"Đem đại-nghĩa để thắng hung-tàn. Lấy chí-nhân mà thay cường-bạo." ** Bình Ngô Đại-Cáo **


Nhiễm Độc Kim Loại Nặng

Heavy Metal Toxicity

Định bịnh nhiễm độc kim loại nặng chính xác phức tạp, cần bác sĩ truy tầm về dịch học, bịnh học, thử nghiệm khá phức tạp thì mới đi đến kết luận là một người cá biệt nào đó thật sự bị nhiễm kim loại nặng, và nhiễm kim loại nào, và chữa trị phù hợp cho kim loại đó. Nếu không thì chỉ làm cho bịnh nhân lo lắng thêm mà thôi.

Đây là một lãnh vực còn nhiều tranh tối tranh sáng nên bịnh nhân không nên quà dễ tin, cẩn thận trước khi tin tưởng các quảng cáo, và quyết định dùng những biện pháp trị liệu tốn kém, hoặc không cần thiết.

Tôi chỉ xin trình bày một số điểm đáng quan tâm để chúng ta ý thức thêm về vấn đề. Vì đây là một loại bịnh mà các giới ngoài y khoa thường nhắc tới, nhất là những hãng bán vitamin, thuốc bổ. Bịnh nhân nếu có những triệu chứng chung chung không khoẻ,bứt rứt , bác sĩ khám nghiệm chưa giải thích, định bịnh thoả đáng thì dễ bị người khác gán cho định bịnh là “nhiễm độc kim loại nặng”.

Ví dụ ở Mỹ bác sĩ phòng cấp cứu thỉnh thoảng mới phải giải quyết các trường hợp ngộ độc sắt hay chì (iron or lead poisoning). Các biện pháp bảo vệ môi trường thường khắc khe đối với kỷ nghệ xây dựng nhà cửa hay sản xuất. Giới khoa học ưu tư về bảo vệ môi trường nhắc tới nhiều những vùng như Trung quốc, Việt Nam, Ấn độ, Bangladesh nơi mà các công nghệ chế biến đang gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Khác với những xứ phương Tây, nhiễm kim loại nặng là một đe doạ thường trực và thật sự cho người dân ở các nước chung quanh Việt nam. Gần đây, việc tái chế biến các máy móc điện tử ở Trung quốc và Đông Nam Á là một nguyên nhân quan trọng gây ngộ độc do kim loại nặng. Công việc làm manh mún, không có cơ chế bảo vệ lao động làm trẻ em dễ thành nạn nhân và sự phát triển của chúng bị ảnh hưởng nặng nề và thường gặp.

heavymetal - 1

Fig 1:Trẻ em dễ thành nạn nhân và sự phát triển của chúng bị ảnh hưởng nặng nề.

(Eco-business)

“Kim loại nặng” là gì?

Là những kim loại có tỷ trọng (specific gravity) trên 4-5 (nặng hơn nước 4-5 lần) và có tác dụng độc cho cơ thể. Đây chỉ là một định nghĩa đại khái, vì không phải kim loại nặng nào cũng độc, kim loại độc nào cũng nặng , và không phải càng nặng thì càng độc.

4 kim loại nặng thường được nhắc đến là

  • chì (lead) : (ói mữa, tiêu chảy, viêm óc,tiểu đường bịnh da, ung thư da)
  • thuỷ ngân (mercury): ói mữa, tiêu chảy, lở miệng, viêm thận (nephrotic syndrome), run rẫy, yếu đuối.
  • arsenic: ói mữa, tiêu chảy, viêm óc,tiểu đường bịnh da, ung thư da
  • và cadmium (viêm phổi, bịnh thận, tiểu ra protein, bịnh xương (osteomalacia) .)

buồn nôn,viêm óc, viêm dây thần kinh, thiếu máu, mõi mệt, trẻ em chậm phát triển)

1) Ngộ độc chì (lead poisoning, plumbism)

  1. Chì (lead) rất phổ biến trong môi trường sống của những xã hội kỹ nghệ hóa. Trước cuộc cách mạng kỹ nghệ (industrial revolution) xảy ra cách đây mấy trăm năm, có thể chúng ta chỉ chứa chừng 2 milligram chì, hiện nay thì trung bình lượng chì trong cơ thể chúng ta cao gấp 100 lần. Chì hầu như ở khắp nơi: Chỉ mới gần đây thôi, xăng chạy xe hơi đều có chì rất nhiều, nay thì phần lớn được thay thế bằng xăng không có chì (lead-free gasoline). Do đó khói xe hơi xịt một lớp bụi chì khắp nơi, nhất là những vùng dọc theo các trục lộ giao thông chính có xe cộ lưu thông nhiều. Sự ô nhiễm này có lẽ đã giảm, tuy nhiên lượng chì lẫn trong đất vẫn còn đó tuy chỉ trong không khí có giảm đi. Nguồn ô nhiễm thứ là là các lớp sơn của những ngôi nhà cũ, xây cách đây trên 30-40 năm. Những lớp sơn này có lượng chì rất cao. Lâu ngày sơn rã ra rơi xuống đất. Các cháu bé 7-8 tháng bò la bò lết, bạ gì ăn ấy, vô tình nuốt vào bụng một lượng chì đáng kể.
  2. Một số điểm chúng ta cũng nên để ý tránh ngộ độc chì :
  • Ở Mỹ, từ năm 1985, chì không còn được dùng chế mực in báo nữa. Tuy nhiên sờ vào, hoặc đốt lò sưỡi sách báo cũ hơn vẫn có thể làm nhiễm độc chì. Một số gỗ vẫn có sơn cũ có thể có chì và cũng không nên dùng làm củi đốt; lúc sửa nhà cửa nếu là lớp sơn rất cũ phải cạo ra, nên dọn dẹp cẩn thận.
  • Trong quá khứ, một số nơi trên thế giới người ta lén cho chì vào rượu để làm cho rượu ngọt, và những người đó bị trừng trị rất nặng nề.
  • Hiện nay, một số rượu thuốc ở Trung quốc cũng như một số thuốc cổ truyền vẫn thịnh hành ở Trung Ðông (Middle East) đều có chứa một lượng chì đáng kể, nhất là ở Trung Ðông ngộ độc chì vẫn xảy ra thường xuyên ở trẻ em vì những món thuốc gia truyền đó. Nhất là đối với trẻ em, nếu không hiểu thuốc xuất xứ ở đâu và chứa những gì, tốt hơn hết nên tránh vì có thể lợi không bằng hại.
  1. Một nguồn gốc ngộ độc chì khác là các chén bát, bình chứa bằng đồ gốm tráng men có chì (lead-glazed pottery). Nói chung những đồ gốm nhập cảng vào Mỹ phần lớn phải đáp ứng một số tiêu chuẩn tối thiểu về chất lượng nào đó, tuy nhiên một số đồ gốm trên thị trường được sản xuất ở nội địa Trung Hoa hoặc ở Mexico tại những lò gốm nhỏ không đúng tiêu chuẩn quốc tế.
  2. Một số làng miền Bắc VN vẫn sống bằng nghề khai thác các bình ắc qui (car battery) để lấy chì bán. Trong những làng này, khói chì bay mù mịt suốt ngày đêm, đến đổI ngườI ta phảI thay phiên nhau làm ca đêm và ngày cho đỡ tốI và ngộp. Các triệu chứng dị dạng trẻ sơ sinh và bịnh lý ngườI lớn do ngộ độc chì xảy ra rất thường, Hiên nay, ở VN đã bắt đầu dùng xăng không chì, hy vọng đây sẽ là một yếu tố giảm chì trong môi trường,ngược lạI, do kỹ nghệ hóa gấp rút, các hình thức ô nhiễm môi trường khác sẽ tăng .(1)
  3. Năm 2009, 2000 trẻ em Trung quốc bị ngộ độc chì do sống gần các lò nấu chì, gây nên một số bạo động trong quần chúng phản đối.
  4. Theo báo Nhân Dân ,trong 3-4 tháng đầu năm 2012, có đến 80 trẻ em nhiễm độc chì được đem vào điều trị ở Bịnh Viện Bạch Mai, nguyên nhân là dùng thuốc cam bôi trị tưa lưỡi, với triệu chứng tương tự như việm họng, viêm não. (2)

    heavy metal - 2

Fig 2 :Nguồn chính gây nhiễm độc chì là các sơn cũ có chì tróc ra và bụi bặm có chứa chì. Trẻ em biết bò , mới biết đi gở các vảy sơn, hoặc cho tay dính bụi có chì cho vào miệng. Ở Mỹ trẻ con ở nơi có cơ nguy nhiễm chì, gia đình lợi tức thấp (hưởng medicaid là bảo hiểm sức khoẻ cho gia đình nghèo) được theo dõi mức chì trong máu (Blood lead level).

2) Ngộ độc thuỷ ngân (mercury)

Năm 1961, tại Vịnh Minamata, Nhật bản, bị ô nhiễm môi trường do kỹ nghệ ,một số dân chúng bị mắc những chứng thần kinh như: tay chân run (tremors), mất cảm giác(sensory loss), mất thăng bằng, mất phối hợp củ động (ataxia), tầm nhìn mắt bị giới hạn (thị trường bị co rút lại / constriction of visual field). Những người Nhật này từng ăn cá rất nhiều. Nếu mẹ bị ngộ độc lúc có thai, phát triển của óc thai nhi bị ảnh hưởng và trẻ sơ sinh có thể bị những chứng giống như liệt não (cerebral palsy), bị điếc, bị mù hoặc đầu quá nhỏ (microcephaly), lớn lên thì tâm trí phát triển chậm.

Riêng tại Mỹ, ăn cá vẫn là yếu tố quan trọng nhất làm chúng ta có thể bị ngộ độc methyl mercury. Phải khẳng định cá là một nguồn dinh dưỡng quan trọng trong một thực đơn quân bình . cá cung cấp những protein có chất lương cao, những chất mỡ, vitamin có ích khác, nhưng theo FDA’’lượng cá và loại cá bạn ăn cần được thay đổI’’ nếu bạn thuộc về những nhóm dê bị nguy (‘’at risk’’): phụ nữ đang có bầu, đàn bà trong tuổi có thể có bầu hoặc là trẻ em nhỏ tuổi.

Trường hợp ngộ độc do tiếp xúc trực tiếp với kim loại thuỷ ngân (metallic, elemental mercury) ít khi gặp hơn. Ở nhiệt độ bình thường, thuỷ ngân là một kim loại ở thể lỏng, lóng lánh, sáng, dễ bốc hơi,phát ra một loại khí gọi là “hơi thuỷ ngân” (mercury vapor).

Ngộ độc do hít thở hơi thuỷ ngân có thể gây độc cho hệ thần kinh trung ương, các dây thần kinh, hệ tiêu hoá, phổi, thận, hệ miễn nhiễm, và có thể gây chết người, nhất là trẻ em.

Thuỷ ngân từ các dụng cụ y khoa như máy đo áp huyết, ống thuỷ đo nhiệt độ là một nguồn ô nhiểm nước thải, xuất phát từ các bịnh viện. Trường hợp cụ thể, chúng ta gặp hơi thuỷ ngân từ những lượng thuỷ ngân nhỏ từ các dụng cụ nhỏ trong nhà. Một ống thuỷ thường chứa không tới 4 gram và đèn ống (fluorescent, tiết kiệm điện hơn các đèn có tim cháy) chứa chừng 4mg thuỷ ngân.

heavy metal - 3

Fig 3; Nếu ống thuỷ bị bễ (vỡ), phải cẩn thận hốt thuỷ ngân mà không dùng máy hút bụi và tránh không cho trẻ con tiếp xúc với hơi thuỷ ngân (mercury vapor).

Những việc cần tránh:

  1. không dùng tay không sờ vào thuỷ ngân
  2. không dùng máy hút bụi hút, làm thuỷ ngân và hơi phân tán ra
  3. không bỏ vào thùng rác, vì thuỷ ngân là chất phế thải nguy hiểm (hazardous waste) (có thể không thực hiện được ở Việt nam)
  4. không bỏ vào ống cống, ống nước thành phố.
  5. không dùng bàn chải hốt , quét thuỷ ngân
  6. áo quần mặc lúc dọn dẹp thuỷ ngân phải bỏ vào bao plastic khằn kín, bỏ đi,không cho vào máy giặt

3) Cadmium được dùng nhiều trong kỹ nghệ: tráng bằng điện (electroplating), sơn kỹ nghệ, pin điện. Khoí toả ra trong kỹ nghệ hàn có thể làm thợ hàn ngộ độc nếu không được bảo vệ trong môi trường làm việc. Đất đai, nước và lúa (từng xảy ra ở Nhật) mọc trong vùng ô nhiễm đều có thể gây độc cho người.

3) Ngộ độc do arsenic ( thạch tín, asen) ((ói mữa, tiêu chảy, viêm óc,tiểu đường bịnh da, ung thư da): Ở Bangladesh và một số nơi khác trong lục địa Án độ, xảy ra nhiều dịch ngộ độc arsenic do uống nước giếng đào thật sâu dưới lòng đất để tránh những mặt nước nông hơn bị nhiễm trùng. Tuy nhiên những mặt nước sâu này nằm gần những vùng đất đá chứa nhiều arsenic.

Ở Việt nam, arsenic là một đe doạ lớn cho nước uống, nhất là nước giếng ống,nông (shallow tube-wells) do chính phủ khuyến khích đào (1996-2000). Hàm độ arsenic cao do đất chứa nhiều arsenic, cọng thêm arsenic do thuốc diệt sâu bọ dùng trong nông nghiệp. Mức arsenic trong nước dùng ăn uống và tưới cây có thể cao đến 300 lần mức an toàn theo khuyến cáo của Tổ chức y tế quốc tế (WHO), 60 cao hơn mức chính phủ VN quy định (50 microgram/lit).(3)

Theo tài liệu của ĐH Harvard, chừng 10 triệu người ở miển bắc VN (kể cả thành phố Hà Nội), nửa triệu cho đến 1 triệu người trong đồng bằng sông Cửu Long có thể bị nguy cơ ngộ độc mãn tính arsenic. Vì các dấu hiệu ngộ độc thạch tín mãn tính chỉ xuất hiện sau khi nhiễm độc cả chục năm, người ta tiên đoán trong những năm tới các bịnh này sẽ xuất hiện nhiều hơn hiện nay (2006).

(‘The population at risk of chronic arsenic poisoning is estimated to be 10 million in the Red River delta and 0.5–1 million in the Mekong delta”) (4)

Năm 2013, một nghiên cứu mới công bố trên báo khoa học Nature xác nhận nguy cơ nhiễm arsenic vùng chung quanh Hà nội. Do giới hạn của hệ thống nước máy cung cấp nước được lọc sạch, dân chúng một số nơi xa trung tâm như làng Vạn Phúc chuyên về ngành tơ phải dùng nước giếng để uống và nấu ăn. Trước đây lớp nước (aquifer) cung cấp nước cho những giếng sâu này không nhiễm arsenic, nhưng gần đây do dân chúng có nhu cầu tăng vọt và bơm nước quá nhiều, arsenic từ những trầm tích (sediments) kế cận bị lôi cuốn và ngấm vào nước giếng, làm mưc arsenic có thể 10-300 lần cao hơn mức an toàn cho phép của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).(5)

heavy metal --- 4

Fig 4: Làng Vạn Phúc chuyên về ngành tơ phải dùng nước giếng để uống và nấu ăn

Tài liệu tham khảo:

(1) “Làng nhiễm chì” dưới chân núi Phja Khao

http://www.sggp.org.vn/SGGP12h/2007/6/103138/

(2) (http://www.nhandan.com.vn/cmlink/nhandandientu/thoisu/suc-khoe/coi-ch-ng-tr-b-nhi-m-c-chi-do-dung-thu-c-1.340147)

(3) Ly, Thuy M., "Arsenic Contamination in Groundwater in Vietnam: An Overview and Analysis of the Historical, Cultural, Economic, and Political Parameters in the Success of Various Mitigation Options" (2012). Pomona Senior Theses. Paper 41. http://scholarship.claremont.edu/pomona_theses/41

(4) Berg, M. and al, “Magnitude of arsenic pollution in the Mekong and Red River Deltas — Cambodia and Vietnam”

http://users.physics.harvard.edu/~wilson/arsenic/references/Mekong_Red_river_pollution.pdf

(5) Video của đài truyền hình Úc phỏng vấn ông Pham Hung Viet của trường ĐH Hà Nội về bài báo khoa học này.

http://www.abc.net.au/news/2013-10-24/study-reveals-arsenic-laden-water-in-vietnam-wells/5044654

Bác sĩ Hồ văn Hiền

Hien V. Ho, MD, FAAP)

Ngày 9 tháng 11 năm 2013