"Ta muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém cá tràng-kình ở Biển Đông, quét sạch bờ-cõi để cứu dân ra khỏi nơi đắm-đuối chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu, cong lưng làm tỳ-thiếp cho người ta"

** Triệu Thị Trinh **

 

Hè..Và Tuổi Thơ Tôi.

Hè lại về! Mặc dù đã quá quen thuộc với chuyện "mỗi năm đến hè", nhưng khi những cây phượng vĩ trên sân trường rực đỏ một màu hoa, khi tiếng ve râm ran đâu đó trên cành me tây tôi lại thấy có chút gì bồi hồi xúc động. Những ngày hè tuổi thơ sao mà thật tuyệt vời. Không có những lo toan cho cuộc sống thường nhật, không có những trăn trở nghĩ suy. Chỉ có rong chơi, khám phá thế giới, tìm hiểu thiên nhiên và cuộc sống quanh ta. Thật thú vị biết bao khi ta là trẻ thơ mà lại được nghỉ hè nữa cơ chứ. Không cần phải thức khuya gạo bài sử của thầy Thịnh, cũng không hồi hộp mỗi khi cô Khánh Hoà dạy tiếng anh gọi lên bảng, có thể cho phép mình dậy muộn một tí, và cũng có thể rong chơi đâu đó vài hôm với bạn bè. Những ngày hè lại được về quê thăm nội, thăm ngoại, thăm cô, cậu, chú, dì... Về quê với bao nhiêu thú vui dã ngoại, điều đó thật sự cuốn hút tôi mỗi khi hè đến. Năm nào cha tôi cũng cho anh em tôi về quê nội chơi cả tuần. Với tôi những chuyến về quê trong những ngày hè đã trở thành những kỷ niệm khó quên gắn liền với một thời thơ dại, nó cũng là chút hành trang mà tôi mang theo trong suốt cả cuộc đời.

Quê nội tôi ở giồng Ông Tỏ thuộc xã Kiến An, Chợ Mới (bây giờ chỉ cần 2 tiếng đi xe máy là tới) có xa xôi gì đâu, nhưng mỗi lần hè về quê nội, với tôi là cả một chuyến hành trình đầy khám phá. Hồi đó đường sá không tốt, vả lại cũng không có nhiều phương tiện như bây giờ. Muốn đi về nội phải đón đò dọc Châu Đốc - Hoà Hảo, qua Vàm Nao ghé đầu kinh Sáu Nhựa, rồi lội bộ vào giồng Ông Tỏ. Tôi lại thích được đi bằng ghe tam bản do cha tôi chạy bằng máy đuôi tôm hơn. Thông thường thì cha tôi phải canh con nước vừa bắt đầu lớn là xuất phát, làm sao khi ghe chạy xuống tới vàm Bánh Lái thì lúc con nước cũng vừa đầy, ghe mới đi được vào con rạch nhỏ. Có những hôm đi gặp mưa gió, mặt sông nổi sóng, khi ngang qua Vàm Nao, chiếc tam bản do cha lái chạy chậm chạp, thận trọng cắt ngang những con sóng. Sợ nhất là những chuyến về ghe chở đầy tre mà lại gặp sóng to gió lớn. Cứ mỗi lần có một con sóng kéo tới đập vào mũi ghe, nước bắn tung toé, tôi lại thấy giật thót tim. Chạy ghe khoảng hơn hai tiếng thì chúng tôi đến vàm Bánh Lái, nơi cửa sông đi vào con rạch, con đường thuỷ nhỏ hẹp vào giồng Ông Tỏ. Con rạch chỉ rộng khoảng độ ba bốn mét, ngoằn ngoèo uốn lượn chạy song song với con đường đất nhỏ. Có những đoạn, ghe đi sát vào những nếp nhà ven rạch, có thể nhìn rõ cả những món ăn đạm bạc trong buổi cơm chiều làng quê của một gia đình nông dân sau một ngày làm việc.

Hồi ấy giồng Ông Tỏ còn là vùng sâu xa của Chợ Mới. Vào trong giồng chỉ có một con đường đất nhỏ, mùa mưa lầy lội, phương tiện đi lại khó khăn, nên cuộc sống hầu như rất biệt lập và yên tĩnh. Bỏ xa những ồn ào náo nhiệt của chốn phố chợ, buổi sáng thức giấc trong cái không khí tĩnh lặng của chốn đồng quê, tự dưng cảm thấy lòng mình thanh thản lạ. Trong cái yên ắng nhẹ nhàng, tôi như hoà mình vào hơi thở của ban mai thanh bình quê nội. Tiếng những con chim tíu tít trong vườn tre, tiếng lục lạc của mấy chú bò nhởn nhơ gặm những bụi cỏ non bên bờ ruộng, tiếng con gà mái tìm ổ đẻ cục tác hoà vào tiếng cười đùa vô tư của lũ trẻ tạo nên một khúc nhạc quê mộc mạc giản dị mà sâu lắng ngọt ngào. Buổi sáng vùng quê không khí thật trong lành, tĩnh lặng. Mùi rơm mục ngai ngái, mùi khói bếp cay nồng, mùi hăng hăng của đất và cả cái mùi phân bò chưa oai trong vườn tre, tất cả hoà quyện lại với nhau tạo nên một mùi đặc trưng riêng biệt. Ngày mới ở quê thanh bình và gần gũi. Ta như cùng thở với thiên nhiên, cùng đắm mình trong nắng sớm ấm áp, cảm nhận được một sự thân thiết gắn bó với chốn làng quê, nơi mà những thế hệ trước tôi sinh ra và lớn lên. Ở đó hồn quê Việt Nam thật sự sáng trong, con người và thiên nhiên thật gắn bó và chân tình xiết bao.

Mới hơn tám giờ sáng một tí là đã thấy dọn cơm cho cả nhà. “Bữa trưa đó em, ở quê không ăn sáng nên làm cơm ăn sớm rồi ai đi làm gì thì đi” - Chị hai Khuya con bác Sáu giải thích với tôi khi tôi hỏi đây là bữa trưa hay bữa sáng. Ăn cơm xong cũng là lúc mọi người bắt đầu công việc của mình. Chả có gì để gấp gáp! Con gà mái già cũng đủng đỉnh dắt đàn con thảnh thơi kiếm ăn quanh vườn. Còn tôi nháy mắt với mấy đứa cháu rồi vù ra sau vườn, bọn chúng nó đã chuẩn bị đồ nghề: dàn ná và đạn đất sét vo tròn. Hôm nay chúng tôi đi săn trong vườn tre. Nội tôi có đến mười ba người con, tôi là con ông út thứ mười ba, nên những người đồng vai phải lứa trong họ hầu như đã già, thôi thì đành đi chơi với cháu ngoại cháu nội của họ vậy. Mỗi lần về quê nội, tôi luôn thích thú khi được mấy đứa cháu dắt đi săn trong vườn tre. Với một đứa trẻ lớn lên ở phố chợ như tôi, những buổi dã ngoại như thế thật sự thú vị. Tôi như được khám phá một thế giới mới, tôi tự tưởng tượng như mình đang trong một chuyến thám hiểm rừng già với nhiều sự hấp dẫn như truyện tranh Mowgli. Vườn tre không rộng lắm nhưng kéo dài từ nhà bác Sáu đến tận vườn cũ của ông nội, gần sáu bảy trăm mét. Những bụi tre già xum xuê đầy gai, mọc san sát nhau, có nơi có đường để di, cũng có nơi phải vạch gai tre, thận trọng từng chút một, len lỏi tìm bắn những chú chim nghỉ trưa trong vườn. Vườn tre này do ông nội tôi trồng thời ông còn trai trẻ, đó là những năm đầu của thế kỷ hai mươi. Đến khi ông qua đời, ông chia đều cho những người con, cha tôi cũng có một phần. Vườn tre vẫn thế, ngày càng um tùm hơn, chỉ khác trước là nó đã được đánh dấu sở hữu từng phần của từng người cô, bác.

Cả ngày trong vườn tre hầu như không có nắng rọi xuống, không gian mát rười rượi. Những thân tre già vươn cao rồi phủ đọt xuống, cành nhánh đan vào nhau che kín mặt đất. Buổi trưa vườn tre yên tĩnh vô cùng, chỉ có tiếng xạc xào của lá, tiếng kẽo kẹt của những thân tre cọ xát vào nhau mỗi khi có gió thổi qua. Lũ chim sâu tíu tít bắt những con côn trùng trong đám lá tre dày đặc, tiếng con chim gõ kiến đều đặn cần mẫn gõ vào thân tre, một đôi chim cu rỉa lông cho nhau kêu gru… gru… trên ngọn tre. Tất cả những thứ đó với tôi thật sự lạ lẫm. Bao nhiêu mệt mỏi sau những ngày học tập dường như tan biến. Việc tự tay bắn chết một con chim, một con chuột bằng ná là điều chỉ có trong giấc mơ với tôi, nên chủ yếu tôi chỉ ăn theo phía sau. Lũ nhóc ở đây lại khác, đứa nào cũng bắn rất giỏi nhất là thằng Bửu con chị hai Khuya. Nó ốm nhom và đen như một cây cột nhà cháy, tối ngày chỉ mặc một chiếc quần cộc, nhưng cái dàn ná thì lúc nào cũng lủng lẳng trên cổ nó. Tối ngày nó không có ở nhà. Đưa bò ra chỗ ăn cỏ xong là nó bắt đầu sục sạo khắp mọi nơi. Ngoài đồng, dưới mương, trong vườn… không có nơi nào không có dấu chân của nó. Xế qua khi nó lùa mấy con bò về chuồng, trong tay nó cũng đã có một ít thức ăn mang về nhà. Khi thì mấy con chim hay cặp cúm núm, khi thì mớ cá tát dưới mương hoặc con rắn ráo dài sọc. Nó học hai năm lớp ba vẫn ở lại, năm thứ ba nó không chịu học nữa. Ba nó nói đói mới chết, dốt đâu có chết. Nó cười hề hề khi tôi hỏi về chuyện học. Để bọn chúng nó đi trước, tôi từ từ tận hưởng cảm giác được thám hiểm một vùng đất mới lạ. Tôi như thấy mình là nhân vật chính trong một câu chuyện thám hiểm đường rừng ly kỳ. Thận trọng từng bước một, tưởng chừng như phía sau mỗi bụi tre, mỗi lùm cây là những cạm bẫy trùng trùng. Trong tâm trí trẻ thơ của tôi, vườn tre nhỏ bổng biến thành một cánh rừng già mênh mông bạt ngàn.

Vườn tre nhìn từ ngoài vào có vẻ bịt bùng, nhưng khi vào phía trong cũng có những khoảng trống, những lối mòn luồn giữa những bụi tre. Những loài cây thân bụi như duối, tu hú, vừng cũng chen chúc nhau cố ngoi lên kiếm chút nắng mặt trời. Các loại dây leo như nhãn lồng, giác, bìm bìm... không chỗ nào là không có trong vườn tre. Một thế giới thực vật hoang dã chen chúc nhau vươn lên khoe cành nhánh. Đang là mùa mưa nên cây lá lại càng tốt tươi. Tôi ngã người nằm trên một khoảng đất trống, lá tre rụng dầy như một tấm nệm êm ái dưới lưng. Mùi ngai ngái của đất và lá cây mục xộc vào mũi, một chú rắn mối lủi nhanh ào ào dưới lớp lá khô. Bình yên và nhàn nhã! Với tuổi thơ của tôi ngày ấy, hạnh phúc nào hơn sự bình yên cuộc sống cho những ngày hè thú vị.

Mặt trời vừa xế qua đỉnh đầu, cũng là lúc bọn chúng nó thu quân, kiểm tra chiến lợi phẩm mang về. Cũng chẳng nhiều nhói gì, ba bốn con trao trảo, một cặp cu ngói, còn có bốn năm con rắn mối mập bóng cả da. Thằng Lộc thì bắt được mấy con chuột cống nhum làm ổ trên ngọn tre. Cả bọn kéo về vặt lông rồi đốt lá tre thui, làm thịt xong là giao cho chị Hai Khuya, chiều nay thế nào cũng có buổi cơm ngon lành, chị Hai là thợ nấu nổi tiếng trong giồng mà.

Sau bữa cơm chiều đậm đà hương vị đồng quê với món chính là nồi mắm kho cá lóc, chị hai Khuya pha một bình trà rồi mang ra cái khoảng nhỏ tráng xi-măng trên sân, nơi Bác Sáu cúng lạy mỗi ngày. Tôi rất thích được ngồi uống trà với Bác Sáu và cha tôi. Mỗi khi tôi mom men đến, Bác Sáu lại xoa đầu tôi cười rồi rót một ly đưa cho tôi. Mùi bông ngâu tươi thơm nhẹ nhàng xông lên mũi, hớp một ngụm nóng hổi, vị trà đắng ngọt đọng lại trên đầu lưỡi. Buổi chiều quê trôi qua thật thong thả, chậm chạm. Mấy con bò uể oải nhai những đọt cỏ non trong chuồng, con chó nhỏ cứ ngóng cổ lên trời sủa những đàn cò xếp thành hàng bay về phía núi xa xa. Giờ này đàn gà của bác Sáu bắt đầu tụ về đầy khoảng sân rộng trước nhà. Bọn thằng Lộc, thằng Bửu mỗi thằng một thúng lúa vãi xuống sân cho gà ăn trước khi đi ngủ. Đàn gà của bác Sáu đông thật, đủ cả các loại đứng dày đặc trong sân. Những chú gà trống nòi bộ lông đen trùi trũi tách biệt phía cuối sân xa hẳn hai ba gã gà điều oai vệ với cái mào đỏ chói. Những chú gà con chạy lăng xăng bên mẹ để được nhận thức ăn, lũ gà tre lượn lờ khoe dáng, lũ gà giò choai thì hăng máu giành ăn mổ nhau la quang quác. Nổi bật hơn cả đám gà ác nhỏ con lông trắng muốt tập trung ở gần cửa vào chuồng từ tốn thưởng thức bữa ăn. Bác Sáu nuôi gà chủ yếu để làm thực phẩm, nhà ở quê lại xa chợ có sẵn gia cầm lúc cần là có ngay. Ban ngày đàn gà được thả rông, tự kiếm ăn ở khắp nơi, ngoài ruộng, trong vườn, một không gian đủ rộng với nguồn thức ăn phong phú. Mỗi ngày bọn thằng Bửu chỉ phải cho gà ăn một lần khi bọn chúng về chuồng để ngủ. Những chú gà con mới nở với bộ lông tơ mềm mại tíu tít tranh nhau lên chuồng. Những con gà mẹ không ngớt gọi bầy, tập họp lũ con đến khi tất cả những đứa con của mình lên đầy đủ nó mới đủng đỉnh vào chuồng. Rồi chậm rãi dang rộng đôi cánh ôm tất cả những đứa con vào lòng, chở che, sưởi ấm giấc ngủ cho chúng.

Khi những con gà đã yên vị trong chuồng, trời cũng bắt đầu nhá nhem tối. Ánh sáng đèn dầu từ trong những căn nhà lá hắt ra chỉ đủ tạo nên những mảng sáng tối lờ mờ trên những khoảng sân hẹp. Giờ này mọi người trong xóm đều đã quây quần bên gia đình. Không có chuyện gì để làm, tôi tản bộ đi khắp xóm thăm hỏi bà con. Cả xóm này đều là con cháu của ông Nội. Họ sống với nhau chân tình và mộc mạc, chia nhau lít gạo khi giáp hạt, ới nhau một tiếng khi tìm được miếng mồi ngon. Hồi đó giồng Ông Tỏ không có điện nên có gì đâu để giải trí, sau một ngày lao động, chỉ cần vài xị rượu là đủ để ca vọng cổ ngon lành. Họ sống mộc mạc và giản dị biết bao. Buổi tối, trong cái vàng vọt của ánh sáng đèn dầu, họ quây quần bên nhau khi thì nghe cải lương qua chiếc radio, khi thì nghe kể những câu chuyện ma rùng rợn. Chỉ hơn chín giờ đêm là xóm làng đã chìm vào giấc ngủ, đêm thật yên lặng và tĩnh mịch. Lạ chỗ, những đêm đầu hầu như tôi rất khó ngủ, mỗi khi giật mình thức giấc đều phải nhìn ra phía trước nhà: căn nhà không hề đóng cửa trước, mà cũng chẳng có cửa để đóng. Cả xóm tối ngủ đều không đóng cửa! "Đâu có trộm đạo gì đâu mà lo cửa nẻo con ơi", bác Sáu cười bảo khi tôi thắc mắc về chuyện ấy. Mà họ cũng đâu giàu có gì mà lo bị trộm. Tôi thao thức nghĩ suy về quê nội, một vùng đất nghèo nhưng con người thì giàu tình cảm, giàu có sự yêu thương và chan chứa tình người. Ở nơi đây, các thế hệ trước tôi trong dòng tộc đã sinh ra và lớn lên, họ đã sống hết sức chân thành và giản dị. Ở họ tôi đã tìm được những tình cảm mộc mạc nhưng chân thành của những con người Việt Nam yêu chuộng hạnh phúc và hoà bình.

Tôi đã có những ngày hè êm đềm quê nội, đầy ấp những kỷ niệm tuổi thơ. Ở đó tôi không chỉ học được những bài học bổ ích về thiên nhiên quanh ta, mà ở đó tôi cũng đã có rất nhiều bài học về về tình cảm giữa con người với con người, về những đạo lý sống đã được hun đúc bao đời, bao thế hệ dưới luỹ tre làng Việt Nam. Tôi tự hào vì tôi cũng là một phần của họ, của làng quê Việt Nam.

Phan Võ Hoàng Nam

.