VĂN CHƯƠNG BÌNH DÂN NHƯ LÀ VĂN HOÁ ĐỐI KHÁNG III
Bài III
Người Đàn bà Bình dân Đối kháng những Thói hư Tật xấu của Đàn ông
Trong một bài viết mới đây (ngày 26 tháng 6 năm 2022) có tiêu đề “Gia đình Việt Nam và Thân phận Đàn bà” trên báo Saigon Nhỏ, Thạch Thảo mô tả hành vi của người đàn ông Việt Nam như sau:
“Nhậu mới chỉ là “tăng một”, chưa kể chuyện đi “tăng hai, tăng ba”: Tăng hai là bia ôm, karaoke ôm; tăng ba là đi chơi bời (mua dâm). Vợ con của những ông chồng ma men khổ trăm bề, nhưng họ chịu đựng được hết, chịu đựng triền miên ngày này qua tháng nọ, cả một đời người. Thậm chí chồng chơi bời họ cũng chấp nhận cho “ăn bánh trả tiền” như một lẽ thường tình. Chỉ khi chồng mê đắm, cặp bồ một người đàn bà khác, là “gái quán”, thì họ mới đau khổ và chia tay, gia đình tan vỡ.”
Và Thạch Thảo đã đưa ra kết luận là:
“Người ta thấy gia đình vẫn tồn tại nhưng đó chưa chắc là tổ ấm, con cái có đủ cha đủ mẹ nhưng chưa chắc đó là môi trường tốt cho đứa trẻ phát triển. Hàng năm, cứ tới ngày 28 tháng Sáu thì khắp nơi ra rả tuyên truyền về gia đình Việt Nam “no ấm, hạnh phúc, bình đẳng”, nhưng ai cũng thấy rõ rằng sự khủng hoảng gia đình là phổ biến và là một vấn nạn xã hội cần giải quyết, giải quyết từ cái cốt lõi là bảo vệ phụ nữ bằng giáo dục và luật pháp. Khi phụ nữ còn chịu đựng quá nhiều bất công, đau khổ thì xã hội đó khác gì một bộ lạc hoang dã thời mông muội?!”
Phải “bảo vệ phụ nữ bằng giáo dục [đặc biệt là giáo dục nam giới] và luật pháp” là phương sách giải phóng phụ nữ khỏi bị giới đàn ông đàn áp và bạo hành. Hành vi rượu chè, trai gái dù đã có gia đình của một số lớn đàn ông Việt Nam, không phải chỉ nổi bật ở thời điểm hiện tại, mà đã thường xảy ra suốt dọc dài lịch sử của đất nước mãi cho đến ngày hôm nay. Bốn thói hư, tật xấu của người đàn ông Việt Nam đã bắt đầu từ hồi xa xưa là: rượu chè, gái, cờ bạc, và hút xách. Sách Minh Tâm Bửu Giám1 có câu:
酒色財氣四堵牆, Tửu, sắc, tài, khí2: tứ đổ tường;
多少賢愚在內廂. Đa tiểu hiền ngu tại nội sương.
若有世人跳得出, Nhược hữu thế nhân khiêu đắc xuất,
便是神仙不死方. Thiện tị thần tiên bất tử phương.
“Nghĩa xuôi: Rượu chè, sắc dục, tiền của và khí khái là như bốn cái vách tường vậy, kẻ hiền ngu dầu nhiều dầu ít cũng đều nhốt tại trong cái rương ấy; nếu trong đời có ai mà nhẩy ra khỏi, thì thiệt cái phương [đạo] thần tiên chẳng chết đó (Trương Vĩnh Ký dịch [Sách pdf trên mạng])”.
Bốn thói hư tật xấu này quá phổ biến trong xã hội Việt Nam từ xưa đến nay đến nỗi không ai là không biết cụm từ “tứ đổ tường” bao gồm những gì mặc dù có thể ít người hiểu ý nghĩa của hai từ “đổ tường3”. Xã hội Việt Nam xem việc rượu chè, trai gái, cờ bạc, và hút xách của người đàn ông là những hiện tượng khá bình thường và hầu như là đương nhiên. Người đàn bà dân dã Việt Nam không nghĩ như thế. Họ luôn luôn phòng ngừa, ngăn cản người đàn ông của mình đừng đi vào con đường phá sản. Người đàn bà biết trước và biết rõ “tứ đổ tường” là những cám dỗ rất phổ biến trong xã hội và lo khuyên răn người yêu hoặc chồng mình nên chăm chú làm ăn và không nên rơi vào cạm bẫy của những cám dỗ đó:
Đó có nghĩ tình đây thì:
Rượu say đừng uống, chớ muốn bài cào,
Chớ đắm mấy chị đào, chớ mê vào á phiện.
Khuyên anh bốn chuyện, anh khá ghi lòng.
Anh ơi!
Ráng lo buôn bán, em sợ phòng dặn anh.
Tuy việc phòng ngừa, khuyên can của người đàn bà phản ánh một bức tranh tiêu cực, nhưng lại được đi kèm theo một viễn ảnh tươi sáng có tính quyến rũ đối với chồng mình và cả đối với chính bản thân mình nữa: Nếu rượu chè, cờ bạc, trai gái là những hình phạt thì công danh, phú quý, đạo đức, và sự ái mộ của quần chúng sẽ là những phần thưởng đáng đeo đuổi.
Triều đình còn chuộng thi thư,
Khuyên anh đèn sách sớm khuya học hành.
May nhờ phận có công danh,
Mà anh phú quý, ấy mình vẻ vang.
Khuyên đừng trai gái loang toàng,
Khuyên đừng chè rượu nữa mang tiếng cười.
Cũng đừng cờ bạc đua chơi,
Sao cho sự nghiệp ra người trượng phu.
Làm sao nên tiếng danh nho,
Thần trung, tử hiếu để cho khen cùng.
Nhưng trước sự bướng bỉnh, lì lợm của người đàn ông không chịu nghe theo lẽ phải, cứ ham mê say sưa rượu chè, như được bộc lộ qua câu ca dao sau đây:
Đố ai nằm võng không đưa,
Ru con không hát, anh chừa rượu tăm.
Người đàn bà không còn phòng ngừa, rào trước, đón sau nữa mà tìm cách phân giải với chồng về những hậu quả thực tế tai hại do rượu chè gây ra, với hi vọng là chồng sẽ thay đổi:
Anh ơi! Uống rượu thì say,
Bỏ ruộng ai cày, bỏ giống ai gieo!
Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa,
Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày.
Những người chè rượu đêm ngày,
Đã hư công việc lại rầy tiếng tăm.
Giải bày rồi cũng như nước đổ lá môn vì
Vai mang bầu rượu, chiếc nem,
Mãng say, quên hết lời em dặn dò.
Phân giải phải trái với chồng chẳng đem lại kết quả khả quan nào, người đàn bà chỉ còn cách châm biếm bằng trào phúng:
Hiu hiu gió thổi đầu non,
Mấy người uống rượu là con Ngọc Hoàng.
Ngọc Hoàng ngồi tựa ngai vàng,
Thấy con uống rượu, hai hàng lệ rơi.
Tưởng đâu con uống con chơi,
Ai dè con uống, con rơi xuống sình.
Nhưng trào phúng châm biếm không ngăn được nổi thống khổ mà người đàn bà phải chịu đựng, nên nàng cần than vãn để giải toả ẩn ức:
Con thì đói khóc như ri,
Chồng thì uống rượu li bì ngày đêm.
Đem tiền mua lấy cái say,
Hơi men, giở giọng, bầy nhầy bên tai.
Bữa hôm cùng với bữa mai,
Cua rang, ốc nướng kéo dài thâu canh.
Xương sông, lá lốt, lá chanh,
Rau thơm, rau húng, tỏi hành chắt chiu.
Trách ai không nghĩ một điều,
Vợ con nheo nhóc nỡ liều uống say.
Rồi than vãn cũng không đem lại cứu rỗi nên nàng đành phải kết luận trong thất vọng:
Lấy chồng chè rượu là duyên nợ nần.
Từ ngăn ngừa, khuyên can đến phân giải, châm biến, than vãn, và sau cùng là phản kháng. Phản kháng là giai đoạn mà tình cảm đối với chồng có lẽ đã phai nhạt và sự khinh bỉ đã xâm chiếm, ngự trị trong tâm hồn của người đàn bà như được thể hiện qua những câu ca dao sau đây:
Ở đời chẳng biết sợ ai,
Sợ thằng say rượu nói dai tối ngày.
Ở đời tôi chẳng sợ ai,
Sợ người say rượu nói dai như thừng.
Ở đời chẳng biết sợ ai,
Sợ thằng say rượu đ… dai đau l…
Con chim khôn, kiếm cành lành mà đậu,
Con gái khôn, kiếm thằng chồng nhậu mà nhờ.
Mai sau nó chết bụi, chết bờ, khỏi chôn!
Thói hư say sưa đưa đến bỏ công, mất việc, đánh đập vợ con, nhưng vẫn chưa tệ hại bằng tật xấu cờ bạc. Cờ bạc sẽ làm tán gia, bại sản. Khi người đàn bà thấy chồng mình bắt đầu có những triệu chứng ham mê cờ bạc như:
Bạc ba quan, tha hồ mở bát,
Cháo ba đồng, chê đắt chẳng ăn.
Quan tường là quan tường dai,
Tổ tôm, xóc đĩa dông dài cả đêm.
Canh trước còn khá êm êm,
Canh sau thua thiệt, ngồi bên lọ hồ.
Được thời đàn hát cũng hay,
Thua thời đi ngủ lại hay giật mình.
Chiều chiều ra đứng bờ sông,
Hỏi thăm chú lái: nào chồng em đâu?
-Chồng em đang ở Khuê Cầu,
Đánh thua quay đất từ đầu tháng Giêng.
Cầm khăn, bán áo cổ kiềng,
Bán nón quai lụa, bán chiện cố nồi.
Bây giờ túng lắm, em ơi!
Có tiền giấu mẹ mà nuôi lấy chồng.
Đánh bạc quen tay,
Ngủ ngày quen mắt,
Ăn vặt quen mồm.
Phản ứng đầu tiên của người đàn bà là khuyên can người đàn ông không nên cờ bạc. Rượu chè, tuy nguy hiểm nếu luôn say sưa, nhưng đôi chút xã giao thì cũng không sao. Cờ bạc thì tối kị:
Anh ơi! Cờ bạc nên chừa,
Rượu cho anh uống, rượu mua anh đừng.
Làm trai cờ bạc thì chừa,
Rượu làng thì uống, rượu mua thì đừng.
Để sự khuyên can của mình có hiệu quả, người đàn bà nêu ra những lí do rất thực tiễn:
Những người cờ bạc say mê,
Vong gia thất thổ, kẻ chê người cười.
Anh ơi! Anh ở lại nhà,
Thôi đừng cờ bạc nữa mà hư thân.
Tham chi những của phù vân,
Lỡ ra công nợ, mười phần xấu xa.
Kỳ bạc tiền sẵn trong lưng,
Anh em chè chén, tưng bừng ăn chơi.
Kẻ thì xóc đĩa, đố mười,
Tổ tôm chắn cạn, phá ui ít xì.
Bạc thua, mặt xám như chì,
Gạo tiền hết sạch, lấy gì mà ăn.
Anh ham xóc đĩa cò quay,
Máu mê cờ bạc, lại hay rượu chè.
Eo sèo công nợ tứ bề,
Kẻ lôi, người kéo, ê chề lắm thay!
Nợ nần em trả, chàng vay,
Kiếp em là kiếp kéo cày đứt hơi!
Nói lên sự gian khổ của chính bản thân trong việc phải vay nợ và lao động để trả nợ cho chồng vẫn không đủ để kêu gọi sự ăn năn, hối cải của chồng, người đàn bà cuối cùng phải năn nỉ là dù chồng có đem cầm, đem bán hết gia sản, thì ít nhất cũng đừng cầm hay bán vợ mình đi, nghĩa là người đàn bà đã năn nỉ hết sức mình.
Nước nguồn chảy xuống soi dâu,
Thấy anh đánh bạc lùa trâu đi cầm.
Cầm trâu, cầm áo, cầm quần,
Cầm dây lưng lụa, xin đừng cầm em!
Những hậu quả được mô tả rất tàn tệ của việc ham mê cờ bạc được phổ biến rộng rãi qua ca dao, tục ngữ cũng là phương tiện đối kháng của người đàn bà dân dã Việt Nam đối với hành vi ham mê cờ bạc của người đàn ông:
Nghe vẻ nghe ve,
Nghe vè đánh bạc.
Đầu hôm xao xác,
Bạc tốt như tiên.
Đêm khuya không tiền,
Bạc như chim cú.
Cái đầu sù sụ,
Con mắt trõm lơ.
Hình đi phất phơ,
Như con chó đói.
Chân đi cà khói,
Dạo xóm dạo làng.
Quần rách lang thang,
Lấy tay mà túm.
Trời sinh ra ông tướng tài,
Cờ bạc, xóc đĩa dông dài cả đêm.
Canh trước tưởng hẳn còn tiền,
Canh sau cố áo, ngồi bên lọ hồ.
Cái ngoảnh đi, tay thò móc lọ,
Cái ngoảnh lại, phì phò chén say.
Còn tiền, đánh cái cũng hay,
Hết tiền đi ngủ lại hay giật mình.
Tưởng sự tình, bạc này hai sấp,
Chẳng ai ngờ nó lại sấp ba.
Bây giờ quan tướng thua ra,
Áo quần cố hết, cởi ra, về trần.
Về giữa sân, vạch quần bắt rận,
Vợ ở nhà giận chẳng nấu cơm,
Bây giờ tướng chui ổ rơm,
Chẳng dám hạch nước, hạch cơm, hạch trầu.
Vợ thương chồng ra màu rét mướt,
Đem tiền đi chuộc lấy áo về,
Từ rày tướng sẵn xin thề:
“Còn đi đánh bạc, chẳng về chi đây!”
Cờ bạc là bác thằng bần.
Cờ bạc là bác thằng bần,
Áo quần bán hết, ngồi trần tô hô.
Cờ bạc là bác thằng bần,
Nhà cửa bán hết, chôn chân vào cùm.
Cờ bạc là bác thằng bần,
Cửa nhà bán hết, tra chân vào cùm.
Cờ bạc là bác thằng bần,
Ruộng nương bán hết, xỏ chân vào cùm.
Cờ bạc là bác thằng bần,
Nhà cửa bán hết ra thân ăn mày.
Cờ bạc sanh trộm cướp.
Cờ gian, bạc lận.
Rượu chè, cờ bạc lu bù,
Hết tiền, đã có mẹ cu bán hàng.
Làm trai đã đáng nên trai,
Vót đũa cho dài, ăn vụng cơm con.
Ăn chơi cho thoả thoà thoa,
Có năm bức áo xé tà cả năm.
Cờ bạc nó đã khinh anh,
Áo quần bán hết, một manh chẳng còn.
Gió đông nam chui vào đống rạ,
Hở mông ra cho quạ nó lôi,
Anh còn cờ bạc nữa thôi.
Chồng đánh bạc, vợ đánh bài,
Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng.
Máu cờ bạc đã ăn sâu vào xương tuỷ. Khuyên lơn, phân giải, lí lẽ đều vô ích. Xã hội thì hoàn toàn vô cảm đối với những đớn đau, chịu đựng của người đàn bà. Dù vậy, tình trạng này vẫn không ngăn cản được người đàn bà công bố sự bất mãn của mình với mọi người như là một hình thức đối kháng:
Anh này có tính hoang toàng,
Rượu chè, cờ bạc, làm ngang không chừa.
Chồng em nó chả ra gì,
Tổ tôm, xóc đĩa nó thì phá hoang.
Nói ra xấu thiếp, hổ chàng,
Nó giận, nó phá tan hoang cửa nhà.
Nói đây, có chị em nhà,
Còn năm thúng thóc với và cân bông.
Bán đo trả nợ cho chồng,
Còn ăn, hết nhịn cho thoả lòng chồng con.
Đắng cay ngậm quả bồ hòn,
Con nhà gia giáo, chồng con kém người.
Nói ra sợ chị em cười,
Con nhà gia giáo lấy người đần ngu.
Rồng vàng tắm nước ao tù,
Người khôn ở với người ngu nặng mình.
Đêm nằm nghĩ lại mà coi,
Lấy chồng đánh bạc như voi phá nhà.
Do đó, tình yêu đối với chồng dần dà phai lạt. Ước mong duy nhất còn lại của người đàn bà là chồng ngừng đánh bạc để khỏi nhà tan cửa nát; còn rượu chè, trai gái thì nàng không màng đến nữa:
Thằng chồng em là đứa vô nghì,
Tổ tôm, xóc đĩa, việc gì cũng ngoan.
Bởi chồng cờ bạc nên lòng chẳng thương.
Thương ai cho bằng thương chồng,
Bởi chưng cờ bạc nên lòng chẳng thương.
Khuyên chàng cờ bạc thì đừng,
Rượu chè, trai gái, say sưa mặc lòng.
Người đàn bà hoàn toàn bất lực trước hiện trạng, và hình thức đấu tranh duy nhất còn lại là hăm doạ cắt đứt cung cấp nhu cầu khẩn yếu của người đàn ông:
Nếu chàng cờ bạc đêm ngày,
Thiếp lấy sợi chỉ, khâu ngay cái đồ.
Về vấn đề trai gái thì sự nghi ngờ của người đàn bà thường chỉ bắt đầu nhen nhóm với những hành vi, cử chỉ bất thường của người đàn ông:
Nước chảy xuôi, con cá buôi lội ngược,
Nước chảy ngược, con cá vược sang ngang.
Thuyền em vào bến Lại Giang,
Sao thuyền anh lại ngược đàng Quảng Nam.
Hay là anh đã ra dạ phụ phàng.
Anh về em ở hai nơi,
Cắn răng cách mặt cơ trời khó toan.
Dằn lòng phân rẽ, anh sẽ xuống thoàn,
Thương ai rớt luỵ can tràng quặn đau,
Nhìn nhau luỵ nhỏ thấm bâu,
Than trời, trách đất cớ đâu phân lìa.
Mình nói rằng vài bữa mình dìa,
Hay là mình muốn phân chia chữ tình.
Mặc dù vẫn yêu chồng tha thiết, sự nghi ngờ càng lúc càng gặm nhấm tâm hồn người vợ làm cho nàng thắc mắc và đặt những câu hỏi tra vấn ban đầu còn vu vơ, không biết chồng có còn yêu mình nữa hay không.
Ra về nhớ nghĩa em không?
Hay thuận buồm, xuôi gió, biệt mông xa chừng!
Có mặt tôi, mình nói mình thương
Mình về chốn cũ vấn vương nơi nào?
Rốt cuộc, không còn chịu đựng được nữa vì sự nghi ngờ có cơ sở càng ngày càng lớn dần, nàng thẳng thắn đòi hỏi chồng phải cắt nghĩa lí do đưa đến những hành vi bất thường đã gây nên sự nghi ngờ và lo âu cho nàng và yêu cầu chàng phải nói rõ là có còn yêu nàng nữa hay không.
Anh đi chơi nhởn đâu đây?
Phải cơn mưa này, ướt áo, lấm chân.
Chậu nước em để ngoài sân,
Em chờ anh rửa xong chân, anh vào nhà.
Vào nhà, em hỏi tình ta
Trăm năm duyên ngãi mặn mà hay không.
Nhưng thái độ và lập trường của người đàn ông là:
Còn trời, còn nước, còn non,
Còn cô bán rượu, anh còn say sưa.
Mang bầu đến quán rượu dâu,
Say hoa đắm nguyệt, quên câu ân tình.
Thế gian ba sự không chừa,
Rượu nồng, dê béo, gái vừa đương tơ.
Đố ai nằm võng không đưa,
Ru con không hát, anh chừa rượu tăm.
Đố ai chừa được rượu tăm,
Chừa ăn thuốc chín, chừa nằm chung hơi.
_Có tôi chừa được mà thôi,
Chừa ăn thuốc chín, chung hơi chẳng chừa.
Và thực tế hiện trạng là:
Cái Bống đi chợ cầu Giời,
Mua được mớ tép với đôi quả bầu.
Về nhà, con khóc đã lâu,
Vất thịch quả bầu mà bế lấy con.
Tay nâng cái vú cho tròn,
Tay vạch cái yếm cho con rúc vào.
Thằng cu, mày khóc làm sao,
Để mẹ xót ruột như dao cắt lòng!
Lại đây, mẹ bế, mẹ bồng,
Mẹ tắm, mẹ rửa, gửi ông, gửi bà.
Bố mày đắm nguyệt, say hoa,
Quên cả việc nhà, quên cả thằng cu!
Còn trơ trẽn và tệ bạc hơn nữa là người đàn ông nghiễm nhiên tuyên bố hành động phản bội của mình một cách công khai như là quyền tuyệt đối bất khả xâm phạm của mình:
Ngày xưa ta chửa lấy mày
Thời ta trải chiếu bàn tay cho ngồi.
Bây giờ ta lấy được rồi,
Chiếu chả cho ngồi, đất lại thả rông.
Thái độ ngang nhiên này hẳn đã có căn nguyên từ việc xã hội dung túng, nếu không phải là chấp nhận, tình trạng đa thê.
Ai xui, ai khiến bất nhơn,
Tôi nay gặp bạn, thương hơn vợ nhà.
Mới yêu thì cũ cũng yêu,
Mới có mỹ miều, cũ có công lênh.
Trong một xã hội mà hành vi trái gái, ngoại tình, hay lấy nhiều vợ của người đàn ông được dung túng hoặc chấp nhận thì người đàn bà chỉ có thể có hai phản ứng: một là cũng chấp nhận hành vi đó như một sự kiện bình thường, hai là chống đối. Đa số những người đàn bà thuộc những gia đình trung lưu, có chút Nho học thường có thái độ chấp nhận. Có người lại còn đi cưới vợ bé cho chồng. Người đàn bà dân dã không chấp nhận tình trạng này vì hành vi của người đàn ông mang tính chất phản bội ân tình. Việc lập gia đình của giai cấp trung lưu trong thời Nho học thường được cha mẹ sắp xếp. Đa số người bình dân lập gia đình bằng cách đến với nhau qua tình yêu. Phản bội tình yêu là phản bội một giao ước ân tình tự nguyện. Và đây có lẽ là lí do người đàn bà dân dã chống đối lại hành vi phản bội của người đàn ông. Nhưng hành vi trong xã hội thường bị ảnh hưởng và chi phối bởi tầng lớp trí thức. Do đó, người đàn bà dân dã cũng khó đi ngược lại tập tục. Tuy nhiên, điều này không ngăn cấm được người đàn bà bình dân phát biểu sự chống đối của mình.
Hình thức chống đối đầu tiên của người đàn bà dân dã là đối kháng bằng lời lẽ khuyên can, những lời lẽ vẫn còn chứa chất ân tình, với mục đích ngăn cản người đàn ông không nên phản bội tình sâu, nghĩa cũ và nàng luôn luôn sẵn lòng đón chàng trở lại:
Nào ai nhớ thuỷ nhớ chung,
Đừng giơ dao cắt ruột, khổ vô cùng bạn ơi!
Một miếng trầu, năm ba lời dặn,
Một chén rượu, năm bảy lời giao.
Anh chớ nghe ai sóng bổ ba đào,
Em đây giữ niềm tiết hạnh, anh chớ lãng xao em buồn.
Em trồng tre, anh chớ bẻ mầm,
Yêu em, anh chớ âm thầm cùng ai.
Em trồng khoai, anh chớ chiết đài,
Yêu em, anh chớ lấy người ngoài hơn em.
Em trồng dâu, anh chớ bẻ chồi,
Yêu em, anh chớ đứng ngồi cùng ai.
Lúc em bước chân ra,
Má ở nhà có dặn:
Công sanh thành là nặng,
Điều tình ái là khinh,
Đừng nên tham sắc đắm tình,
Lánh xa tửu điếm, trà đình chớ vô.
Ống quyển dài khen ai khéo thổi,
Bỏ giọng trầm, nhiều nỗi đắng cay.
Anh thương em thì thương cho dày,
Đừng thương lả chả như ngày không thương.
Dặn lòng, dặn nạc, ai dễ dặn xương,
Dặn anh hai chữ cương thường đừng quên.
Thiếp với chàng, đôi đàng thương nhớ,
Thương nhau phải băng ngàn!
Trót cưu mang, xin cho toàn,
Chớ đem dạ phụ phàng.
Khuyên đừng phụ chốn khó khăn,
Khó mà biết ngãi, đạo hằng hơn sang.
Lời vàng tạc đá ghi lòng,
Xin đừng trăn trở ngoài vòng trăng hoa.
Tép đồng ăn với rau mưng,
Chồng ăn vợ nhịn, xin đừng bỏ nhau.
Lụa làng Trúc vừa thanh vừa bóng,
May áo chàng cùng sóng áo em.
Chữ tình cùng với chữ duyên,
Xin đừng thay áo mà quên lời nguyền.
Gió trên nhành rung cây nghiêng ngả,
Ve kêu sầu trong dạ bâng khuâng.
Gửi lời về nhắn với tình nhân,
Bấm tay kể thử ái ân ít nhiều.
Nhớ khi mô, khuya sớm mỹ miều,
Gió đưa, duyên đẩy, dặt dìu lòng thương.
Nhớ khi mô đạp tuyết, giày sương,
Bóng trăng nghiêng, mặt trời ngả, khổ trăm đường, bạn biết chưa!
Bạn không nhớ khi miếng thuốc gửi, miếng trầu đưa,
Tình không thương, sao hẹn sớm hò trưa, hỡi mình!
Bạn nói bạn không tham giàu, phú quý coi khinh,
Cớ sao bạn phụ nghĩa mình, bạn ơi!
Con cá ham mồi lạ, quên khúc sông dài,
Con chim ham cảnh lạ, đứng hát hoài nhành cây.
Gật gù chim gáy lầu tây,
Chim cu ơi! Chim cu hỡi! Lồng đây, hãy trở về!
Và khi khuyên lơn bằng những lời lẽ đầy ân tình không đủ lay chuyển lập trường của người đàn ông thì đôi khi người vợ thấy cần phải vạch trần những thực tế phũ phàng như là kết quả của hành vi phản bội của chồng.
Anh ơi, vợ cũ chớ vong,
Đàng cũ anh chớ lấp để phòng vãng lai.
Bắc thang lên hỏi ông trời,
Những tiền cho gái có đòi được không.
Em thấy người ta say mê tửu sắc,
Sờ sờ trước mắt, nghèo gắt nghèo khô.
Khuyên lơn không mang lại kết quả, người đàn bà dân dã chỉ còn biết cách trách móc chồng. Lúc ban đầu sự trách móc còn mang ý nghĩa phân giải tại sao chồng mình lại có thể phản bội những lời thề thốt yêu đương để cho mình phải chịu đựng cô đơn.
Trách người phơi lúa nống thưa,
Chèo thuyền trên động, khéo lừa duyên em.
Sông sâu, vực thẳm, hỡi chàng,
Đâu đâu cũng vậy, anh phũ phàng làm chi!
Khoác mùng ra thấy mùng không,
Gối loan để đó, lệ hồng tuôn rơi.
Đi đâu bỏ nhện giăng mùng,
Bỏ đôi chiếu lạnh, bỏ phòng quạnh hiu.
Em nhớ ngày nào bên ao cá lội,
Anh chỉ, anh thề không lỗi nghĩa keo sơn.
Mà giờ đây anh đã sang giàu,
Anh quên đi lời hứa buổi ban đầu cùng em.
Bạc tình thế, cũng người quân tử!
Không giận mần răng cho đặng.
Bỏ vợ chẳng hề ừ hữ, giận lắm hết khôn.
Mất chồng khó nỗi bôn chôn, thương đà hoá dại.
Đó đã đành phụ nghĩa, đây há dám vong tình.
Nhưng rồi sau cùng, nàng cũng phải có hành động:
Thiếp toan bồng bế con sang,
Thấy chàng bạc bẽo, thiếp mang con về.
Bởi vì:
Có chả, anh tính phụ xôi,
Có cam phụ quýt, có người phụ ta.
Có quán đình, phụ cây đa,
Ba năm quán đổ, cây đa vẫn còn.
Có mực thì anh phụ son,
Có kẻ đẹp giòn tình phụ nhân duyên.
Có bạc anh tính phụ tiền,
Có nhân ngãi mới, quên tình người xưa.
Qua cầu một trăm cái nhịp,
Em không theo kịp, kêu: “bớ hỡi chàng!”
Cái điệu tào khang sao chàng nỡ dứt,
Đêm nằm nghĩ tức, giọt lệ tuôn rơi.
Nhón chân lên, kêu: “Bớ hỡi Trời!”
Ai bày mưu cho bạn, bạn dứt nơi ân tình.
Oan ức, tấm tức, đánh ngực kêu thùng,
Người thương tôi trở dạ, khổ vô cùng, bạn ơi!
Rồi sự trách móc lên đến cao độ, biến thành những kết án sự bạc bẽo của người đàn ông đã nhẫn tâm giẫm đạp lên tính nhân bản của người yêu, xem người yêu như một đồ vật mua đi, bán lại, hoặc cần vất đi.
Huê tàn, bướm chẳng vãng lai,
Tình thương đã phụ, trúc mai kể gì!
Trách người quân tử vô danh,
Chơi hoa, xong lại bẻ cành bán rao.
Trách người quân tử bạc tình,
Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao.
Chơi hoa cho biết mùi hoa,
Khi tươi thì hái, khi tàn thì quăng.
Chửa được thì hứng bằng rá,
Đã được thì đá bằng chân.
Đã đến tận cùng của sức chịu đựng bằng cách khuyên lơn, phân giải, trách móc, người đàn bà dân dã đành biểu lộ hình thức đối kháng mạnh mẽ nhất trong lập trường chống đối của mình là đòi lại sự công bằng trong mối liên hệ lứa đôi qua sự khẳng định là mình cũng có bao nhiêu là người đàn ông khác thương yêu mình.
Chồng ăn chả, vợ ăn nem,
Anh ăn tôm tép, em ăn cá mè.
Chồng ăn chả, vợ ăn nem.
Phụ đây, đây chẳng có lo,
Cầu gãy còn đò, giếng cạn còn sông.
Sông sâu ngựa lội ngập kiều,
Dù anh có phụ còn nhiều nơi thương.
Ông ăn chả thì bà ăn nem,
Đứa ở có thèm mua bánh mà ăn.
Sông sâu nước chảy ngập kiều,
Dù anh có phụ, còn nhiều nơi thương.
Đứt dây nên gỗ mới chìm,
Bởi anh ở bạc, em tìm nơi xa.
Ngoài rượu chè, cờ bạc, trai gái là những thói hư gây ra không biết bao nhiêu là tai hại và đau khổ cho người đàn bà. Còn một tật xấu nữa mà người đàn bà, nhất là các bà vợ, phải chịu đựng: đó là thú hút xách, là sự đam mê á phiện của người đàn ông. Ở đây, cần phải có một xác định rõ ràng là trong xã hội cổ truyền, không phải đa số đàn ông Việt Nam đều hút xách. Chỉ có hai hạng người ham mê thuốc phiện: (1) một số những người giàu có, nhiều ruộng vườn, tiền bạc, và (2) giới trung lưu. Hạng người thứ nhất có đủ phương tiện để hưởng thụ thú vui của nàng phù dung, nhưng thường không còn màng đến sự hiện diện của người vợ của mình nữa. Hạng người thứ hai thường gây khổ đau cho gia đình nhiều hơn vì ngoài việc bỏ bê vợ con, còn không đủ phương tiện để cung ứng cho nhu cầu hút xách nên thường hành hạ vợ con, bắt phải phải kiếm cho ra tiền để họ thoả mãn nhu cầu á phiện. Hậu quả của nha phiến là làm tê liệt khả năng lao động bình thường của người đàn ông trong lúc người đàn ông lại là đơn vị sản xuất chính đem lại tài chính cho gia đình. Nhưng một khi đã đam mê nha phiến, người đàn ông chỉ còn biết mê mẫn bàn đèn và dọc tẩu.
Đối diện với người chồng nghiện ngập, người đàn bà thấy rõ là hết phương cứu chữa, nên thái độ của nàng là nói lên những lời châm biếm mang tính hài hước, nhưng chứa chất nhiều chua chát, đắng cay, và nhất là sự khinh bỉ.
Trai nam nhi, lược ngà, búi tóc,
Dây lưng thì nhuộm sắc hoa tiên.
Vui chơi xe lọ, ống tiêm,
Cái khay trắc khảm, ngọn đèn mờ xanh.
Có phen vui thú lều tranh,
Gối đầu bằng gạch, che manh chiếu buồm.
Chiếu bắt khom để mà che gió,
Thế rồi mang xe lọ dăng ra:
Nạo kỹ đến xái mười ba,
Quan tướng hút đỡ để mà cầm hơi.
Trông người như cái ma trơi,
Tóc xù, cổ ngẳng, nằm phơi xương sườn.
Hết thuốc, chúng bạn hết thương,
Vợ con cũng mất với nường phù dung.
Anh nằm, cầm ống, than với ngọn đèn hồng,
Tay anh lăn liều nhựa, chạnh lòng nhớ em.
Lấy gì làm thú giải phiền:
Cái xe, cái lọ, ngọn đèn, cái tăm.
Lấy chồng nghiện bằng tiên nho nhỏ,
Trông vào ngọn đèn sáng tỏ hơn sao.
Tay cầm tăm như Triệu Tử múa đao,
Thân vắt vẻo như Khổng Minh xem sách,
Tay luyện xái như Cao Biền luyện thạch,
Hơi thở như Gia Cát cầu phong.
Hết thuốc chạy rong như Tào Tháo bại trận Xích Bích.
Có thằng chồng ghiền như ông tiên nho nhỏ,
Tối lại vô mùng, đèn tỏ tợ sao.
Được thằng chồng ghiền như ông tiên nho nhỏ,
Gẫm lại thua buồn, tôi muốn bỏ ông tiên.
Nàng chỉ muốn bỏ ông tiên bởi vì
Bạn bè với ả phù dung,
Thân tàn ma dại, mặt xanh, nanh vàng.
Anh hút thuốc phiện cái môi thâm sì.
Thuốc phiện hết nhà, thuốc trà hết phên.
Hôm qua tới buổi anh ngáp dài,
Túng tiền mua nhựa, anh thế ngoài má ba.
Hút xách là chuyện chẳng lành,
Trâu bò, vườn ruộng hoá thành khói mây.
Những người nghiện ngập bê tha,
Hao tiền hại của, tin dùng làm chi!
Những người nghiện ngập bê tha,
Hao tiền, hại sức, người ta chê cười.
Ma tuý, “cơm trắng” hại anh,
Tan nhà, nát cửa, bần cùng khổ thân.
Rồi nghĩ đến thân phận phải gánh vác nợ nần thay cho chồng, người đàn bà thấy rõ là mình chẳng có cơ hội nào để chăm lo đến nhan sắc bản thân nên chỉ còn cách than vãn, trách móc, nhưng đành cam chịu số phận hẩm hiu của mình trong sự thiếu vắng tình yêu đối với chồng.
Anh thì bạn với ma men,
Anh thì bạn với ả phiền mà chơi.
Kỳ lương hết nhẵn tiền rồi,
Ra ngoài, công nợ nó đói như ri!
Một ngày ba bữa cơm đèn,
Lấy gì má phấn, răng đen, hỡi chàng!
Trách duyên, lại giận trăng già,
Xe tơ lầm lỗi hoá ra chỉ mành.
Biết ai than thở sự tình,
Chẳng qua mình lại biết mình mà thôi.
Lấy chồng gặp phải kẻ tồi,
Cho nên lòng những bồi hồi, đắng cay.
Cả ngày chỉ rượu sưa say,
Khi nay thuốc phiện, khi nay tài bàn.
Nói ra mang tiếng phũ phàng,
Nín đi thì não can tràng xiết bao!
Cũng thì phận gái má đào,
Người thì gặp đặng anh hào đảm đang.
Mình thì cũng dự phấn hương,
Gặp nơi lêu lổng, chẳng thương chút nào.
Nha phiến, một chất ma tuý, trong xã hội cổ truyền Việt Nam - thường có dạng thuốc phiện đen cần bàn đèn và dọc tẩu - thực ra không được phổ biến rộng rãi trong quần chúng bình dân lao động. Nó chỉ khá phổ biến trong giới tư sản, giàu có và giới trung lưu “dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm”. Người bình dân lao động thường lo việc đồng áng nặng nhọc, quần quật suốt ngày, có thì giờ đâu mà ham mê nha phiến. Nhưng ngày nay, ma tuý mang nhiều hình dạng khác nhau: thuốc phiện đen (opium) dùng để hút, thuốc phiện trắng (bạch phiến, heroin) dùng để hít, thuốc phiện đá (meth), thuốc phiện viên (mescaline, LSD) dùng để uống, thuốc lắc (ecstasy), v.v… do nhiều gian thương chế tác hoặc nhập cảng lậu vào Việt Nam. Giới tiêu thụ không còn là những người lớn hoặc trung niên như thời trước mà là những thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên hoan lạc trong các phòng trà, tửu điếm, có cơ làm phá sản cả một thế hệ tương lai của Việt Nam. Do đó, nha phiến đã trở thành mối nguy hại hàng đầu đối với tiền đồ của đất nước.
Các thói hư, tật xấu như rượu chè, cờ bạc, trai gái, hút xách thực ra ở nước nào cũng có, nhưng sự khác nhau là ở mức độ. Và mức độ lại tuỳ thuộc vào việc xã hội có dung túng, chấp nhận, hay đồng loã với những hành vi đó hay không. Những thói hư tật xấu của người đàn ông thường được người vợ khuyên lơn, ngăn cản, sửa sai. Nhưng ở Việt Nam, xã hội phủ nhận khả năng làm rào cản của người đàn bà bằng cách hạ thấp giá trị của họ với những quan điểm du nhập từ Trung Hoa như “Trọng [nặng] Nam, khinh [nhẹ] nữ.” Châu Huệ Tâm trong một bài viết4 đã biện minh cho quan điểm “trọng nam, khinh nữ” là không có ý nói nam giới cao quý và nữ giới thấp hèn, bằng cách lấy câu “Nam tôn, nữ ti” trong Kinh Dịch để cắt nghĩa là “tôn” có nghĩa là “cao” và “ti” có nghĩa là “thấp” đúng theo cái lí âm dương vận hành của vũ trụ, cũng như trời “cao”, đất “thấp” mà thôi. Cách cắt nghĩa này không có tính thuyết phục vì từ “trọng 重” ngoài ý nghĩa “nặng” còn có nghĩa “cao quý” và từ “khinh 輕” ngoài nghĩa “nhẹ” còn có nghĩa là “thấp kém”5. Ý nghĩa nam giới là cao quý và nữ giới thấp hèn càng được chứng minh rõ ràng hơn trong câu nói “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (Một người nam là có, mười người nữ là không). Sự khinh miệt người đàn bà đã cho phép người đàn ông có thái độ độc đoán trong mọi hành vi, cử chỉ, không xem lời nói hay hành động của người đàn bà là có giá trị.
Trước lối đối xử phân biệt giới tính bất công này, những người đàn bà chịu ảnh hưởng Nho giáo nặng (con nhà gia giáo) thường chịu đựng và khuất phục trước uy quyền của người đàn ông. Những người đàn bà dân dã không chịu khuất phục, nên thường khuyên lơn, can gián, ngăn cản, trách móc, kết án, và sau cùng là phản kháng, chống đối bằng lời nói lẫn hành động như chúng ta đã quan sát qua ca dao và tục ngữ. Tuy nhiên, những phạm trù luân lí thường được ấn định bởi giới trí thức, quan trường cho nên những đối kháng của những phụ nữ bình dân cũng chẳng khác nào những tiếng vang trong sa mạc. Nhưng thế giới càng ngày càng mở rộng và người ta nhận thức được rằng tiến bộ nhân văn của loài người nằm trong hai từ “công bằng”. Công bằng không những đem lại sự ổn định mà còn loại bỏ được những tệ đoan xã hội. Và công bằng chỉ có thể có được bằng giáo dục hướng dẫn tư duy của giới trẻ vào ý thức “ngay thẳng” (fair play) và bằng một hệ thống luật pháp trừng phạt “lối chơi không ngay thẳng” và tưởng thưởng hành động công bằng. Những can ngăn và đối kháng của người phụ nữ bình dân trong ca dao và tục ngữ là những vang vọng phản ánh những giá trị có thể làm cơ sở cho giáo dục và luật pháp.
Tiểu Thạch Nguyễn văn Thái
North Wales, Pennsylvania
Ngày 5 Tháng 7 Năm 2022
_________________________________________________________
CHÚ THÍCH
1Giáo Sư Ngô văn Lại: http://khaiminh.org/ngo_van_lai/minh_tam_bao_giam_01.htm:
Sách Minh Tâm Bửu Giám do Thu Quát (秋适 1245 - 1317), do một người Triều Tiên gốc Hoa biên soạn vào cuối thế kỉ 13. Sách gồm có 260 câu, 19 thiên, được phổ biến rộng rãi như là tài liệu giáo khoa tại Triều Tiên. Đến cuối thế kỉ 14, cháu nội của Thu Quát là Thu Suyền (秋湍) trở về quê tổ và phổ biến Minh Tâm Bửu Giám tại Trung Hoa. Phạm Lập Bản (范立本) khai triển sách thành 600 câu và 20 thiên. Từ đó sách được điều chỉnh, bổ sung nhiều lần, nhất là vào thời Vạn Lịch (Niên hiệu của vua Minh Thần Tông 明神宗, 1573 - 1619). Minh Tâm Bảo Giám được phổ biến rộng rãi trước đây ở các nước đồng văn Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, phần lớn dựa theo bản Vạn Lịch.
Sách Minh Tâm Bảo Giám đã được Trương Vĩnh Ký (1837 - 1898) dịch ra Việt ngữ từ cuối thế kỷ XIX. Sang thế kỷ XX có thêm các bản dịch của Tạ Thanh Bạch, Ðoàn Mạnh Hy, Nguyễn Quốc Ðoan, vv…
2 Nhiều học giả cắt nghĩa “tài” là tiền tài trong ý nghĩa ham mê cờ bạc và “khí” là nghiện thuốc phiện, đam mê hút chích:
- https://meovatcuocsong.vn/tu-do-tuong-la-gi.html
- https://docbao.vn/hoi-dap/tu-do-tuong-la-gi-tai-sao-goi-la-tu-khoai-ma-khien-bao-gia-dinh-phai-tan-nha-nat-cua-tintuc638044
- https://muahangdambao.com/tu-do-tuong-la-gi/
- https://ruaxetudong.org/tu-do-tuong-la-gi/
- https://wikicachlam.com/tu-do-tuong-la-gi/
3 “đổ 堵” : tường cao năm bản (bản gỗ thời xưa được dùng như là mức đo lường); “tường 牆 : tường xây bằng gạch. Đặng Thế Kiệt, Từ Điển Hán Việt Trích dẫn. http://vietnamtudien.org/hanviet/ . “Tứ đổ tường” là bốn bức tường bằng gạch ( tửu, sắc, tài, khí) được xây lên cao bao vây con người không cho thoát ra.
4 Châu Huệ Tâm, “Nguồn gốc của Thành ngữ “Nam tôn, nữ ti” (“Trọng Nam, khinh nữ”).
https://kinhnghiemquy.com/tam-su/nguon-goc-cua-thanh-ngu-nam-ton-nu-ti-trong-nam-khinh-nu-2278.html
5 Đặng Thế Kiệt, Từ Điển Hán Việt Trích dẫn. http://vietnamtudien.org/hanviet/