Trong Một Thế Giới Biến Động,

Tìm Hiểu  Về Chủ Nghĩa Dân Tộc (Nationalism)

 

 22bhvhtmtt1

(Hình ảnh: University of Toronto Magazine)

  

Định nghĩa:

chủ nghĩa dân tộc (nationalism), ý thức hệ dựa trên tiền đề rằng lòng trung thành và sự tận tụy của cá nhân đối với quốc gia-dân tộc vượt qua các lợi ích cá nhân hoặc nhóm khác.

(nationalism, ideology based on the premise that the individual’s loyalty and devotion to the nation-state surpass other individual or group interests.)(1)

Bản chất hiện đại của chủ nghĩa dân tộc

Chủ nghĩa dân tộc là một phong trào hiện đại. Trong suốt lịch sử, con người gắn bó với quê nơi mình sinh ra, với truyền thống của cha mẹ mình, và với các quyền lực lãnh thổ (territorial authorities) đã được thiết lập, nhưng phải đến cuối thế kỷ 18, chủ nghĩa dân tộc mới bắt đầu trở thành một thứ tình cảm nói chung được thừa nhận  là ảnh hưởng đến cuộc sống công và tư và một trong những nhân tố quyết định vĩ đại, nếu không muốn nói là vĩ đại nhất của lịch sử hiện đại. Vì sức sống năng động và tính cách lan tỏa của nó, chủ nghĩa dân tộc thường được cho là rất lâu đời; đôi khi nó bị xem một cách sai lầm là một nhân tố thường trực trong hành vi chính trị. Trên thực tế, các cuộc cách mạng Hoa kỳ và Pháp có thể được coi là những biểu hiện mạnh mẽ đầu tiên của nó. Sau khi thâm nhập vào các quốc gia mới của Mỹ Latinh, nó lan rộng vào đầu thế kỷ 19 đến Trung Âu (Central Europe) và từ đó, vào giữa thế kỷ, sang phía đông và đông nam châu Âu. Vào đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa dân tộc đã nở rộ ở châu Á và châu Phi. Vì vậy, thế kỷ 19 được gọi là thời đại của chủ nghĩa dân tộc (the age of nationalism) ở châu Âu, trong khi thế kỷ 20 chứng kiến ​​sự trỗi dậy và đấu tranh của các phong trào dân tộc mạnh mẽ trên khắp châu Á và châu Phi.

 Xác định quốc gia dân tộc (state and people)

Chủ nghĩa dân tộc, áp dụng vào ngôn ngữ chính trị thế giới, ngụ ý sự đồng nhất của quốc gia (state) hoặc dân tộc (nation) với người dân (people) — hoặc ít nhất cho rằng  xác định ranh giới  của một quốc gia theo các nguyên tắc dân tộc học là một điều nên làm. Trong thời đại của chủ nghĩa dân tộc, nhưng chỉ trong thời đại của chủ nghĩa dân tộc, nguyên tắc thường được thừa nhận rằng mỗi nhóm dân tộc (nationality)  phải thành lập một quốc gia (state)- quốc gia của nó - và quốc gia đó  phải bao gồm tất cả các thành viên của dân tộc đó. Trước đó, các quốc gia, hoặc lãnh thổ (territories)  dưới cùng một chính quyền, không được phân định theo nhóm dân tộc. Người dân không dành lòng trung thành cho quốc gia-dân tộc (nation-state)  mà cho các hình thức tổ chức chính trị khác: quốc gia-thành phố (city-state), thái ấp phong kiến (feudal fief) ​​và lãnh chúa của nó, quốc gia vương  triều (dynastic state), nhóm tôn giáo, hoặc giáo phái (sect). Quốc gia-dân tộc không tồn tại trong suốt phần lớn của lịch sử, và trong một thời gian rất dài, nó thậm chí còn không được coi là một lý tưởng. Trong 15 thế kỷ đầu tiên của Công nguyên, lý tưởng là “nhà nước thế giới hoàn vũ” (universal world-state), mà không phải trung thành với bất kỳ thực thể chính trị riêng biệt nào. Đế quốc La Mã là một ví dụ tốt, nó không chỉ sống sót trong  Đế quốc La Mã Thần thánh (Holy Roman Empire)(2) của thời Trung Cổ mà còn sống còn trong khái niệm về res publica christiana ("cộng hòa hoặc cộng đồng  Kitô giáo" ) và sau đó trong hình thức thế tục (secularized form)  trở thành một nền  văn minh thống nhất ở mức toàn cầu.(3)

Do sự thần phục về chính trị (political allegiance), trước thời đại của chủ nghĩa dân tộc, không được xác định theo chiều hướng dân tộc, cho nên một nền văn minh không được xác định theo chiều hướng dân tộc. Trong suốt thời Trung cổ, người ta xem văn minh như  được xác định bởi  tôn giáo; đối với tất cả các nhóm dân tộc  khác nhau của Kitô giáo (4) cũng như đối với những nhóm theo đạo Hồi, chỉ có một nền văn minh mà thôi - Kitô giáo hoặc Hồi giáo - và chỉ có một ngôn ngữ văn hóa (language of culture) - tiếng Latinh (hay tiếng Hy Lạp) hoặc tiếng Ả Rập (hay tiếng Ba Tư [Persian]). Sau đó, trong các thời kỳ Phục hưng (Renaissance) và  Cổ điển (Classicism), chính các nền văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại đã trở thành chuẩn mực chung, có giá trị đối với mọi dân tộc và mọi thời đại. Sau đó, nền văn minh Pháp vẫn được chấp nhận trên toàn châu Âu như một nền văn minh có giá trị cho những người có học thức thuộc mọi dân tộc. Chỉ vào cuối thế kỷ 18, lần đầu tiên nền văn minh được coi là xác định bởi nhóm dân tộc. Sau đó, nguyên tắc được đưa ra là mọi người chỉ có thể được giáo dục bằng tiếng mẹ đẻ của họ, không phải bằng ngôn ngữ của các nền văn minh khác và các thời đại khác, cho dù đó là ngôn ngữ cổ điển hay các sáng tạo văn học của các dân tộc khác đã đạt đến trình độ  văn minh cao.

Chủ nghĩa dân tộc văn hóa (cultural nationalism)

Từ cuối thế kỷ 18 trở đi, việc dân tộc hóa  (nationalization) giáo dục và đời sống công cọng đi đôi với việc dân tộc hóa các quốc gia (states) và các sự thuần phục chính trị (political loyalties). Các nhà thơ và học giả bắt đầu nhấn mạnh chủ nghĩa dân tộc văn hóa trước tiên. Họ đã cải cách tiếng mẹ đẻ, nâng nó lên hàng văn tự, đào sâu vào quá khứ dân tộc. Do đó, họ đã chuẩn bị cơ sở cho những yêu sách chính trị về chế độ quốc gia dân tộc (national statehood) sẽ sớm được nêu ra bởi những người mà tinh thần đã được họ hun đúc.

Trước thế kỷ 18, đã có những bằng chứng về tình tự  dân tộc (national feeling) trong một số nhóm nào đó tại một số thời kỳ nào đó, đặc biệt là trong các  thời điểm căng thẳng và xung đột. Sự gia tăng tình tự dân tộc  lên tầm  chính trị quan trọng đã được khuyến khích bởi một số diễn biến phức tạp: việc thành lập các quốc gia  lớn với chế độ trung ương tập quyền do các quân vương  chuyên chế cai trị, những vị vua này đã tiêu diệt các thuần phục phong kiến ​ cũ (feudal allegiances); sự thế tục hóa cuộc sống và giáo dục, việc này đã nuôi dưỡng ngôn ngữ bản địa và làm suy yếu các ràng buộc của giáo hội và giáo phái; sự phát triển của thương mại, đòi hỏi phải có các đơn vị lãnh thổ lớn hơn để tạo điều kiện cho tinh thần năng động của các tầng lớp trung lưu đang lên và doanh nghiệp tư bản của họ. Vào thế kỷ 18,  các quốc gia lãnh thổ (territorial state)(5) thống nhất rộng lớn này, với sự tập trung về kinh tế và chính trị, đã trở nên thấm nhuần vào thế kỷ 18 với một tinh thần mới - một tình cảm nhiệt thành tương tự như các phong trào tôn giáo trong các thời kỳ trước đó. Dưới ảnh hưởng của các lý thuyết mới về chủ quyền của người dân và quyền cá nhân, người dân đã thay thế nhà vua làm trung tâm của nước nhà (nation). Vua không còn là nước nhà hay quốc gia (state)(6); quốc gia đã trở thành quốc gia của nhân dân, một quốc gia dân tộc, quê cha (fatherland) hay quê mẹ (motherland). Quốc gia  được đồng nhất với dân tộc (nation), như văn minh được đồng nhất với  văn minh dân tộc (national civilization).(7)

Sự phát triển đó đi ngược với những quan niệm đã thống trị tư tưởng chính trị trong 2.000 năm trước đó. Cho đến lúc đó, cái chung và cái phổ quát thường được nhấn mạnh, và đồng thuận (unity, thống nhất)  đã được coi là mục tiêu duy nhất mong muốn. Chủ nghĩa dân tộc nhấn mạnh đến tính đặc biệt và tính địa phương hẹp  (parochial), các sự khác biệt và những cá tính dân tộc. Những khuynh hướng đó trở nên rõ rệt hơn khi chủ nghĩa dân tộc phát triển. Những đặc điểm kém hấp dẫn của nó lúc đầu không rõ ràng. Trong thế kỷ 17 và 18, các tiêu chuẩn chung của nền văn minh phương Tây, sự coi trọng con người, niềm tin vào lý trí (reason) (chỉ có một  và  ở mọi nơi đều giống nhau) cũng như theo lẽ phải thông thường (common sense), sự duy trì của các truyền thống Kitô giáo  và Khắc kỷ (Christian and Stoic traditions)— tất cả các điều trên vẫn còn quá mạnh để cho phép chủ nghĩa dân tộc phát triển đầy đủ và làm rối loạn xã hội. Do đó, chủ nghĩa dân tộc thuở ban đầu được cho là tương thích với những niềm tin thuộc thế giới đại đồng (cosmopolitan convictions) và tình yêu nhân loại bao quát, đặc biệt là ở Tây Âu và Bắc Mỹ.(8)

Chú thích

1)Bàn về các từ ngữ ”nation, nationalism, state, nation state” và  “dân tộc, chủ nghĩa dân tộc, quốc gia, quốc gia dân tộc”:

Nation: a) dân tộc : ví dụ: The nations of Europe= Các dân tộc Châu  Âu

b) Nước, quốc gia

Theo Quỳnh Lâm, Tự điển Anh Việt-Việt Anh, Saigon 1968

The League of Nations: Hội Quốc Liên

The United Nations: Liên Hiệp (hay Hợp) Quốc

Quỳnh Lâm dịch “nationality” :

    1. quốc gia vd: Twenty nationalities were represented
    2. quốc tịch vd: Ship of British nationality
    3. dân tộc tính vd: to preserve the nationality of a museum : bảo tồn dân tộc tính của một bảo tàng

Theo Quỳnh Lâm: Nationalism: Chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa dân tộc.

“Nationalist” còn được dùng để dịch từ “quốc dân” như trong Trung Quốc Quốc Dân Đảng”

Ví dụ: Trung Quốc Quốc dân Đảng (tiếng Trung: 中國國民黨, gọi tắt là Quốc dân Đảng, tên tiếng Anh là "Kuomintang of China" hay "Chinese Nationalist Party", viết tắt "KMT") do Tôn Trung Sơn và các đồng chí của ông sáng lập và tồn tại cho đến nay, cũng là một trong số các chính đảng sớm nhất tại châu Á. (Wikipedia)

Trong từ Nazism hay National Socialism (Đức : Nationalsozialismus) tiếng Việt dịch là Quốc Xã (quốc gia=national;  xã hội chủ nghĩa = socialism)

Ở Việt Nam trước 1975, phe “quốc gia” thường được người Mỹ gọi là “nationalist” đối nghịch với phe cọng sản.

State: thường được dịch là “quốc gia”; trong trường hợp “United States of America” state được dịch trước 1975 là “tiểu bang”, mặc dù nền kinh tế  tiểu  bang California chỉ nhỏ hơn 5-6 quốc gia hay Texas có nền kinh tế tương đương với kinh tế nước Nga (1600 tỷ đô la).

Một số nơi dùng nation-state để phân biệt các quốc gia và các tiểu bang của các nước liên bang.

Theo định nghĩa  của “nation-state” của từ điển Merriam-Webster:

Definition of nation-state

: a form of political organization under which a relatively homogeneous people inhabits a sovereign state, especially : a state containing one as opposed to several nationalities

Quốc gia-dân tộc: một hình thức tổ chức chính trị theo đó một dân tộc tương đối thuần nhất sinh sống tại một quốc gia có chủ quyền

đặc biệt là: một quốc gia bao gồm một dân tộc, trái với trường hợp có nhiều dân tộc

Cũng theo Merriam-Webster: nghĩa đầu tiên của “nation” là đồng nghĩa với “nationality”; một trong những nghĩa của “nationality” là:

“Nationality: a people having a common origin, tradition, and language and capable of forming or actually constituting a nation-state

The diverse nationalities of the Austro-Hungarian Empire desired independence.

b: an ethnic group constituting one element of a larger unit (such as a nation)

The country is home to five nationalities.

Tạm dịch là:

Nationality: một dân tộc có nguồn gốc, truyền thống và ngôn ngữ chung và có khả năng hình thành hoặc thực sự cấu thành một quốc gia-dân tộc

Ví dụ: Các dân tộc đa dạng của Đế quốc Áo-Hung mong muốn độc lập.

b: một nhóm dân tộc cấu thành một phần tử của một đơn vị lớn hơn (chẳng hạn như một quốc gia)

Ví dụ: Nước này là nơi cư trú của 5 dân tộc.

Trong bài này, xin dịch nationality là “nhóm dân tộc”  để phân biệt với hai nghĩa a) và b).

Ví dụ: In the age of nationalism, but only in the age of nationalism, the principle was generally recognized that each nationality should form a state—its state—and that the state should include all members of that nationality.

Trong thời đại của chủ nghĩa dân tộc, nhưng chỉ trong thời đại của chủ nghĩa dân tộc, nguyên tắc thường được thừa nhận rằng mỗi nhóm dân tộc (nationality)  phải thành lập một quốc gia (state)- quốc gia của nó - và quốc gia đó  phải bao gồm tất cả các thành viên của dân tộc đó.

Google translate dịch “nation state”  là “nhà nước quốc gia”, nhưng  tiếng Trung Hoa là  民族国家/Mínzú guójiā hay theo Hán Việt: “dân tộc quốc gia” .(30/4/2022)

Về từ “nationalism” có thể dịch ra nhiều từ khác nhau, như chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa dân tộc, phong trào dân tộc, phong trào quốc gia,  tùy theo ngữ cảnh.

Có bài báo hiện nay ở Việt nam dùng từ “nationalism” mà không dịch.

Có tác giả VN dùng hai từ “quốc gia dân tộc” (ví dụ: quyền lợi quốc gia dân tộc) đi đôi với nhau để chỉ “dân tộc” có lẽ trong nghĩa  toàn bộ “nhân dân” một nước (ví dụ như ở Mỹ: We the people of the United States/Chúng tôi nhân dân Hợp Chủng quốc…)  khác với nghĩa “dân tộc” như là “dân tộc ít người” (ethnic minorities).

2) Đế quốc La Mã Thần Thánh (Holy Roman Empire) còn được gọi là Thánh chế La Mã, là một phức hợp lãnh thổ rộng lớn đa sắc tộc ở Tây, Trung và Nam châu Âu (962- 1806), trong lịch sử Đức và chủ yếu là người Đức. 

Hoàng đế Frederick I Barbarossa dùng từ “thần thánh” (Holy)  để biểu lộ tham vọng đô hộ nước Ý và lãnh thổ của Giáo Hoàng. Lãnh thổ chủ yếu của Đế quốc gồm Vương quốc Đức, Vương quốc Bohemia, Vương quốc Bourgogne, Vương quốc Ý và nhiều lãnh thổ, công quốc, thành phố đế quốc tự do lớn nhỏ khác.

Thuật ngữ chính xác "Đế quốc La Mã Thần thánh" được sử dụng từ  thế kỷ 13, trước đó đế chế này được gọi với cái tên khác nhau là universum  regnum ("vương quốc toàn vũ trụ", trái với các vương quốc  khu vực), imperium christianum ("đế quốc Kitô  giáo") , hay Romanum imperium ("đế quốc La Mã"), nhưng tính hợp pháp của Hoàng đế luôn dựa trên khái niệm về chuyển giao quyền lực (Translatio imperii), Hoàng đế  nắm giữ quyền lực tối cao được thừa kế từ các hoàng đế cổ đại của Đế chế La Mã, cho nên ở đây tác giả cho rằng Đế quốc La Mã vẫn còn sống sót và tồn tại trong Đế quốc La Mã Thần Thánh. (Theo Wikipedia tiếng Anh)

Nhà độc tài Hitler và Đức Quốc Xã gọi nhà nước của họ là Đế chế thứ ba (1933-1945) để ám chỉ họ thừa kế quyền lực của Đế quốc La Mã Thần Thánh được xem như đế chế thứ nhất của Đức.

3)Nguồn gốc của ý tưởng một “nhà nước’ chung cho thế giới (world government) (Theo Wikipedia tiếng Anh):

Chính quyền thế giới là nguyện vọng của các nhà cai trị cổ đại ngay từ thời kỳ đồ đồng (3300 TCN đến 1200); Các vị vua Ai Cập cổ đại nhắm đến việc cai trị "Tất cả mọi nơi ánh sáng mặt trời bao bọc", các vị vua Mesopotamia (vùng Lưỡng hà) "Vùng đất từ nơi trời mọc cho đến nơi  trời lặn", và các hoàng đế Trung Quốc và Nhật Bản cổ đại "Thiên hạ (All under Heaven)".

Người Trung Quốc có một khái niệm đặc biệt phát triển  về chính quyền thế giới dưới hình thức Đại đồng, hay Da Yitong (大同), một tầm nhìn không tưởng về một xã hội thống nhất và công bằng được ràng buộc bởi đạo đức và các nguyên tắc cai trị tốt.

Nhà sử học Hy Lạp cổ đại Polybius đã mô tả quyền cai trị của La Mã trên phần lớn thế giới được biết đến vào thời điểm đó là một thành tựu "kỳ diệu" đáng được các sử gia tương lai xem xét. Pax Romana, giai đoạn gần hai thế kỷ thống trị của La Mã ổn định trên khắp ba lục địa, phản ánh nguyện vọng tích cực của một chính phủ thế giới, vì nó được coi là đã mang lại sự thịnh vượng và an ninh cho một  khu vực từng có tiếng là hổn độn về chính trị và văn hóa.

4)Christianity: Kitô giáo. Từ nguyên của "Kitô" là Χριστός (Khristos) trong tiếng Hy Lạp, nghĩa là "Đấng được xức dầu", dịch theo danh hiệu Messiah trong tiếng Hebrew. Trong tiếng Việt, người Công giáo dùng từ "Kitô" để gọi danh hiệu này của Giêsu, trong khi người Tin Lành thường dùng từ "Christ". Bên cạnh từ "Kitô" phiên âm qua tiếng Bồ Đào Nha được sử dụng bởi tín hữu Công giáo (Catholics), còn có từ "Cơ Đốc" xuất phát từ chữ Nho (基督) và thường được tín hữu Tin Lành sử dụng. Ngoài ra, một số người cũng dùng cách gọi Thiên Chúa giáo để chỉ Công giáo nói riêng và Kitô giáo nói chung. (theo Wikipedia)

5)Territorial state: “Quốc gia  lãnh thổ”, quốc gia căn cứ trên lãnh thổ kiểm soát bằng võ lực trong thời gian giữa năm 1000-1300.

Theo Wikipedia tiếng Anh: Thuật ngữ quốc gia  lãnh thổ được sử dụng để chỉ một nhà nước, điển hình của giai đoạn giữa thời Trung cổ  (high Middle Age), kể từ khoảng năm 1000 sau Công nguyên, và "các tổ chức phức tạp quy mô lớn khác đã đạt được quy mô, ổn định, năng lực, hiệu quả và phạm vi lãnh thổ chưa từng thấy kể từ thời cổ đại…Không giống như các lãnh chúa cũ được tổ chức như một liên minh cá nhân, chủ quyền của một quốc gia lãnh thổ dựa trên đất đai hoặc lãnh thổ của nó chứ không dựa trên tư cách thành viên của một gia đình triều đại hoặc các quyền liên quan đến cá nhân khác. Chủ quyền pháp lý (juridicial sovereingty) không nhất thiết phải là đặc điểm chính của chế độ nhà nước. Cách hiểu hiện đại về chủ quyền, được đưa ra vào thế kỷ 16, không tồn tại cho đến thế kỷ 19 và do đó chưa được áp dụng.  Đúng hơn, một quốc gia lãnh thổ phản ánh việc sử dụng riêng vũ lực vật chất trong một số loại lãnh thổ địa lý.”

Các tổ chức như thành phố-quốc gia (city-state), đế chế (empire)  và chính phủ thần  quyền (theocracy, trong đó các tu sĩ cai trị nhân danh Chúa hoặc một thần linh) cùng với nhiều tổ chức chính phủ khác được coi là các “quốc gia lãnh thổ”, nhưng không bao gồm các bộ lạc, dòng họ, công ty hoặc giáo  hội.

6) Từ Anh ngữ “state” do từ Pháp ngữ “l’état” mà ra (trong tiếng Pháp xưa viết là estat, sau đó chữ “s” được thế bằng dấu sắc trên chữ e) . Vua Pháp Louis XIV (1638-1715), triều đại kéo dài 72 năm, theo truyền thuyết, từng nói: “L’état, c’est moi”, tạm dịch “Quốc gia, là  trẩm đây” chứng tỏ quyền tuyệt đối của nhà vua, vua là nhà nước, bất kể giới quý tộc hay cơ quan lập pháp.

Vua Bảo Đại , vị vua cuối cùng cùa nhà Nguyễn, thoái vị hoàng đế ngày 25 tháng 8 năm 1945 và sau này trở thành Quốc trưởng của Quốc gia Việt Nam (L’État du Vietnam)( được thành lập ngày 14 tháng 6 năm 1949); năm 1955 trở thành Việt Nam Cọng Hòa.

7) Chúng ta thường nói “ văn hóa Việt Nam”, ít khi nói “văn minh Việt Nam”. Tuy nhiên tác giả Nguyễn Văn Huyên năm 1939 đã viết cuốn sách bằng tiếng Pháp tựa đề “La civilisation annamite”.

Theo nhanam.com:

“Cuốn sách này có một đời sống riêng đặc biệt. Bản thảo của nó được hoàn thành năm 1939 bằng tiếng Pháp với tựa đề La civilisation annamite (Văn minh An Nam). Nhưng phải chờ hơn 5 năm sau, năm 1944, nó mới được xuất bản tại Hà Nội. Đó là 5 năm kiểm duyệt gắt gao của chính quyền thuộc địa, và cũng là 5 năm kháng cự bền bỉ của tác giả để bảo vệ cho quan điểm của mình. Và có những trang bản thảo đã không được xuất bản.

Là một tác phẩm của một tác giả Việt Nam - Nguyễn Văn Huyên, nhưng phải chờ đến hơn 50 năm sau ngày xuất bản (1996), tác phẩm ấy mới được dịch ra tiếng Việt và chu du từ những tập tài liệu nghiên cứu chuyên biệt dành cho giới chuyên môn đến một toàn tập dày dặn mà thường chỉ có giới sưu tầm hay nghiên cứu tìm đến, tới một tập sách độc lập dành cho công chúng đông đảo.”

Gần đây hơn, vẫn  có một số học giả Việt Nam với tinh thần tự tôn dân tộc cao độ  tin rằng Việt Nam có một nền văn minh riêng còn cổ xưa hơn cả nền văn minh Trung Hoa:

“Thực tiễn các kết quả nghiên cứu đã xác định Dân tộc Việt có nhiều hơn 4,000 nghìn năm Văn Hiến như chúng ta vẫn quan niệm. Nền Văn minh Việt thời cổ đại đã có chữ viết, triết học, tôn giáo trước Văn minh Hoa Hạ (Hán, Trung Hoa) và kể cả nhiều nền Văn minh khác trên thế giới.” (Vũ Ngọc Phương)

https://nghiencuulichsu.com/2017/08/14/van-minh-viet-mot-su-that-lich-su/

8) Đoạn này chỉ nói về giai đoạn thế kỷ thứ 17-18.

Trong tình hình thế giới hiện nay, chủ nghĩa “nationalism” có thể đối chọi với “patriotism” (lòng ái quốc, lòng yêu nước), theo một twitter của Tổng Thống Pháp Macron, có lẽ nhắm  vào Tổng thống Mỹ Donald Trump người đã tự nhân mình là “nationalist” và chủ trương ”America First” :

“Patriotism is the exact opposite of nationalism. Nationalism is a betrayal of patriotism. By putting our own interests first, with no regard for others, we erase the very thing that a nation holds dearest, and the thing that keeps it alive: its moral values.”

(Tạm dịch : Lòng yêu nước hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa dân tộc. Theo chủ nghĩa dân tộc là phản bội lòng yêu nước. Bằng cách đặt lợi ích của mình lên hàng đầu, không quan tâm đến người khác, chúng ta xóa bỏ chính điều mà một quốc gia yêu quý nhất, và điều giữ cho quốc gia đó tồn tại: các giá trị đạo đức của quốc gia đó.)

https://twitter.com/emmanuelmacron/status/1061657617683111942?lang=en

Việt Nam có vẻ rất bận tâm về chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc  và cảnh báo về  “chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan” ở một số nước.

Hồ Văn Hiền dịch và chú thích.

Ngày 3 tháng 6 năm 2022

Nguyên tác:

Encyclopedia Britannica

Tác giả: Hans Kohn

The Editors of Encyclopaedia Britannica

https://www.britannica.com/topic/nationalism/Asian-and-African-nationalism