thỏa lòng quê mong chờ.

Lần lần gió đón xuân đưa,

Cửa thành trông đã hầu vừa tới nơi.

Từ câu 1074 -1080 hai bản A, B chép :

Lễ rồi trở lại động phòng trao tay.

Một nhà ba bạn sum vầy,

Khúc khi hoà nhã, tiệc này say sưa.

Cửa cao khúc vịnh chung tư,

Ba hòe năm quế sởn sơ đòi cành.

 

 

 

 

 

 

Hồi thứ mười hai

Ải lang tạnh khói rót rượu tế bên mồ.

 

          Về sau La Thành được phong Tổng Quản, cầm binh đi đánh Sóc Phương, Tuyến Nương cũng ra trận giúp chồng. Dẹp giặc xong, cả ba cùng về quê tế mộ Mộc Lan, và từ đấy cùng nhau hưởng vinh hoa phú quý.

 

Chợt tin có chiếu tiến binh,

Ban chàng Tổng Quản đánh thành Sóc Phương

Dựng cờ gióng trống lên đường,

Nghĩa binh cũng nhớ nghĩa nàng đua nhau.

Thiên Sơn nặng sức cung dâu,

Vén tay so lũ tỳ hưu ai dài.

Ải lang việc nước đã rồi,

Cùng theo nàng Hựu về chơi quê nhà.

Một vùng cỏ áy bóng tà,

Nầy mồ Hoa tỉ đây đà phải chưa ?                                         1090

Thương thay ! cùng phận hạt mưa,

Người may, người rủi, mặc ưa chữ thì.

Thân nàng chẳng sớm thiệt đi,

Cưỡi rồng phận ấy kém gì chị em.

Một cơn Công chúa châu chan,

Hựu Lan lại thấy càng thêm sụt sùi.

Phong trần đã định cõi ngoài,

Chàng vâng chiếu chỉ khải hồi hưu binh.

Sủng quang ân đội triều đình,

Dồi dào lộc nước hiển vinh phúc nhà.                                    1100

Chiếu rồng rờ rỡ cổn hoa,

Chàng phong quận tước, nàng là phu nhân.

Nhà chung đỉnh, cửa đai cân,

Nối dòng giáp trụ nghìn xuân dõi truyền.

Dấu xưa chép để một thiên,

Sự đời kim cổ đã nên họa hoàn.

Cho hay tài tử giai nhân,

Lứa đôi chẳng lệch đồng cân chút nào ?

Tơ duyên đã dễ cho sao !

Lâu lâu rồi mới xe vào một nơi.                                             1110

Chẳng thời sao biết thợ trời,

Chẳng thời sao biết lòng người sắt đanh.

Chẳng thời sao chép sử xanh,

Chẳng thời sao có thơm danh muôn đời.

Nhân khi thong thả ngày dài,

Lựa lời mà chép kể chơi đỡ buồn.                                         1116

HẾT

Chú Thích:

Thiên Sơn: Tên núi thuộc địa phận Tân Cương cao 7340m. Đời Đường Cao Tông, Tiết Nhân Quý làm Tổng Quản Đạo Thiết Lặc. Có giặc trăm ngàn quân đến khiêu chiến. Nhân Quý bắn ba mũi tên giết ba người giặc kiếp sợ xin hàng. Trong quân có câu ca: Tướng quân tam tiễn định Thiên Sơn, Tráng sĩ trường ca nhập Hán Quan. Tướng quân ba mũi yên Thiên Sơn, Tráng sĩ khải ca vào Hán Quan.

Tỳ hưu: con gấu trắng, rất mạnh, đời xưa gọi tráng sĩ là con gấu trắng.

Hai câu 1085-1085. Đậu Tuyến Nương cùng đội nữ binh cùng dự việc đánh dẹp, vén tay trương cung bắn tên hàng giặc như Nhân Quý, để sánh cùng nam nhi ai hơn.

Ải lang: đời cổ ngoài biên thùy các cửa ải khi có giặc thì dùng phân chó sói, phân chồn, phơi khô trộn với rơm rạ làm thành ụ lửa đốt lên, ngọn lửa bốc thẳng và sáng, để báo động cầu viện binh.   Chinh Phụ Ngâm: Khói cam tuyền rạng rực bóng mây

1083-1090 Đạm Trai phê: “Quân Trung Đối lấy mũi tên U Châu bắt đầu, lấy mũi tên Thiên Sơn kết thúc, lúc bắt đầu giống cái khéo bắn trúng bắn sẻ, lúc kết thúc giống cái khỏe tay vượn trương cung. Vì bắn khéo nên trúng Đậu Nương lại kèm trúng Hựu Lan, vì bắn khỏe nên nhân định phương Bắc xong rồi, bèn đi viếng mộ Mộc Lan để hương hồn nàng được an ủi phần nào, ấy là phép Quân Trung Đối khởi lên và kết lại đến đây trọn vẹn”.

Khải hồi: khải hoàn, thắng trận trở về, khải đánh nhạc mừng thắng trận, vui.

Hưu binh: nghỉ binh, không dùng binh.

Sủng quang: rạng rỡ vẻ vang vì được vua yêu quý. Cũng có khi dùng chữ long quang lấy trong thơ Lục Tiêu, Tiểu Nhã.

Cổn hoa: áo thêu rồng cuốn. Ý nói sắc mệnh vua ban, vinh hiển như khoát áo thêu rồng vào mình.

Họa hoàn: vẽ nên, vẽ xong. Họa hoằn tiếng Nôm có nghĩa là ít có hiếm hoi.

 

Văn bản:

Hai câu 1095-1096 bản C chép:

Chén vàng tay rưới tro tiền,

Khấn rằng : “Kẻ dưới hoàng tuyền thấu không ? “

Đôi nàng châu lệ ròng ròng,

Thấy nàng chàng cũng động lòng tiếc ai.

 

LỜI TỰA CỦA THANH BỐI CÚC KHÊ PHU

 

          Tôi cùng anh Chu Kiều họ Nguyễn, nói về dòng dõi cao sang danh tiếng và tài năng khí phách, tưởng không cần phải so sánh. Quá đội ơn mắt xanh đoái tới, bèn cùng kết bạn chơi với nhau. Từ khi buổi họp mặt tại non Tiêu, đến nay đã hơn hai mươi năm trời, “trăng lặn soi rường nhà “ , sao hay không nhớ nhung nhắc nhở ?

          Bữa trước, có người Thăng Long về, đưa thư của anh nhờ mang đến và quyển Quân Trung Đối diễn ra quốc âm Nôm, anh bảo tôi xem có chỗ lầm thì sửa và đề tựa; tôi nâng lên coi một lượt như thấy mặt anh. Nhân được biết rằng giờ đây sách trăm nhà anh cũng rộng xem, cho đến những câu chuyện nhàn đàm bên chén rượu và tiểu thuyết tầm thường anh đều đọc tới.

          Ôi ! lời là tiếng nói của lòng, mà văn dùng để khiến cho lời nói được đầy đủ. Văn chương người đời cổ thường mượn truyện trai gái, chồng vợ, hoàn toàn cốt để gửi ý vào. Tại sao ? Vì rằng trong đạo vua tôi, bạn bè, vợ chồng, đều lấy nghĩa mà hợp với nhau, chỗ này có tình mà không nói được ra, ắt tạm mượn chỗ kia để gửi tình, ngõ hầu nỗi lòng ngay thực ở bên trong, người ta có thể lượng xét cho được vậy. Cuốn Quân Trung Đối diễn ra quốc âm hoặc cũng thác gửi, như người đời xưa thác gửi, có phải vậy chăng ?

          Xem như La Thành, con người ở chốn ăn mở thịt, mặc lụa là, Đậu Tuyến Nương , một nhân vật trong làng mày mực đậm, mặt phấn thoa, trên trận gặp nhau tình cờ, bèn đính ước hôn nhân; giữa khoảng trai gái, ấy cũng là tình thường “mày đẹp mắt trong” muốn cùng nhau thoả lòng mong ước.

          Lại thêm thành Tùy lửa dậy,gặp cơn ly loạn, sáu năm chia cách, tơ tình dễ dứt, một sang một khổ, thường sinh ra cảnh mây trắng muôn đen. Tuy nhiên, đây đầy giữ vững một niềm, rốt cuộc lại được tốt đôi, há chẳng phải là tình khẩn thiết trung thành, mà nghĩa dốc tâm thuần hậu ? Thế mà có những người “kết giao xe nón”, khi thường cùng nhau hòa hợp, nhưng rồi phạm lỗi “vỗ gươm ném đá “, chỉ trong chớp mắt rã rời tan nát, ấy là lòng dạ gì như vậy ? Nghèo chơi với nhau còn như thế, các trường hợp khác, suy ra đủ thấy rõ ngay. Vậy thì tình nghĩa trong Quân Trung Đối, há nên coi thường đấy sao ? Huống hồ Tào Phi chết vì chữ Tòng, tướng Phiên mắc lưới, sống vì ưa May, cô em Hoa thay chị, tròn chữ Nghĩa. Hạ Vương thấy mặt rể nơi cửa Thiền, vỏn vẹn trong mười hai hồi, mà có biết bao nhiêu sự việc: khiến cho ta đáng kính, đáng hãi, đáng mừng, đáng xót, lòng người, thói đời, đọc qua đều có thể tường tượng ra được, há hoàn toàn chỉ bảo thác gửi mà thôi !

          Còn đến cách dàn bày thì cẩn mật chặt chẽ, đến nơi đến chốn, động tác tiến triển theo thứ tự ngay ngắn trọn vẹn, văn viết bắt, buông có phép, việc chính yếu, việc hiếm lạ, tự việc này dẫn sinh ra việc nọ, âm hưởng tiết điệu lại đầy đủ như kèn trống hợp hòa.

          Trong văn chương; Quân Trung Đối thực là có nghệ thuật già dặn của văn Trung Hoa, ví bằng lấy đem bày vào mặt trận văn Nôm nước nhà, âu cũng là một cánh quân hùng mạnh. Ấy vậy làm bài tựa.

                                         Thanh Bối Cúc Khê Phu viết

                                         Dịch Nghĩa: Nghiêm Toản

Chú Thích:

Trăng lặn soi rường nhà. Thơ Đỗ Phủ bài Mộng Lý Bạch :   « Lạc nguyệt mãn ốc lương . Do nghi kiến nhan sắc ». Nhượng Tống dịch : «  Xa nhà trăng lặn dọi soi, Còn như nhác thấy mặt người năm xưa. »

           Xe nón : do chữ Xạ Lạp theo sách Phong Thổ Ký: Tục nước Việt thuần phác, trong buổi sơ giao hai bên kết nghĩa thường có lời thề : Anh cỡi xe tôi đội nón, khi gặp nhau sẽ xuống xe vái chào tôi, anh cầm ô tôi cỡi ngựa, khi gặp nhau sẽ xuống ngựa chào anh. Thơ Khổng Bình Trọng : Vạn sự biến đổi khôn lường, chớ vì cỡi xe mà khinh kẻ đội nón. Vì thế tình bạn thân gọi là xạ lạp chi giao, tình xe nón. Thơ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương chép trong Lưu Hương Ký : Bài Chí Hiên tặng : Chữ giao nguyền với mấy năm tròn, Xe nón tình kia mãi mãi còn.

LỜI BÌNH DẪN TRUYệN QUÂN TRUNG ĐỐI

          Mùa hè năm Giáp Ngọ, ta đến dạy học tại huyện An Lạc, được cùng ông Lạc Am Nguyễn, gặp nhau ở nhà láng giềng gần bên nhà huyện ; ông tuổi cao, đức lớn, vẻ tinh thuần như un đúc cả vào. Ông người làng Tiên Điền, Tỉnh Nghệ An, là em quan Hữu Tham tri Bộ Lễ, Nguyễn Hầu, đời Gia Long, và là nghiêm đường quan Nghè khoa Nhâm Thìn (1832) hiện đang làm Viên Ngoại Lang Bộ Lại. Dòng dõi trâm anh, gia thế từ xưa cao vọi, thuở nhỏ ông tránh loạn Tây Sơn, gấu mình trong nghề làm thuốc, bèn thôi không cầu ra làm quan. Ông giữ vững chí mình, yên với cảnh nghèo, đem đạo phải và thẳng ngay ra dạy con, vui vẻ muốn nơi sân hòe ắt có kẻ làm nên, và rốt cuộc lệnh lang đã khiến cho ý muốn ấy được thành, hạc nội yên hưởng cảnh thung dung, đất An Lạc thật là nơi vui vẻ vậy.

          Đầu mùa đông, ông cùng ta uống rượu bàn văn, trong khoảng nói cười, chợt nhắc tới thơ Nôm, nhân đưa ra cho ta coi cuốn Quân Trung Đối ông đã diễn âm trong những ngày thường, và bảo ta chấm và bình phẩm.

          Ôi ! Diễn âm nước ta đã có từ lâu, tác giả như rừng vậy. Nhưng gần đây, tác phẩm hay truyền lại, ngoài Phan Trần, Sãi Vãi không thấy có mấy. Từ Đoạn Trường Tân Thanh xuất hiện, ngàn xưa có một, như món gỏi, chả ngon, làm cho cả một thời sướng thích. Ông Phạm Lập Trai (Phạm Quý Thích) đã đề thơ vịnh, để ghi lại việc hay. Đoạn Trường Tân Thanh là của anh ông nổi trận trống kèn, nay lại có Quân Trung Đối lên tiếng nối theo. Nói về nguy nga, nghiêm chỉnh, tươi đẹp, dồi dào, dường như ông phải nhường anh, nhưng xét về cốt cách thuần hậu, nhã nhặn dịu dàng, ông thực đủ xưng hùng, làm địch thủ lợi hại của ông anh ; và cũng khó phân biệt anh, em, ai hơn, ai kém.

          Ta đọc rồi, thêm vào những lời bình điểm xằng bậy ; nhân trong cuộc có chỗ nói đến tình trai gái, bèn đem những lời phường chèo mà vẽ vời tô điểm, để « cào, gãi ở ngoài hia » tuy không đủ nói hết chỗ cần cốt của tình ý trong văn, nhưng một trò hề đưa lên sân khấu, nghìn người xem đều phải phì cười, thì cũng có thể nói ta làm một trò cười cho bậc người thấy rộng vậy.

          Vả lại càng đáng cười hơn nữa : trai gái con nhà võ biền hợp thành vợ chồng là một chuyện tầm thường nhỏ nhặt, mà lời bình luận tới đây pha trộn, kéo xen vào, đến trang điểm bằng quẻ Kinh Dịch, tiết mục Kinh Lễ, ca dao Kinh Thi ! Lại không những có thế thôi, còn đem việc vua Thần Nghiêu đời Đường, việc vua Thần Tông đời Lý ra so, dẫn bọn Trần Bình, Ngụy Vô Tri, Tư Mã Tương Như, Lý Mật ra sánh, lại không những có thế thôi ! còn dẩn cả đến Từ Thế Tích làm bề tôi trung thuận. Đường Nhị Lang định yên bốn cõi ; ở trong cái nhỏ mà thấy cái lớn là phép thường vốn có trong lúc làm văn. Song lời nông cạn nối liền, chọc cười miệng há má rung, khiến đang ăn sặc sụa phì cơm ra, hoặc bảo rằng đùa cợt, khôi hài như thế là khéo, giỏi.

          Tuy nhiên, ông làm nghề thuốc nhỏ mọn mà học thức chất chứa sâu kín ; ta từng thấy thơ văn ông làm, có vẻ cao vợi như bậc học giả danh tiếng ; không chịu rong ruổi đua đòi theo cùng hạng người thường.. Vậy thí chắc ông chứa sâm truật trong giỏ thuốc bằng cỏ lau, mà cam tâm chịu sống với nghề thầy lang cho đến già ; ông dựng cờ vỗ trống trên đàn văn mà sự đẽo gọt trau chuốt cuốn truyền kỳ này thực là làm phát hiện ra hết vẻ sắc nhọn.

          Hoậc gặp buổi trăng trong, yên ủi lòng mình nơi quán khách ; lên cao rót chén rượu cúc, tưởng ông đã tự cười khi nhìn cuốn Quân Trung Đối. Ôi  há duy chỉ riêng có một ta đã tự cười những lời ta bình điểm mà thôi !

Năm Giáp Ngọ, tiểu xuân (tháng mười-1834)

Người tỉnh Thanh Hóa Nguyên Lập Đạm Trai đề ở chổ trường dạy học .Dịch nghĩa Nghiêm Toản.

Chú Thích :

Nguyễn Du : sau khi đi sứ về năm 1813 được thăng Hữu Tham Tri Bộ Lễ. Đời Gia Long(1802 -1820) Nguyễn Toản (Tản) con Nguyễn Nghi hiệu Chu Kiều, Hồng Vũ, Lạc Am ; Đậu Tiến Sĩ Tam Giáp, thứ năm Khoa Nhâm Thìn, Minh Mạng thứ mười ba.

Đường Thần Nghiêu miếu hiệu Đường Cao Tổ, tức Lý Uyên(618-626)

Trần Bình : ở đất Dương Võ làm tướng theo phò Hạng Võ. Lúc Hồng Môn hội yến thấy Hán Bái Công biết sau này làm nên công nghiệp nên không chịu bày mưu hại Hán Bái Công. Ông có lời khuyên nổi tiếng muôn đời khi Hán Cao Tổ khinh thường trí thức nho sĩ, giật mũ nho sĩ và đái lên trên : « Ta không cần đến trí thức ! » –«  Bệ Hạ ngồi trên lưng ngựa mà được cả thiên hạ, nhưng bệ hạ ngồi trên lưng ngựa mà trị nước được sao ? » Vua Hán tỉnh ngộ.

Ngụy Vô Tri : tiến Trần Bình lên Hán Vương dùng. Giáng Quân dèm là Bình từng ăn cắp của chị dâu và hay ăn tiền các tướng. Hán Vương hỏi Vô Tri, Vô Tri nói : Thần tiến là tiến người giỏi. Bệ hạ hỏi là hỏi về tính nết. Nay một người giữ chữ Tín đến như Vĩ Sinh là tột bực.( Vĩ Sinh hẹn với tình nhân dưới cột cầu, tình nhân không đến, vừa thủy triều lên, vẫn nhất định ôm cột cầu chịu chết cho tròn chữ Tín) hỏi có ích gì cho đời ? . » Hán Vương khen phải và vẫn tin dùng Trần Bình. Sau Trần Bình có công to, phong Hộ Dũ Hầu. Bình từ chối nói : Nếu không có Vô Tri thần há được tiến cử lên theo giúp vua. Nên Vô Tri cũng được vua ban thưởng. Sử đời sau khen Hán Vương rộng rãi, độ lượng, thông minh, có lòng nhân ái, lại biết người để dùng, không câu nệ nên chỉ 5 năm là thành nghiệp đế vương.

Tư Mã Tương Như, tự Trường Khanh đời Hán hay chữ giỏi đàn đàn khúc Phượng cầu hoàng. Trác Văn Quân gái góa nghe cảm, đêm bỏ nhà trốn theo. Tương Như còn nghèo,mở quán rượu sống qua ngày. Về sau Tương Như làm nên sự nghiệp muốn lấy thiếp. Văn Quân làm khúc Bạch Đầu Ngâm. Tương Như nghe cảm thôi không lấy thiếp.

Lý Mật : người đời Tùy, gặp buổi loạn cùng Địch Nhượng giữ Lạc Khẩu xưng Ngụy Vương, rất được lòng kẻ sĩ xa gần hưởng ứng. Sau bị Vương Thế Sung đánh thua, hàng Đường, được phong Quan Lộc Khanh, nhân thất vọng lại phản Đường, bị giết.

Từ Thế Tích : tức Từ Mậu Công khai quốc công thần, bề tôi ba triều vua Cao Tổ, Thái Tông, Cao Tông.

Đường Nhị Lang tức Tần Thúc Bào (Tần Quỳnh) trong Thuyết Đường còn gọi Thái Bình Lang.

 

          Có một loài bướm tên là Hoàng Gia màu vàng cam, sinh ra để làm cuộc hành trình 5000 cây số đi từ Gia Nã Đại đến một khu rừng tại Mễ Tây Cơ, cánh bướm mong manh ấy để làm cuộc hành trình này phải trải qua nhiều đời thoát xác làm bướm, thành sâu, thành kén để về quê hương mỗi lần tụ tập hằng triệu con vàng kín cả rừng. Truyện thơ Quân Trung Đối là một cánh bướm mong manh đó, sáng tác trước năm năm 1834 tại Bắc Ninh bởi Nguyễn Nghi, một văn nhân họ Nguyễn Tiên Điền em cùng cha khác mẹ với Đại thi hào Nguyễn Du, trao cho ông Nhữ Đạm Trai viết lời bình, ông đem về quê Thanh Hóa , năm 1920 được cụ Phó bảng Võ Hoành chép lại, được con là Gs Võ Thu Tịnh gìn giữ và năm 1959 trao cho Gs Nghiêm Toản phiên âm và chú thích đối chiếu với hai văn bản in năm 1910, 1911 khuyết danh. Năm 1965 văn bản này cùng đi sang Lào với Gs Võ Thu Tịnh, và sang Pháp năm 1975, năm 1995 Gs Võ Thu Tịnh cho in lại tại Paris. Và hôm nay năm 2013 tôi chép lại, bổ túc thêm về tác giả mà giáo sư Võ Thu Tịnh thiếu sót. Xin gửi về lại quê hương tác giả làng Tiên Điền, Hà Tỉnh và làng An Lạc, Bắc Ninh., một di sản quý báo của dòng họ Nguyễn Tiên Điền và của dân tộc Việt Nam, sau một hành trình lưu lạc, trải qua nhiều đời thầy trò, vòng quanh thế giới rồi trở về trên quê hương. Mong đọc giả sẽ thú vị khi đọc được « một tác phẩm  em » của Truyện Kiều và góp phần gìn giữ nó một di sản đã qua một đời lưu lạc.

Paris 28-7-2013

TS Phạm Trọng Chánh

Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục. Viện Đại Học Paris V Sorbonne.Tác giả : Hồ Xuân Hương Nàng là ai ? Nguyễn Du mười năm gió bụi và mối tình Hồ Xuân Hương. Truyện thơ Odyssé thi hào Homère qua 12110 câu thơ lục bát. Sử Thi Iliade qua 16833 câu thơ lục bát. Tự điển tình yêu bằng thơ tình Xuân Diệu Thơ Tình Nhất Uyên (Huy Cận, Xuân Diệu đề tựa)..

 

 

 

 

 

                                        

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

,