"Ta muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém cá tràng-kình ở Biển Đông, quét sạch bờ-cõi để cứu dân ra khỏi nơi đắm-đuối chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu, cong lưng làm tỳ-thiếp cho người ta"

** Triệu Thị Trinh **

 

Lễ Vu Lan Từ Dương Gian Xuống Âm Phủ

 

Truyền thống văn hóa và Phật Giáo Việt Nam, ngày Rằm Tháng Bảy âm lịch hàng năm là ngày Lễ Vu Lan báo hiếu phụ mẫu và cầu siêu độ cho cõi âm hay những cô hồn ma quỷ. Thi hào Nguyễn Du trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh mô tả khung cảnh ảm đạm nơi cõi dương gian trong ngày Rằm Tháng Bảy để gợi lên một cõi âm thê lương:

Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,

Toát hơi may lạnh buốt xương khô,

Não người thay buổi chiều thu,

Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.

Đường bạch dương bóng chiều man mác,

Ngọn đường lê lác đác sương sa,

Lòng nào lòng chẳng thiết tha,

Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.

Trong Lễ Vu Lan, các chùa theo truyền thống Bắc Tông như Việt Nam đều tụng Kinh Vu Lan.

Kinh Vu Lan

Kinh Vu Lan tiếng Phạn (Sanskrit) là Ullambana Sutra là bản kinh đã được tìm thấy trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taishō Tripiṭaka) số 685 và 686 trong Quyển 16, trong phần Kinh Tập Bộ, theo www.en.wikipedia.org. Ngài Trúc Pháp Hộ (Dharmarakṣa – 226-304 sau Tây Lịch) từ Ấn Độ sang Trung Hoa đã dịch ra chữ Hán bản kinh số 685 trong Đại Chánh Tạng, có tựa đề Vu Lan Bồn Kinh, khoảng từ năm 265 tới 311 trước Tây Lịch vào triều đại Nhà Tấn. Bản Kinh Vu Lan số 686 đã được dịch sang chữ Hán vào Triều Đại Đông Tấn nhưng khuyết danh người dịch.

Kinh Vu Lan đã được dịch sang tiếng Việt bởi nhiều vị, trong đó có bản dịch và chú giải rất công phu của Hòa Thượng Thích Trí Quang.

Kinh Vu Lan cũng được dịch sang tiếng Anh bởi nhiều dịch giả, theo www.en.wikipedia.org.

Eoyang Eugene dịch "Maudgalyayana Rescues His Mother From Hell" [Mục Kiền Liên Cứu Mẹ Khỏi Địa Ngục] được Nhà Xuất Bản Đại Học Columbia xuất bản năm 1985.

Mair, Victor H., dịch "Maudgalyāyana: Transformation Text on Mahamaudgalyāyana Rescuing His Mother from the Underworld" [Mục Kiền Liên: Bản Dịch Kinh Mục Kiền Liên Cứu Mẹ Khỏi Cõi Âm], do NXB Đại Học Cambridge xuất bản năm 1983.

Waley, Arthur dịch "Mu Lien Rescues His Mother from Hell" [Mục Liên Cứu Mẹ Khỏi Địa Ngục] xuất bản tại London năm 1960.

Johnson, David dịch "Mulian Rescues His Mother" [Mục Liên Cứu Mẹ] từ bản kinh chữ Hán, do NXB Đại Học Columbia xuất bản năm 2000.

Kinh Vu Lan kể rằng ngài Mục Kiền Liên [Maudgalyayana] -- một trong mười vị đại đệ tử của Đức Phật và cũng là người có thần thông cao diệu nhất trong những đệ tử của Đức Phật – sau khi chứng được lục thông đã sử dụng thần thông để tìm cha mẹ đã quá vãng của ngài. Cuối cùng ngài Mục Kiền Liên đã thấy mẹ ngài là bà Moggalī [thường gọi là Thanh Đề] sinh trong loài quỷ đói nơi địa ngục. Ngài bèn mang cơm vào địa ngục cho mẹ ăn. Nhưng khi bà cầm chén cơm lên để ăn thi chén cơm bốc thành ngọn lửa cháy do vì lửa xan tham của bà nổi lên. Ngài Mục Kiên Liên thấy vậy rất đau lòng và đã đến trình lại với Đức Phật về sự việc này để mong Đức Phật dạy cho cách giải cứu mẹ của ngài. Nhân đó Đức Phật đã nói Kinh Vu Lan.

Nội dung Kinh Vu Lan tương tự như Kinh Petavatthu Số 14 (Ngạ Qủy Sự Kinh) trong Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) của Kinh Tạng tiếng Pali. Kinh này kể chuyện về mẹ của ngài Xá Lợi Phất (Sariputta) là vị đệ tử trí tuệ đệ nhất của Đức Phật. Kinh mô tả cách ngài Xá Lợi Phất cứu mẹ trong 5 đời về trước lúc đó mẹ ngài bị đọa làm con quỷ đói. Tương tự như Kinh Vu Lan, ngài Xá Lợi Phất đã thiết đàn tràng cúng dường thực phẩm cho Tăng Già bốn phương. Với sự chứng minh của Đức Phật, ngài Xá Lợi Phất đã hồi hướng công đức cúng dường nhân danh người mẹ đau khổ của ngài. Nhờ công đức cúng dường này mà mẹ của ngài Xá Lợi Phất đã có thể thoát khỏi thế giới ngạ quỷ và tái sinh.

Câu chuyện khác cũng được tìm thấy trong Kinh Avadanasataka, cũng rất giống với Kinh Vu Lan. Trong kinh này ngài Mục Kiền Liên thay mặt cho năm trăm ngạ quỷ giao tiếp với thân nhân của họ là những người thay mặt ngạ quỷ cúng dường cho cộng đồng tăng. Một khi sự cúng dường công đức này thành tựu, thì những ngạ quỷ được thoát khỏi khổ đau và tái sinh.

Như vậy, Kinh Vu Lan bản dịch chữ Hán từ bản chữ Phạn của ngài Trúc Pháp Hộ mà Phật tử Việt Nam sử dụng lấy nhân vật Mục Kiền Liên làm tiêu biểu cho lòng hiếu thảo. Trong khi trong Kinh Tạng tiếng Pali của Phật Giáo Nam Truyền cũng có bản kinh tương tự nhưng nhân vật là ngài Xá Lợi Phất.

Lễ Vu Lan báo hiếu

Trong bài thơ “Bông Hồng Cài Áo” của Thiền Sư Nhất Hạnh được nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ phổ nhạc và thường được hát trong dịp Lễ Vu Lan, có đoạn mô tả về Mẹ.

Mẹ, Mẹ là lọn mía ngọt ngào

Mẹ, Mẹ là nải chuối buồng cau

Là tiếng dế đêm thâu

Là nắng ấm nương dâu

Là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời

Có lẽ trên thế gian này không có tình yêu thương nào sâu đậm, bền chặt và thiêng liêng như tình mẹ con. Và trên thế gian này dường như không có trường lớp nào dạy con người về cách yêu thương con cái và cha mẹ, nhưng như chất liệu tự nhiên tình yêu thương đó tuôn chảy mãi mà không bao giờ cạn. Tục ngữ Việt Nam nói rất nhiều về công ơn cha mẹ.

Ơn cha bóng núi âm thầm

Nghĩa mẹ lặng lẽ nước sông đầu nguồn

Một đời dãi nắng dầm sương

Nuôi con khôn lớn tình thương dạt dào.

Chính vì vậy, lòng hiếu thảo là lẽ tự nhiên, là đạo làm người mà ở đâu và thời nào cũng ca ngợi, cũng tuyên dương. Khác chăng là Đạo Phật ngoài việc khuyên cha mẹ đóng đúng vai trò dưỡng dục con cái của mình và con cái giữ trọn lòng hiếu thảo với song thân về mặt vật chất, còn dạy con người chú tâm đến lãnh vực tinh thần và tâm linh. Điều này có nghĩa là cha mẹ và con cái ngoài việc yêu thương chăm sóc cho nhau về vật chất đầy đủ còn phải quan tâm và giúp đỡ nhau về mặt đời sống tâm linh để làm sao có được cuộc sống an lạc và giải thoát không những cho đời này mà còn nhiều đời kiếp trước và sau này.

Kinh Vu Lan diễn tả lòng hiếu thảo của ngài Mục Kiền Liên đối với mẹ. Nhưng chính Đức Phật là người cả đời thể hiện lòng hiếu thảo của ngài đối với song thân là Vua Tịnh Phạn (Śuddhodana), Hoàng Hậu Maya và kế mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahaprajapati). Chuyện kể rằng Đức Phật sau khi thành đạo lần đầu tiên về thăm Phụ Hoàng là Vua Tịnh Phạn tại Thành Ca Tỳ La Vệ, vì sợ Vua cha ra đón nên Đức Phật đã âm thầm đích thân vào hoàng cung để thăm Vua Tịnh Phạn. Kinh Phật kể rằng Đức Phật đã từng lên Cung Trời Đao Lợi để thăm và thuyết pháp cho mẹ là Hoàng Hậu Maya sau khi mất đã sinh về đó. Chuyện cũng kể rằng, trong tang lễ của Tỳ Kheo Ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề là kế mẫu của Thái Tử Tất Đạt Đa, Đức Phật đã tự mình đỡ tay khiêng kim quan của bà đến nơi trà tỳ.

Tại Việt Nam Lễ Vu Lan cũng là Ngày Lễ Mẹ. Trong ngày này con cái bày tỏ lòng biết ơn đối với cha mẹ qua những hành động cụ thể như tặng quà, đưa cha mẹ đi chùa lễ Phật, tổ chức tiệc mừng thọ cho cha mẹ, v.v…

Lễ Vu Lan cũng được tổ chức tại nhiều nước theo truyền thống Phật Giáo Bắc Truyền tức là các nước mà Phật Giáo được truyền vào qua ngả đường bộ từ Bắc Ấn Độ đến Tây Tạng, Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn, Nhật Bản.

Theo truyền thống, mỗi năm chư Tăng Ni cấm túc an cư kiết hạ trong 3 tháng, từ Rằm Tháng Tư đến Rằm Tháng Bảy mới giải hạ. Trong suốt 3 tháng này chư Tăng Ni tập trung tại một trú xứ, Tăng Ni ở riêng trú xứ, để học hỏi và tu tập. Sau 3 tháng an cư kiết hạ huân tu đạo nghiệp nên đạo lực của chư Tăng Ni đạt tới thời kỳ viên mãn và cũng đúng lúc để có thể cử hành Lễ Vu Lan cầu siêu độ cho các vong linh, cô hồn, ngạ quỷ chịu khổ nhục nơi cõi tối tăm đọa đày.

Vì vậy, theo thông lệ chiều tối ngày Rằm Tháng Bảy các chùa hay tổ chức lễ chẩn tế cô hồn để bố thí tài vật cho cõi âm thừa hưởng.

Trong dịp Lễ Vu Lan tại Việt Nam theo truyền thống còn diễn ra nhiều cuộc cứu tế về tài vật và thực phẩm cho những người vô gia cư, người nghèo, và phóng sanh các loài động vật.

Có thể có nghi ngờ rằng không biết làm lễ cầu siêu và cúng dường như thế thì người chết có lợi ích gì không?

Trong tác phẩm “Để Ngộ Tông Chỉ Phật,” Cư Sĩ Nguyên Giác đã trích bản dịch tiếng Việt của Hòa Thượng Thích Minh Châu đối với Kinh Tăng Chi Bộ (Aṅguttara Nikāya) mà trong đó Đức Phật trả lời câu hỏi có nên cúng tế, làm các nghi lễ bố thí cho người chết hay không.

“Thưa Tôn giả Gotama, bố thí có lợi ích gì cho các bà con huyết thống đã chết không? Các bà con huyết thống đã chết có được thọ hưởng bố thí ấy hay không?

—Này Bà-la-môn, nếu có tương ưng xứ, thời có lợi ích, không có lợi ích nếu không có tương ưng xứ…

(…)—Thưa Tôn giả Gotama, nếu bà con huyết thống đã chết, không sanh vào chỗ ấy, và các bà con huyết thống khác cũng không sanh vào chỗ ấy, thời ai hưởng bố thí ấy?

—Không có trường hợp ấy, không có cơ hội ấy, này Bà-la-môn, rằng chỗ ấy có thể trống không trong một thời gian dài, không có người bà con huyết thống đã chết. Nhưng này Bà-la-môn, người bố thí không phải không có hưởng quả.”

Cũng trong cuốn “Để Ngộ Tông Chỉ Phật,” do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2020 tại Hoa Kỳ, Cư Sĩ Nguyên Giác đã trích bản dịch Việt của Hòa Thượng Tuệ Sỹ và HT Đức Thắng trong Kinh Tạp A Hàm mà Đức Phật trả lời rằng việc cúng tế cho người chết có vô ích không.

“Bà-la-môn bạch Phật: Thưa Cù-đàm, nếu con vì tín tâm bố thí cho người thân tộc, nhưng họ không sanh vào trong chốn Nhập xứ ngạ quỷ và cũng không có các thân tộc quen biết khác sanh vào chốn Nhập xứ ngạ quỷ, thì thức ăn do lòng tin bố thí đó ai sẽ hưởng?

“Phật bảo Bà-la-môn: Giả sử ông vì những thân tộc quen biết mà bố thí, nhưng họ không sanh vào trong chốn Nhập xứ ngạ quỷ và lại cũng không có những người quen biết khác sanh vào chốn ngạ quỷ, thì việc bố thí do lòng tin, tự mình sẽ được phước. Của bố thí do lòng tin của người thí chủ đó, sẽ không mất đạt-thẩn.”

Ngạ Quỷ

Trong Kinh Vu Lan đã nói ở trên có nói đến mẹ của ngài Mục Kiền Liên vì tạo nghiệp ác mà phải sinh làm ngạ quỷ. Vậy ngạ quỷ là loài nào?

Ngạ quỷ tiếng Phạn (Sanskrit) là preta để chỉ cho một loại chúng sinh siêu nhiên trong Ấn Độ Giáo, Phật Giáo, Lão Giáo và tín ngưỡng dân gian tại Trung  Hoa và Việt Nam chịu nhiều đau khổ hơn loài người, đặc biệt cực kỳ đói khát, theo www.en.wikipedia.org.  Ngạ quỷ có nguồn gốc trong các tôn giáo Ấn Độ và được truyền vào các tôn giáo Đông Á khi Phật Giáo truyền bá tới. Chữ Preta thường được dịch sang tiếng Anh là “quỷ đói.” Trong các kinh văn Phật Giáo sơ thời như Petavatthu [Ngạ Quỷ Sự], chúng có nhiều khác biệt. Sự phát triển khái niệm ngạ quỷ đã bắt đầu với suy nghĩ rằng nó là tâm và hồn cùa người đã chết, nhưng sau đó quan điểm này đã phát triển thành trạng thái tạm thời giữa chết và tái sanh theo nghiệp theo vận mạng của một người. Để vào chu kỳ tái sanh theo nghiệp, gia đình của người chết phải thực hiện nhiều lễ nghi và cúng tế để hướng dẫn thần thức đau khổ vào cuộc đời mới.

Ngạ quỷ được tin là do đời trước của con người có nhiều sai quấy, tham nhũng, cưỡng bức, lừa đối, ganh tị hay tham lam. Như là kết quả của điều họ làm, họ đau khổ với sự thèm khát vô độ đối với vật chất. Truyền thuyết cho rằng những thứ vật chất đó là ghê tởm như xác chết hay phân. Ngạ quỷ và con người cùng sống chung và trong khi con người nhìn dòng sông thấy nước trong sạch, thì ngạ quỷ cũng nhìn dòng sông đó mà thấy ngược lại, như máu mủ và rác rưởi.

Ảnh hưởng bởi Ấn Độ Giáo (hay Bà La Môn Giáo ngày xưa) và Phật Giáo, hình ảnh ngạ quỷ cũng xuất hiện trong các nền văn hóa Ấn Độ, Tích Lan, Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam, Tây Tạng, Thái Lan, Cam Bốt, Lào và Miến Điện.

Trong Đạo Phật, ngạ quỷ là một trong sáu loại chúng sinh, gồm địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, atula, trời và người.

Tiếng Tàu gọi là ngạ quỷ, có nghĩa là “quỷ đói.”

Tại Nhật Bản, chữ preta được dịch là gaki [ngạ quỷ] tức là quỷ đói. Kể từ năm 657, một số Phật tử Nhật Bản lấy riêng một ngày đặc biệt vào giữa tháng 8 để làm lễ, qua nhiều hình thức như cúng dường, cầu nguyên trong niềm tin rằng các quỷ đỏi có thể được giải thoát khỏi tội nghiệp. Tại Nhật Bản ngày nay, chữ gaki thường để chỉ cho đứa trẻ hư hỏng hay con nít ranh.

Tại Thái Lan, chữ pret là quỷ đói trong truyền thống Phật Giáo đã trở thành một phần của dân gian Thái, nhưng được mô tả như là không thật.

Trong nền văn hóa Tích Lan, giống nhưng nhiều nền văn hóa Châu Á khác, người sinh làm ngạ quỷ nếu họ tham lam quá nhiều trong cuộc sống khiến cho các bụng to lớn của họ không bao giờ có thể chứa đầy bởi vì cái miệng của họ thì quá nhỏ.

Chuyện ngạ quỷ trong Kinh Phật

Trong tác phẩm “Để Ngộ Tông Chỉ Phật,” Cư Sĩ Nguyên Giác đã trích Kinh Ngạ Quỷ Sự (Petavatthu) do Hòa Thượng Indacanda dịch sang tiếng Việt kể chuyện một con quỷ đói xuất hiện trước ngài Nandasena tự giới thiệu rằng khi sinh tiền là vợ của ngài, vì tạo ác nghiệp nên sinh vào cõi ngạ quỷ. Truyện kể như sau.

“Nàng đen đủi, có vóc dáng xấu xí, thô kệch, có dáng vẻ ghê rợn, có mắt đỏ ngầu, có răng hô, tôi nghĩ rằng nàng không phải loài người?”

“Này Nandasena, tôi là Nandā, trước đây tôi đã là vợ của ông. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”

“Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà từ nơi đây nàng đã đi đến thế giới ngạ quỷ?”

Tôi đã là người nhẫn tâm, có lời nói thô lỗ, không tôn trọng ông. Sau khi nói lời tồi tệ với ông, tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”

“Này, tôi cho nàng tấm choàng. Nàng hãy quấn mảnh vải này vào. Sau khi quấn vào mảnh vải này, hãy đi đến, ta sẽ đưa nàng về nhà.

Khi nàng đã đi đến nhà, nàng sẽ nhận được y phục, cơm ăn và nước uống. Nàng sẽ trông thấy những đứa con trai của nàng, và nhìn xem những cô con dâu.”

“Vật thí của ông dầu tay trao tay vẫn không lợi ích cho tôi. Ông hãy làm toại ý các vị tỳ khưu đầy đủ giới hạnh, đã lìa luyến ái, có sự nghe nhiều (học rộng), với cơm ăn và nước uống, rồi chỉ định sự cúng dường là dành cho tôi. Khi ấy, tôi sẽ được hạnh phúc, có sự thành tựu tất cả các dục lạc.”

“Tốt lắm!” Sau khi thỏa thuận, vị ấy đã thực hiện dồi dào vật thí: cơm ăn, nước uống, vật thực cứng, vải vóc, chỗ trú ngụ, lọng che, vật thơm, tràng hoa, và nhiều loại giày dép. Sau khi làm toại ý các vị tỳ khưu đầy đủ giới hạnh, đã lìa luyến ái, có sự nghe nhiều (học rộng), với cơm ăn và nước uống, rồi đã chỉ định sự cúng dường là dành cho nữ ngạ quỷ ấy.

Khi được chỉ định thì quả thành tựu đã được sanh lên ngay lập tức: vật thực, y phục, nước uống; quả báo này là do sự cúng dường.

Do đó, nàng ấy (nữ ngạ quỷ) trở nên sạch sẽ, có y phục tinh khiết, có sự trang phục bằng vải hạng nhất của xứ Kāsī, có các đồ trang sức và các tấm vải nhiều màu sắc, đã đi đến gặp người chồng.

“Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rực lên, ví như ngôi sao osadhī.

Do điều gì nàng có được màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?

Hỡi nàng tiên có đại oai lực, tôi hỏi nàng: ‘Khi là con người, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”

“Này Nandasena, tôi là Nandā, trước đây tôi đã là vợ của chàng. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.

Nhờ vào vật thí đã được chàng dâng cúng, tôi vui sướng, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu. Này gia chủ, mong rằng chàng sống thọ cùng với tất cả thân quyến.

Nơi chốn không sầu muộn, xa lìa luyến ái, là chỗ trú ngụ của các vị có quyền lực. Này gia chủ, ở đây sau khi thực hành Giáo Pháp, sau khi dâng cúng vật thí, sau khi loại trừ ô nhiễm của sự bỏn xẻn luôn cả gốc rễ, không bị chê trách, mong rằng chàng đi đến nơi chốn cõi Trời.”

Để chấm hết bài này, xin trích mấy câu trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh của thi hào Nguyễn Du nhắc nhở mười loài chúng sinh chiêm nghiệm câu “vạn cảnh giai không” trong Phật Pháp để giải thoát khổ đau và cầu nguyện cõi âm được siêu độ.

Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,

Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao,

Mười loài là những loài nào?

Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.

Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,

Có chữ rằng: “Vạn cảnh giai không”

Ai ơi lấy Phật làm lòng,

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.

 

Huỳnh Kim Quang