Nguyễn Trung Trực  (1837- 1868)



1. Quê Quán

Nguyên quán gốc Nguyễn Trung Trực ở xóm Lưới, thôn Vĩnh Hội, tổng Trung An, huyện Phù Cát, trấn Bình Định (ngày nay là thôn Vĩnh Hội, xã Cát Hải, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định)


2.Gia Đình

Thân phụ là cha là Nguyễn Văn Phụng (hoặc Nguyễn Cao Thăng), thân mẫu  là bà Lê Kim Hồng. Thuở nhỏ ông có tên là Chơn. Năm 1859 đổi là Lịch (Nguyễn Văn Lịch, nên còn được gọi là Năm Lịch), và cũng từ tên Chơn ấy cộng với tính tình ngay thật, nên ông được thầy dạy học đặt thêm tên hiệu là Trung Trực.
Sau khi hải quân Pháp nhiều lần bắn phá duyên hải Trung Bộ, gia đình ông phải phiêu bạt vào Nam, định cư ở xóm Nghề (một xóm trước đây chuyên nghề chài lưới), làng Bình Nhựt, tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, Phủ Tân An (nay thuộc xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An) và sinh sống bằng nghề chài lưới vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ. Không rõ năm nào, lại dời lần nữa xuống làng Tân Thuận, tổng An Xuyên.(nay là xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau).

Ông là con trưởng trong một gia đình có 8 người con. Lúc nhỏ, ông rất hiếu động, thích học võ nên khi lớn lên ông là người có thể lực khỏe mạnh, giỏi võ nghệ và là người có nhiều can đảm, mưu lược.

3. Sự Nghiệp

Tháng 2 năm 1859 Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định. Vốn xuất thân là dân chài, nằm trong hệ thống lính đồn điền của kinh lược Nguyễn Tri Phương, nên ông sốt sắng theo và còn chiêu mộ được một số nông dân vào lính để gìn giữ Đại đồn Chí Hòa, dưới quyền chỉ huy của Trương Định.

Sau đó ông là quyền sung Quản binh đạo và chỉ huy đốt cháy tàu L'Espérance của Pháp, nên còn được gọi là Quản Chơn hay Quản Lịch. Trong sự nghiệp kháng thực dân Pháp của ông, có hai chiến công nổi bật  là trận Nhật Tảo& trận Kiên Giang

A.-Trận Nhật Tảo

Ngày 25 tháng 2 năm 1861,đồn Chí Hòa thất thủ, Nguyễn Trung Trực về Tân An. Đến ngày 12 tháng 4 năm 1861, thành Định Tường thất thủ, quân Pháp kiểm soát vùng Mỹ Tho, thường cho những tàu chiến vừa chạy tuần tra vừa làm đồn nổi di động. Một trong số đó là chiếc tiểu hạm L'Espérance (Hy Vọng), án ngữ nơi vàm Nhựt Tảo (nay thuộc xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An).

Vào khoảng sáng ngày 10 tháng 12 năm 1861, Nguyễn Trung Trực cùng quyền sung Phó Quản binh đạo Huỳnh Khắc Nhượng, Võ Văn Quang, quản toán Nguyễn Học, và hương thôn Hồ Quang Chiêu..tổ chức cuộc phục kích đốt cháy tàu chiến này.

Nguyễn Trung Trực đã khéo bày một kế hoạch đánh phá chiến hạm Espérance rất hay. Ông tổ chức một đám cưới dùng thuyền đi trên sông, trong đó có chú rể cô dâu, họ hàng già trẻ đủ mặt và cả lễ vật. Lúc này thuyền binh của Pháp đóng ở sông Nhật Tảo có lệ khám xét các thuyền của ta qua lại và phải trình thẻ bài do chính Pháp cấp.

Khi thuyền cưới tới gần thuyền của Pháp, một người vờ lên trình thẻ bài, quân Pháp không ngờ, tức thì ông Nguyễn Trung Trực cùng nhóm thủ hạ nhảy lên theo đánh chém lung tung, cùng lúc đó nhiều thuyền chở rơm và bổi của nghĩa quân cũng vừa ào tới nổi lửa lên đốt tàu Pháp, quân Pháp vì không đề phòng nên bị chém chết và bị thương vô số, trong chớp nhoáng tàu Pháp cháy to và nghĩa quân đều lội lên bờ tẩu thoát.

Giặc kêu la ầm ỉ, lửa bốc ngút trời, máy tàu nổ tan tành. Kết quả 17 tên Pháp thiệt mạng cùng 20 tên lính cộng sự người Việt cũng chết 
theo.ch có 8 người trốn thoát (2 lính Pháp và 6 lính Tagal, tức lính đánh thuê Philippines, Tàu chìm còn trơ cái sườn sắt, ngập một nửa dưới nước.
 Xong chiến công oanh liệt, nghĩa quân đã rút về Cà Mau, quân Pháp cho quân đội lùng khắp, nhưng ông Nguyễn Trung Trực cùng các nghĩa quân đã biệt dạng từ bao giờ.

Lúc đó, viên sĩ quan chỉ huy tàu là trung úy hải quân Parfait không có mặt, nên sau khi hay tin dữ, Parfait đã dẫn quân tiếp viện đến đốt cháy nhiều nhà cửa trong làng Nhật Tảo để trả thù.

Theo sau chiến thắng vừa kể, nhiều cuộc tấn công quân Pháp trên sông, trên bộ đã liên tiếp diễn ra...

B-Trận Kiên Giang

Sau lần đốt được tàu L’Espérance của Pháp, Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân tiếp tục chiến đấu qua lại trên các địa bàn Gia Định, Biên Hòa. Khi Hòa ước Nhâm Tuất 1862 được ký, ba tỉnh miền Đông lọt vào tay thực dân Pháp, Nguyễn Trung Trực nhận chức Lãnh binh, đưa quân về hoạt động ở ba tỉnh miền Tây. Đầu năm 1867, ông được triều đình phong chức Hà Tiên thành thủ úy để trấn giữ đất Hà Tiên, nhưng ông chưa kịp đến nơi thì tòa thành này đã bị quân Pháp chiếm mất vào ngày 24 tháng 6 năm 1867. Không theo lệnh triều đình rút quân ra Bình Thuận, Nguyễn Trung Trực đem quân về lập mật khu ở Sân chim (tả ngạn sông Cái Lớn, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang). Từ nơi này, ông lại dẫn quân đến Hòn Chông (nay thuộc xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, lập thêm căn cứ kháng Pháp.

Ở Kiên Giang, sau khi nắm được tình hình của đối phương và tập trung xong lực lượng (trong số đó có cả hương chức, nhân dân Việt - Hoa - Khmer); vào 4 giờ sáng ngày 16 tháng 6 năm 1868, Nguyễn Trung Trực bất ngờ dẫn quân từ Tà Niên (nay là xã Vĩnh Hòa Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang) đánh úp đồn Kiên Giang (nay là khu vực UBND tỉnh Kiên Giang), do Trung úy Sauterne chỉ huy.

Sau khi hợp quân với đoàn nghĩa quân đến từ Hòn Chông, khoảng 4 giờ sáng, Nguyễn Trung Trực cho người lẻn vào giết chết lính canh, rồi phát lệnh tấn công. Lập tức, người thì trèo tường, người thì phá cổng...Đang lúc say ngủ, quân Pháp không kịp phản ứng gì, nên đồn bị nghĩa quân chiếm lĩnh khá nhanh chóng...

Tác giả Alfred Schreiner thuật trận đánh đồn Kiên Giang như sau:

Đồn Rạch Giá bị tấn công lúc 4 giờ sáng ngày 16 tháng 6 năm 1868. Trung úy hải quân kiêm thanh tra địa phương, người ở đây gọi là Chánh Phèn, vì bộ râu vàng hoe, là một trong những người bị giết trước tiên. Trung úy Sauterne chỉ huy đồn lính bị giết chết sau một chập chống trả mãnh liệt. Đồn này gồm 30 người, ngủ say cạnh những khẩu súng của họ đều bị hạ sát. Khoảng 12 người họp lại mở vòng vây chạy tản mác vào làng. Vì lạ người lạ cảnh, họ bị giết lần lượt bằng chĩa ba, chỉ trừ Duplessis, tên này chạy trốn trong lùm bụi và được một ông lão và một người đàn bà Việt Nam cho ăn. Một viên chủ của sở thâu thuế tự vệ một lúc lâu bằng súng, cuối cùng cũng bị hạ sát với đứa con gái và đứa con trai nhỏ. Mấy tên thông ngôn và viên chức Việt nam làm việc cho người Pháp bị bắt và bị giết vừa lúc quân Pháp vừa lúc quân Pháp trở lại (phản công). Lúc Pháp tái chiếm Rạch Giá, những người Cao Miên quanh vùng dẫn tên Duplessis cho Thiếu tá Ausart và bắt đầu lục soát tìm bắt nghĩa quân..

Kết thúc trận, nghĩa quân chiếm được đồn, tiêu diệt được 5 viên sĩ quan Pháp, 67 lính, thu trên 100 khẩu súng cùng nhiều đạn dược và làm chủ tình hình được 5 ngày liền

Đây là lần đầu tiên, lực lượng nghĩa quân đánh đối phương ngay tại trung tâm đầu não của tỉnh. Nhận tin Chủ tỉnh Rạch Giá cùng vài sĩ quan khác bị giết ngay tại trận, tác giả George Diirrwell gọi đây là một sự kiện bi thảm.

Hai ngày sau (ngày 18 tháng 6 năm 1868), Thiếu tá hải quân A. Léonard Ausart, Đại úy Dismuratin, Trung úy hải quân Richard, Trung úy Taradel, Trần Bá Lộc, Tổng Đốc Phương nhận lệnh Bộ chỉ huy Pháp ở Mỹ Tho mang binh từ Vĩnh Long sang tiếp cứu. Ngày 21 tháng 6 năm 1868, Pháp phản công, ông phải lui quân về Hòn Chông (Kiên Lương, Kiên Giang) rồi ra đảo Phú Quốc, lập chiến khu tại Cửa Cạn nhằm kình chống đối phương lâu dài.

C. Trận Cửa Cạn

Cửa Cạn là tên một con sông dài 15 km, nay thuộc xã Cửa Cạn, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Sông bắt nguồn trên dãy núi Hàm Ninh chảy theo hướng Tây-Tây Nam, qua cánh rừng Cấm, đồng Cây Sao, đồng Bà, rồi đổ ra vịnh Thái Lan.
Lợi dụng địa hình, địa vật ở đây, Nguyễn Trung Trực đã đặt một căn cứ có tên là Ba Trại Ngoài để trấn giữ vàm sông Cửa Cạn; và một căn cứ khác tựa lưng vào dãy núi Hàm Ninh, có tên là Ba Trại Trong.
Khoảng đầu tháng 9 năm 1868, tàu chiến Groeland do Buochet Rivière chỉ huy theo ra đến đảo.Tìm hiểu mục tiêu xong, thủy quân Pháp dùng súng đại bác bắn dữ dội vào chiến lũy Cửa Cạn. Sau khi tốn nhiều đạn pháo, chiến lũy bị phá tan, tức thì, quân Pháp đổ bộ lên đảo. Một trận kịch chiến liền diễn ra tại vàm Cửa Cạn. Tuy chống trả quyết liệt, nhưng trước hỏa lực quá mạnh của đối phương, nghĩa quân đành phải vừa chống ngăn vừa rút dần lên núi Hàm Ninh. Nhờ núi cao rừng rậm che khuất và nhờ lối đánh du kích rất có hiệu quả, nên quân Pháp không dám truy đuổi.
Tháng 9 năm 1868, chiếc tàu Groeland chở Lãnh Binh Tấn (tức Huỳnh Văn Tấn, còn được gọi Huỳnh Công Tấn, trước có quen biết ông Trực vì cùng theo Trương Định kháng Pháp. Sau này, Tấn trở thành cộng sự cho Pháp), cùng 150 lính ở Gò Công đến đảo Phú Quốc để bao vây và truy đuổi ông Trực.
Theo kế hoạch của Lãnh binh Tấn, quân lính phong tỏa mọi ngõ ngách ở đảo. Những ghe tàu nào có dấu hiệu khả nghi đến tiếp tế lương thực và đạn dược đều bị ngăn chặn. Tấn lại cho bắt hết người dân ở nơi nghĩa quân đang lẩn trốn, nhằm cô lập họ. Cùng lúc ấy, ở chợ Rạch Giá, thực dân Pháp cho treo giải thưởng: Ai bày mưu bắt được ông Trực sẽ được thưởng 200 quan tiền; ai bắt sống hay hạ sát được ông, sẽ được thưởng 500 quan tiền.

Nhà sử học Phạm Văn Sơn thuật chuyện:

Hương chức và dân trên đảo bị đội Tấn dọa phải theo và phụ lực với hắn để bao vây bọn ông Trực. Sau hai trận ghê gớm, bọn ông Trực phải trốn vào trong núi. Đội Tấn rượt theo, nghĩa quân bị kẹt trong một khe núi nhỏ hẹp. Cùng đường, bọn ông Trực phải ra hàng...

Bắt được Nguyễn Trung Trực, Pháp đưa ông lên giam ở Khám Lớn Sài Gòn để lấy khẩu cung. Và rồi ngày 27 tháng 10 năm 1868, nhà cầm quyền Pháp đã đưa ông Trực về lại Rạch Giá và sai một người Khmer trên Tưa (người dân thường gọi ông là Bòn Tưa) đưa ông ra hành hình tại chợ Rạch Giá, hưởng dương khoảng 31 tuổi.

4.Tác Phẩm:

Tương truyền, trước khi bị hành quyết Nguyễn Trung Trực đã ngâm một bài thơ:

Thư kiếm tùng nhung tự thiếu niên

Yêu gian đảm khí hữu long tuyền

Anh hùng nhược ngộ vô dung địa

Báo hận thâm cừu bất đái thiên.

Thi sĩ Đông Hồ đã dịch :

Theo việc binh nhung thuở trẻ trai

Phong trần hăng hái tuốt gươm mài

Anh hùng gặp phải hồi không đất

Thù hận chang chang chẳng đội trời.


Để ca ngợi công nghiệp lẫy lừng của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực, người dân lục tỉnh đều thuộc lòng hai câu thơ của danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt :

Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa

Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần.

Thái Bạch dịch:

Sông Nhật Tảo lửa hồng rực cháy, tiếng vang trời đất,
Đồn Kiên Giang lưỡi kiếm tuốt ra, quỷ thần sợ khóc

5-Tài Đức

Nguyễn Trung Trực là người rất có hiếu với mẹ. Là con trưởng, hàng ngày ông phải đi đánh bắt cá để có tiền phụ giúp gia đình.Khi chinh chiến ông luôn đem mẹ theo chỉ khi ra Phú  Quốc ông mới để mẹ ở lại đất liền. Pháp dùng thủ đoạn bắt giữ thân mẫu của Người và một số đồng bào trong vùng, rồi ra lệnh nếu Nguyễn Trung Trực không ra hàng sẽ đem những người này ra chém đầu. Nhận thấy việc kháng Pháp không thể kéo dài thêm nữa, vả lại cần cứu sống hàng trăm nhân mạng, Nguyễn Trung Trực cam đành giải tán nghĩa quân rồi tự mình ra nạp mạng cho Pháp.

Quân Pháp bắt được Ông vô cùng mừng rỡ, lập tức đưa về Sài Gòn để soái phủ Nam kỳ định đoạt.

Thấy Người trung hiếu, khẳng khái, Pháp không nở giết và dụ qui thuận, hứa nếu ông nhận lời sẽ cho làm chức phó soái.

Ông nói :" Hãy kiếm cho tôi cái chức gì giết Tây được thì tôi làm, chớ chức phó soái tôi không màng".

Và:

“ Thưa Pháp soái, chúng tôi chắc rằng chừng nào ngài cho trừ hết cỏ trên mặt đất, thì mới may ra trừ tiệt được những người ái quốc của xứ sở này. ”

* Kẻ thù khen ngợi:
Giám đốc nha Nội vụ Pháp Paulin Vial :

"Nguyễn Trung Trực là người rất tự trọng, có tư cách đáng quý và đầy nghị lực, là  người có gương mặt thông minh và dễ có thiện cảmlà mộtngười chỉ huy trẻ tuổi, rất can đảm,chống nhau với ta ngót mười năm trời.

Alfred Schreiner cho biết:

Trong suốt thời kỳ bị giam cầm,ông Trực không có lúc nào tỏ ra yếu đuối cả, một cách thẳng thắng và đàng hoàng, ông công nhận các chiến công của ông và cũng nhận là đã khinh thường sức mạnh của Pháp. Ngoài ra, ông chỉ yêu cầu ban cho ông một ân huệ, ấy là được xử tử ông ngay tức khắc*

*Lưu Danh hậu thế

Tài Đức ông thể hiện trong bài thơ Huỳnh Mẫn Đạt phúng điếu

Điếu Nguyễn Trung Trực

Thắng phụ nhung trường bất túc luân
Ðồi ba chỉ trụ ức ngư dân
Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần
Nhất đán phi thường tiêu tiết nghĩa
Lưỡng toàn vô úy báo quân thân
Anh hùng cường cảnh phương danh thọ
Tu sát đê đầu vị tử nhân.


Thái Bạch dịch nghĩa:

Thắng bại chi bàn việc tướng quân
Người chài trụ đá khúc gian truân
Lửa bừng Nhật Tảo rêm trời đất
Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần
Một sớm nhẹ mình nêu tiết nghĩa
Ðôi đường trọn chữ báo quân thân
Anh hùng cứng cổ danh thơm mãi
Lũ sống khom lưng chết thẹn dần.

 

Nguyễn Thị Tuyết Đào