Nguyễn Nghi (phần 3)
Tác giả truyện thơ QUÂN TRUNG ĐỐI
Ngôi sao và kiệt tác văn học họ Nguyễn Tiên Điền bị lãng quên
Hồi thứ Mười một
Lạy thềm rồng cung thẳm buộc giây tơ
La Thành đành phải về Trường An, trước hết ghé thăm Tần Thúc Bảo, gặp Tề Quốc Viễn nhắc lại chuyện xưa. Tần Thúc Bảo đem bức thư ra. La Thành nhận xét không phải chữ của mình, mà giống chữ trong thư Hựu Lan đưa đến mới vỡ lẽ Đậu Tuyến Nương hy sinh duyên mình, nhưng Ái Liên đã có chồng rồi. Hôm sau Tần Thúc Bảo vào chầu Hậu Cung. Đậu Hoàng hậu giáng chỉ đòi Tuyến Nương về bệ kiến. Tuyến Nương ép Hựu Lan cùng về. Hoàng hậu tán thành nhân duyên Tuyến Nương với La Thành và cho Hựu Lan cùng về làm dâu họ La. Sau khi cử hành hôn lễ cả ba đi thăm cha Đậu Kiến Đức rồi trở về U Châu một nhà hợp hòa vui vẻ.
Nghe lời dám gạn lời sao,
Việc này chẳng kẻo tâu vào nhà vương.
Đinh ninh từ biệt với nàng,
Vó câu thẳng ruổi dặm tràng vào kinh.
Nắng sương kể mấy nhật trình,
Hai tuần vừa thấy tới thành Trường An.
Khách đình tạm trú chinh yên,
Tìm nhà Thúc Bảo trao tin thiếp hồng.
Quân hầu chuyển báo doanh trung,
Tần Công kíp khiến rước công tử vào. 950
Trước hiên mừng rỡ đón chào,
Hàn huyên cùng giải khát khao bấy chầy.
Tửu hào một tiệc đặt bày,
Thong dong lại giở chuyện ngày năm xưa.
Tần rằng : « Trước thấy có thư,
Cậy tôi giúp sức đưa tin Nhị Hiền.
Song nhà Đơn nữ Ái Liên,
Thất gia vốn đã kết nguyền cháu đây.
Quan sơn binh lửa bấy nay,
Những là công vụ nên chầy phục thư. » 960
Thấy lời công tử ngẩn ngơ,
Giờ lâu nghĩ ngợi, chẳng thưa một lời.
Sự đâu ngán lẽ nực cười,
Tề huynh há phải là người sai ngoa ?
Tần Công truyền lấy tờ ra,
Phong thư còn dấu, tờ đà chữ ai ?
Nhạc vàng sang sảng bên tai,
Chợt vừa Quốc Viễn lại chơi buổi nhàn.
Mời ngồi tân chủ đã an,
Cầm tờ chàng mới hỏi han sự tình. 970
Tề răng : Thuở ấy hồi trình,
Gặp quân Hạ đuổi man binh bên đèo.
Đương khi ngọc đá hổn hào,
Hạ quân bắt lấy đem vào hỏi tra.
Ví không có bức tờ hoa,
Thì ai biết rõ cho là hành nhân.
Kế cùng chẳng lẽ phân trần,
Phải đem tờ nạp trong quân làm bằng.
Tuyến Nương dường có ý mừng,
Thu tờ giữ lấy dùng dằng suốt đêm. 980
Dầu xem, dầu chẳng mở xem,
Đến khi phó trả còn niêm rành rành.”
Nghe lời chàng đã hay tình,
Vì người mà chẳng vì mình mấy gan !
Soi cùng thư gửi Hựu Lan,
Hai tờ dấu chữ như in một người.
Tần Tề gạn hỏi khúc nhôi,
Khen rằng : « Có tiếng trong đời chẳng nhưng. »
Thốt thôi cả mở tiệc mừng.
Dặt dìu chén chúc, chưng lừng khúc ca. 990
Đêm khuya bước nguyệt ngồi hoa
Lời đồng tâm nức một nhà chi lan.
Thẻ rồng khắc đã lụn tàn,
Chín lần cửa mở, trăm quan vào chầu.
U Châu bản quỵ dâng tâu,
Cậy quan Thái giám đón hầu Hậu Phi.
Dạy rằng : Khói cách biên thùy,
Lão thần phải có việc gì đến ta ? »
Truyền cho mở tấu xem qua,
Mới hay là việc hai nhà kết duyên. 1000
Cười rằng : « Cửa tướng con hiền,
Nhắc cân tài sắc đã nên cân bằng.
Đôi nơi cũng một cung trăng,
Tay ta xe mối xích thằng này cho.
Cắt người kíp ruổi đình phô,
Ban bài lấy Đậu Tiểu Thư vào hầu.
Nội quan vâng mệnh giong câu,
Hai tuần gióng giả mới hầu tới nơi,
Vâng lời nội chỉ truyền đòi,
Tiểu thư sắm sửa mới dời chân ra. 1010
Hựu Lan xin ở lại nhà,
Một hai nàng cũng ép ra một đoàn.
Gót hoa vừa tới Tràng An,
Cung môn đã có nội quan đưa vào.
Thoát nhìn Vương hậu hỏi chào:
“Tuyến Nương đã những ngày nào mới ra.
Ngày rày có hiểu họ La,
Việc người mà lại đến ta tâu bày.
Lứa đôi xem cũng xứng tày,
Lòng ta đã định chọn ngày kết nhân.” 1020
Tâu rằng: “Lạm dự trong thân,
Nhờ công gây dựng bằng ân sinh thành.
Xót còn dở một mối tình,
Tấc niềm canh cánh bên mình chưa an.
Thiếp xưa vốn với Mộc Lan,
Chị em trót đã đa mang chữ tình.
Từng phen cửa khuyết nộp mình,
Từng phen chầu chực hậu đình có nhau.
Chẳng may tảo phận trầm châu.
Em là Hựu lại nối nhau kết nguyền. 1030
Phận hèn dầu đội ơn trên,
Cũng trao duyên mới cho tuyền nghĩa xưa.”
Nghe lời minh bạch tâu thưa,
Sai quan cho triệu Hoa thư vào chầu.
Mảng đòi nàng chẳng dám lâu,
Theo chân nội giám khấu đầu trướng loan.
Nhìn xem con trẻ khôn ngoan.
Khen rằng đọ với Mộc Lan một nhòng.
Sự này thật sự lạ lùng,
Tay xe một sợi chỉ hồng được hai. 1040
Truyền quan trạch nhật ngày mai,
Để cho ba họ kết đôi lấy ngày,
Tin xuân một xuống năm mây,
Hoa cười hạnh uyển, hương bay tiêu phòng.
Phấn vua rạng rỡ má hồng,
Thuyền ly sáu nhạn sân rồng trăm xe.
Cùng nhau bái tạ đan trì,
Một đoàn xe ngựa ra về thong dong.
Tiện đường đến trước Đậu Công,
Khấu đầu chàng mới giải lòng xưa sau. 1050
Cảm tình cánh biệt bấy lâu,
Tiểu thư đòi trận giọt châu chan hòa.
Hựu Lan dập lạy trình qua :
“Mộc Lan tảo phận tôi là con em »,
Một cơn rộn rã dưới thềm,
Xui lòng thiền định bỗng nên bồi hồi.
Đường kia nỗi nọ tơi bời,
Phần mừng con đến, phần vui rể hiền.
Phần ngừng thân phận già chiền.
Phần thương Lan những truân chuyên vì mình. 1060
Hàn huyên đã hết mọi tình,
Thuyền quan bái biệt trường đình gác yên.
Ngựa lên đường cũ như tên,
Giang sơn đòi chốn cảnh quen nước người.
Một làn bãi phẳng dặm khơi,
Nầy năm năm trước là nơi chiến trường.
Rỡ ràng nghìn tía muôn vàng,
Cỏ hoa nay đã tỏ tường chúa xuân .
Quản huyền đòi chặp dậy rân,
Chẳng như trống trận trong quân ngay nào. 1070
Yến oanh tấp nập nhường bao,
Đôi xe một ngựa ruổi vào thành trung.
Dưới hiên yết kiến La Công,
Lầu châu dọn sẵn đuốc hồng khêu cao.
Giữa trời vằng vặc ba sao,
Khúc cưu đã ngợi thơ đào lại không.
Trăm năm khăn khít giải đồng.
Chăn loan đầm ấm, giấc hồng say sưa.
Cửa cao trăm phúc thừa lưa,
Ba hòe năm quế sởn sơ đòi ngành.
Chú Thích:
Khách đình tạm trú chinh yên: La thành tạm nghĩ trọ nơi nhà khách, yên ngựa tạm xếp lại.
Thất gia: gia thất, vợ chồng.
Câu 336 Đạm Trai phê: “Lúc này chủ khách cùng sống trong mơ, rượu uống vào khó trôi qua thực quản. Câu 337 “Đây là thư riêng nơi của tướng, nên chỉ lạ lùng, mặt đối mặt nhìn nhau sửng sốt, giá ví dụ lại là công văn nơi Nha, Vệ ắt coi như có sự lầm lạc mà nhiều kẻ chết đòn oan.”
Hồn trình: Đường về.
Trần trần: trơ ra, ỳ ra.
Chưng lừng: tưng bừng rực rỡ.
Đình phô,: nhà trạm. Ruổi đình phô: chạy ngựa trạm.
Bài: Thẻ ở trong cung hay nha môn dùng để sai, đòi.
Nội chỉ: lệnh truyền bảo từ cung cấm, lệnh Đậu Hoàng Hậu.
Kết nhân: kết nhân duyên vợ chồng.
Hậu đình: sân ở cung sau, trỏ cung Hoàng hậu.
Tảo phận trầm châu: phận ngắn ngủi nên chết sớm.
Mảng: nghe
Nhòng: tiếng xưa là giống.
Hạnh uyển: vườn mận.
Thềm ly: thềm rồng. Con ly giống con rồng, sắc vàng không có sừng.
Sáu nhạn : Theo sách nghi lễ. Hôn lễ của bậc sĩ có sáu: 1 Nạp thái (chạm ngõ) 2. Vấn danh (ăn hỏi) 3. Nạp cát (báo tin được điềm lành khi lễ từ đường) 4. Nạp chưng: dần lễ. 5 Thỉnh kỳ (xin cưới). 6 Thân nghênh (rưóc dâu). Trừ nạp chứng 5 lễ kia đều dùng chim nhạn (ngỗng trời). Vậy thềm ly và sáu nhạn là cử hành hôn lễ ở triều đình, có vua hoàng hậu đứng chủ hôn.
Trăm xe: bách lạng thơ Thước Sào: Chi tử vu quy, bách lang nha chi, Cô về nhà chồng xe đón hàng trăm. Ngày xưa con gái nước chư hầu gả con cho chư hầu khác, tiễn đón bằng trăm cái xe.
Dập lạy: lạy đụng đầu xuống đất.
Già chiền: Thiền già, Thiền môn, cửa chùa.
Quản huyền, sáo và đàn.
Khúc cưu đã ngợi. Kinh thi, thơ Quan thư: Quan quan thư cưu. Tại hà chi châu: Chim thư cưu hót vang trên bãi sông
Thơ đào lại không: thơ Đào yêu trong Kinh Thi: Đào chi yêu yêu. Chước chước kỳ hoa. Chi tử vu qu., Nghi kỳ thất gia. Cành đào non non, Hoa đẹp dễ thương. Cô về nhà chồng. Cửa nhà hoà thuận.
Giấc hùng: hùng là con gấu. Ngày xưa cho rằng nằm mơ thấy gấu là điềm sinh con trai.
Thừa lưa : dồi dào
Ba hoè năm quế: con cái đông đúc hiển đạt.
Về đọan 1073 -1078. Đạm Trai phê: Vốn là đuốc hoa động phòng lại nhường nắng mãi nay mới gặp mưa, chẳng những ngâm thơ Đào Yêu, Thước Sào, lại thêm sao nhỏ năm ba.. tề tề chỉnh chỉnh, thơ Tiểu tinh ý nói có Hựu Lan làm trắc thắt, kể về điều mừng thì được hai trong bốn, kể về thơ thì được ngâm ba bài thơ trong hai nước thuộc Chinh phong: Chu, Thiệu. Quân Trung Đối thực dồi dào thịnh mỹ, không truyện nào có thể sánh được.
Văn bản:
Từ câu 934 đến câu 912 hai bản A, B chép là :
Sang hèn phải trái nghĩ đà chẳng nên,
Ơn lòng hạ cố cần quyền,
Xét trong phận nhỏ, còn trên trướng gà.
Nghe lời thị nữ trình ra,
Việc này ắt phải tâu qua nhà vàng.
Từ câu 1018 đến câu 1026 bản C chép là :
« Vì người ta dựng cửa nhà cho an .»
Tâu rằng: « Cỏ nội hoa hèn,
Gót đầu đền đội ơn trên tài bồi.
Lều tranh tang chế vừa rồi,
Rừng xuân khơi cách chưa lời trình qua.
Dám xin xét đến tình nhà.
Cho toàn chữ hiếu ấy là vẹn thương. »
Dạy rằng : « Trung hiếu hai đường,
Hành quyền với lúc thủ thường khác xa.
Bằng nay muôn việc ở ta,
Mệnh trên so với tình nhà đâu hơn ?
Bôn tang, có thuở thành hôn,
Nghi gia rồi lạy thiền môn há chầy “.
Tâu rằng : “Nhờ đức cao dày,
Vâng lời giáo huấn dường này dám sai.
Tình riêng chút bạn trúc mai,
Mộc Lan cùng thiếp nặng lời đồng minh.
Từ câu 1033 đến 1038 hai bản A, B chép :
Ngự nghe ban triệu Hoa Thư,
Cho vào gần trước thư từ hỏi han.
Khen rằng con trẻ khôn ngoan,
So vào chị nó Mộc Lan cũng dòng.
Câu 1041-1044 bản C chép:
Lứa đôi đã xứng sắc tài,
Truyền quan trạch nhật nay mai chớ chầy.
Tư thiên tâu đã được ngày,
Sính nghi chàng đã sắp bày an xong.
Từ câu 1060-1064 hai bản A, B chép là :
Phần thương Lan đã châu chìm ngọc tan,
Giờ lâu mới kể hàn huyên,
Một tuần nghỉ lại thiền quan dã dề.
Vâng lời tôn mệnh ra về,
Một đoàn cùng thỏa lòng quê mong chờ.
Lần lần gió đón xuân đưa,
Cửa thành trông đã hầu vừa tới nơi.
Từ câu 1074 -1080 hai bản A, B chép :
Lễ rồi trở lại động phòng trao tay.
Một nhà ba bạn sum vầy,
Khúc khi hoà nhã, tiệc này say sưa.
Cửa cao khúc vịnh chung tư,
Ba hòe năm quế sởn sơ đòi cành.
Hồi thứ mười hai
Ải lang tạnh khói rót rượu tế bên mồ.
Về sau La Thành được phong Tổng Quản, cầm binh đi đánh Sóc Phương, Tuyến Nương cũng ra trận giúp chồng. Dẹp giặc xong, cả ba cùng về quê tế mộ Mộc Lan, và từ đấy cùng nhau hưởng vinh hoa phú quý.
Chợt tin có chiếu tiến binh,
Ban chàng Tổng Quản đánh thành Sóc Phương
Dựng cờ gióng trống lên đường,
Nghĩa binh cũng nhớ nghĩa nàng đua nhau.
Thiên Sơn nặng sức cung dâu,
Vén tay so lũ tỳ hưu ai dài.
Ải lang việc nước đã rồi,
Cùng theo nàng Hựu về chơi quê nhà.
Một vùng cỏ áy bóng tà,
Nầy mồ Hoa tỉ đây đà phải chưa ? 1090
Thương thay ! cùng phận hạt mưa,