Thơ Hiện Tại
Kỳ 1:
Joan Barrett Roberts
Margaret Atwood
Yehuda Amichai
* * *
Thi ca không có phân biệt màu da, sắc tộc, tôn giáo, học vấn, địa vị xã hội...nhưng có biên giới ngôn ngữ.
Ngôn ngữ có thể so sánh, có thể đồng dạng, có thể mang chung ý nghĩa nhưng vô cùng khác nhau ở cá tính. Dịch thuật không bao giờ có thể đạt được nguyện vọng và hoàn tất mục đích vì không cách nào chuyển dịch được cá tính của một ngôn ngữ.
Cá tính của một ngôn ngữ là cá tính của một dân tộc, của tích lũy lịch sử thăng trầm, của vận mạng đất nước, của hàng tỷ tỷ sinh hoạt chi li hàng ngày mà tự động tự nhiên thành hình.
Trên văn bản thơ, cá tính ngôn ngữ thể hiện trong cấu trúc của câu cú và cách sử dụng nghĩa bóng, nghĩa rộng, nghĩa mới của một chữ thông dụng.
Trong tinh thần thơ, cá tính ngôn ngữ thể hiện bản chất, tính tình và thói quen chung của dân tộc.
Tính yếu của thơ là chữ nghĩa, là tinh hoa của ngôn ngữ nhưng thẩm mỹ của thơ vượt ra ngoài ngôn ngữ để kết hợp chung với cái đẹp của đời sống.
Một thi sĩ dâng hiến cái đẹp, dù tài danh cách mấy cũng bị giới hạn trong một đời người và khả năng làm người của thi sĩ, do đó cái đẹp có tính cá biệt.
Dịch thuật chẳng những không dịch được cá tính ngôn ngữ, còn đành phải chịu thua thẩm mỹ cá biệt của mỗi thi sĩ, nhất là thi sĩ bất tử.
Làm thơ chưa hẳn là thi sĩ. Thi sĩ phải sống trong sâu thẳm của sáng tạo và suy tư về một cách diễn đạt thơ có sức sống lâu dài. Một thi sĩ chân chính thà sống như một bài thơ hơn là làm thơ. Và đa số thường không quan tâm về tên gọi thi sĩ.
"Thi-sĩ-hiện-tại" là người bị vây khốn bởi cá tính ngôn ngữ, bởi thẩm mỹ cá biệt, bởi khả năng làm người, bởi bệnh tật và chết chóc. Cùng một lúc ý thức rõ rệt về sáng tác, sáng tạo, về những thẩm mỹ thơ cá biệt khác, về những giá trị thơ do cá tính ngôn ngữ khác hiện hữu.
Ý thức được cái không có, cái có thể có và cái không thể có, tạo thành sự mâu thuẫn, dằn vặt. Tạo ra một tâm lý vừa hối hả với thơ trong thời giờ giới hạn vừa thận trọng trong giới hạn của khả năng, với khao khát vượt lên cá tính ngôn ngữ để gia nhập vào thẩm mỹ chung của nhân loại.
Thơ-hiện-tại thành hình như vậy.
Nói về thơ không sao rõ bằng thơ tự nói. Hãy để những thi sĩ sinh ra trong thế kỷ 20, họ mới vừa qua đời hoặc còn đang sống giữa chúng ta, nói cho chúng ta biết về thơ hôm nay. Họ là những thi sĩ hiện đại và hiện tại.
* * *
Joan Barrett Roberts
( Thi sĩ Hoa Kỳ. Hiện tại )
Bà là một nghệ sĩ tài hoa với nhiều khả năng diễn đạt nghệ thuật: Thơ, văn, truyện, nhiếp ảnh, âm nhạc và lý thuyết. Bà dạy đại học và làm những công việc liên quan về giáo dục.
Năm 2006, bà sáng lập Shadowleaves Company (facebook.com/ shadowleavs).
Hiện đang về hưu tại Ozarks, hồ Ann tại Bella Vista, tiểu bang Arkansas, USA.
Xuyên Qua Cửa Mở
em
mơ
về anh
mặc kệ
những lời
anh
nói
một chữ ẩn tình lạ lẫm
phơi bày nỗi thầm tư
che giấu trong bó hoa hồng
đỏ tươi bởi gai đêm bật máu
toan tính anh tan vỡ
theo những dòng sông chảy ngược bờ
em mơ về anh
mặc kệ những lời anh nói
như chỉ ngày mưa thôi
trong tháng Mười yên tĩnh...
giấc mơ em cao ngất
nơi lửa cháy một ngày tử sinh
nhịp tim anh lãng đãng trong gió
em bay theo....
qua cánh cửa mở
lơ là những giây phút dư thừa
trong cõi hồn người ta hiếu động
tình em yêu thật sự vô bờ
trừ phi anh tự do
để hiểu
em
mơ
về
anh
mặc kệ
những lời
anh
nói
( Trích The dVerse Anthology. Voices of Contemporay World Poetry, trang 21.)
Through an Open Door
I
dream
of
you
regardless
of
what
you
say
Your new one word storyline
reveals a secret
hidden among the roses
red bleeding from night thorns
your whishes shattered
where rivers flow against the shores
I dream of you
regardless of what you say
it's only a rainy day
a quiet time in October...
aloft in my dreams
where deadly day-fires grow
your pulse lingers in the wind
will
I follow
through the open door
over looked moments unspent
among our restless souls
my true love knows no limits
unless you are free
to be
I
dream
of you regardless
of
what
you
say
* * *
Margaret Atwood
( Thi sĩ Gia nã Đại. 1939 - Hiện tại.)
Bà sinh tại Ottawa, Ontario, Canada, năm 1939. Lên bảy tuổi, dọn về Toronto. Tốt nghiệp đại học Toronto rồi lấy bằng cao học ở Raddiffe College, massachusetts, năm 1962.
Bà làm thơ, viết truyện ngắn, nghiên cứu, viết cho phim ảnh, viết cho phát thanh và viết cho nhi đồng. Bà làm chủ tịch hội Văn Bút Canada 1984-1986.
Anh và Em tâm Đầu Ý Hợp
Đôi ta tâm đầu ý hợp
như lưỡi câu móc vào tròng mắt
Một lưỡi câu cá
Một tròng mắt mở
You Fit Into Me
You fit into me
like a hook into an eye
A fish hook
An open eye
Tấm Hình Của Tôi
Tấm hình chụp khá cũ.
Mới nhìn thấy giống như
một bản in
mờ: nét không rõ, nhiều lốm đốm xám
trải khắp hình;
rồi nếu bạn in lại
sẽ thấy nơi góc trái
hình dạng như nhánh cây: một phần
cây ( Bóng Nước hoặc Vân Sam) lấn vào
còn bên phải, ở lưng chừng
chắc phải là cái dốc
thoai thoải, thấy căn nhà tiền chế.
Phía sau, có hồ nước,
xa hơn, có vài ngọn đồi con.
( Hình chụp
một ngày sau khi xém chết đuối.
Tôi bơi trong hồ, giữa
hình, thấp hơn một chút dưới mặt nước.
Khó nói chính xác
nơi nào hoặc nói
tôi mập hay ốm:
qua lăng kính nước
ánh sáng làm biến dạng
nhưng nếu bạn nhìn lâu đủ,
trước sau gì
sẽ tìm thấy tôi.)
This Is A Photograph Of Me
It was taken some time ago.
At first it seems to be
a smeared
print: blurred lines and grey flecks
blended with the paper;
then, as you scan
it, you see in the left-hand corner
a thing that is like a branch: part of a tree
(balsam or spruce) emerging
and, to the right, halfway up
what ought to be a gentle
slope, a small frame house.
In the background there is a lake,
and beyond that, some low hills.
(The photograph was taken
the day after I drowned.
I am in the lake, in the center
of the picture, just under the surface.
It is difficult to say where
precisely, or to say
how large or small I am:
the effect of water
on light is a distortion
but if you look long enough,
eventually
you will be able to see me.)
Bài Ca Của Thần Nữ Điểu (*)
Bài ca này, mọi người
đều muốn học: bài ca
mê sảng nhân tâm:
bài ca giục giã đàn ông
lên thuyền vượt biển
dù thấy bãi đến đầy đầu lâu.
bài ca không ai biết
vì những ai đã nghe
đều chết, kẻ còn lại không nhớ.
Có nên kể bạn nghe điều bí ẩn
nếu tôi kể, bạn có giúp tôi thoát thân
ra khỏi xác chim kỳ quái?
Tôi chẳng có gì vui
ngồi xổm trên đảo này
ngắm cảnh đẹp và hoang tưởng
với hai chị chim điên,
Tôi không thích hót
chung với họ, hãm hại dù ca hay.
Kể bạn nghe điều bí ẩn
chỉ một mình bạn thôi.
Xin hãy đến gần. Bài ca này
kêu cứu: " Cứu tôi với!
chỉ có bạn , chỉ có bạn mới giúp,
bạn là người duy nhất
không còn ai." Than ôi
một bài ca xoàng xỉnh
vậy mà lần nào cũng thành công.
(*) Sirens là ba vị thần nửa chim nửa đàn bà trong thần thoại Hy lạp. bài ca của họ thu hút đàn ông vượt biển về hoang đảo chịu chết. Bài ca kêu gọi lòng thương xót: Cứu tôi với. Bài thơ của một trong ba nữ điểu.
Siren Song
This is the one song everyone
would like to learn: the song
that is irresistible:
the song that forces men
to leap overboard in squadrons
even though they see the beached skulls
the song nobody knows
because anyone who has heard it
is dead, and the others can't remember.
Shall I tell you the secret
and if I do, will you get me
out of this bird suit?
I don'y enjoy it here
squatting on this island
looking picturesque and mythical
with these two faethery maniacs,
I don't enjoy singing
this trio, fatal and valuable.
I will tell the secret to you,
to you, only to you.
Come closer. This song
is a cry for help: Help me!
Only you, only you can,
you are unique
at last. Alas
it is a boring song
but it works every time.
Sự Biến Dạng của Từ Ngữ " Ngủ"
Em muốn được canh chừng anh đang ngủ,
việc này có lẽ không xảy ra.
Em muốn nhìn thấy anh,
khi đang ngủ. Em muốn ngủ
với anh, để lén vào
cõi anh như ngọn sóng thần kỳ thú vị
lướt qua tâm trí em
rồi cùng nhau băng qua khu rừng
ánh sáng trên lá xanh xao động
bởi đẫm sương trong nắng với ba mặt trăng
đi đến hang sâu nơi anh phải leo xuống
đối diện với sợ hãi khôn cùng
Em muốn tặng anh một cành bạch ngân,
một đóa hoa trắng nhỏ,
một lời thần chú bảo vệ anh
thoát khỏi khổ sầu khi rơi giữa chiêm bao,
từ nơi tâm điểm sầu đau
một lần nữa em theo anh leo cao lên thang cấp
rồi hóa thân thành chiếc thuyền
chèo anh về lại an toàn,
bưng trên tay một ngọn lửa
đưa đến nơi thân xác anh nằm
bên cạnh em, rồi khi anh đi vào
dễ dàng như hít một hơi thở
Em muốn được làm dưỡng khí
giúp anh sống giây phút phù du
Em muốn điều cần thiết này
không ai biết.
Variation on the Word Sleep
I would like to watch you sleeping,
which may not happen.
I would like to watch you,
sleeping. I would like to sleep
with you, to enter
your sleep as its smooth dark wave
slides over my head
and walk with you through that lucent
wavering forest of bluegreen leaves
with its watery sun & three moons
towards the cave where you must descend,
towards your worst fear
I would like to give you the silver
branch, the small white flower, the one
word that will protect you
from the grief at the center
of your dream, from the grief
at the center I would like to follow
you up the long stairway
again & become
the boat that would row you back
carefully, a flame
in two cupped hands
to where your body lies
beside me, and as you enter
it as easily as breathing in
I would like to be the air
that inhabits you for a moment
only. I would like to be that unnoticed
& that necessary.
* * *
Yehuda Amichai
( Thi sĩ Do Thái. 1924- 2000.)
Ông chẳng những dẫn đầu trong nhiều thế hệ thi ca Do Thái, ông còn được xem là một trong những thi sĩ hàng đầu của thế giới kể từ giữa thập niên 1960.
Nhận lãnh nhiều giải thưởng văn học và thi ca như Shlonsky Prize 1957, Brenner Prize 1969, Blalik Prize 1976, Israel Prize 1982, Giải thi ca quốc tế 1994, Malraux Prize 1995......
Thế chiến thứ hai, ông tình nguyện tòng quân vào lực lượng bộ binh Anh Quốc. Giải ngủ 1946. Theo học đại học ở Jerusalem. Xuất bản tác phẩm đầu tiên Not of This Time, Not of This Place năm 1963.
Bài thơ mà ông đọc trong buổi lễ giải Nobel Hòa Bình của thủ tướng Do Thái Yitzhak Rabin 1994, đã được chưng bày trên tường trong bảo tàng viện tại thủ đô Tel Aviv. Người ta dựng tên đường cho ông ở nhiều thành phố Do Thái và Wurzburg.
Ông qua đời bệnh ung thư năm 2000. Thọ 76 tuổi.
Học Đôi Điều Qua Chiến Tranh
Tôi học đôi điều qua chiến tranh:
Diễn hành đúng lúc tay vung chân bước
Như máy bơm trong giếng cạn vận hành.
Bước đều hàng ngang chiếm vị trí giữa,
Vùi đầu vào gối, nệm lông, thân thể tình nhân,
Rồi gào " Mẹ ơi," khi bà không nghe được,
Rồi thét " Chúa ơi," dù không còn đức tin,
Cho dẫu tôi có lòng tin vào Chúa
Không oán trách ngài cho phép chiến tranh
Như không kể chuyện người lớn kinh hoàng cho trẻ biết.
Học gì nữa, học dự trù đường lối rút lui.
Thuê khách sạn khi vào quốc gia lạ
Gần ga tàu lửa hoặc cạnh sân bay.
Ngay cả trong phòng tổ chức đám cưới
Luôn luôn canh chừng cánh cửa tầm thường
Có bảng "Exit" chữ màu đỏ.
Trận chiến bắt đầu
Bằng điệu trống nhịp nhàng dùng nhảy múa rồi chấm dứt
Với câu " rút lui lúc bình minh." Từ bỏ ái tình
Rồi chiến đấu, đôi khi cả hai kết thúc như vậy.
Nhưng trên hết, tôi học sự khôn ngoan ngụy trang,
Đừng quá nổi bật, đừng để nhận diện,
Đừng tách xa đám đông chung quanh,
Cho dù họ không phải người thân thuộc.
Để lầm tưởng tôi là bụi rậm hoặc chiên cừu,
Một thân cây hoặc một bóng cây,
Một nghi vấn hoặc một nghi ngờ về nghi vấn,
Một hàng rào lung lay hoặc một tảng đá nằm im,
Một ngôi nhà hoặc một góc phòng nhỏ.
Nếu biết tiên tri, tôi tắt bớt hào quang hoang tưởng
Dùng giấy đen che tin tưởng tối dần
Rồi bao bọc phép mầu bằng màn vải.
Khi giờ tôi đã điểm, sẽ trùm lên y phục ngụy trang màn cuối:
Màu trắng của mây và nhiều xanh da trời
Với tinh tú ngân hà vô tận.
What Did I Learn In The Wars
What did I learn in the wars:
To march in time to swinging arms and legs
Like pumps pumping an empty well.
To march in a row and be alone in the middle,
To dig into pillows, featherbeds, the body of a beloved woman,
And to yell "Mama," when she cannot hear,
And even if I did believe in Him
I wouldn't have told Him about the war
As you don't tell a child about grown-ups' horrors.
What else did I learn. I learned to reserve a path for retreat.
In foreign lands I rent a room in a hotel
Near the airport or railroad station.
And even in wedding halls
Always to watch the little door
With the "Exit" sign in red letters.
A battle too begins
Like rhythmical drums for dancing and ends
With a "retreat at dawn." Forbidden love
And battle, the two of them sometimes end like this.
But above all I learned the wisdom of camouflage,
not to stand out, not to be recognized,
Not to be apart from what's around me,
Even not from my beloved.
Let them think I am a bush or a lamb,
A tree, a shadow of a tree,
A doubt, a shadow of a doubt,
A house, a corner of a house.
If I were a prophet I would have dimmed the glow of the vision
And darkened my faith with black paper
And covered the magic with nets.
And when my time comes, I shall don the camouflage garb of my end:
The white of clouds and a lot of sky blue
And stars that have no end.
( Translated by Benjamin Harshaw and Barbara Harshaw.)
Một Người Trong Cõi Sống Riêng
Một người không có giờ để sống
lại có giờ cho nhiều thứ nhiêu khê.
Hắn có bao nhiêu mùa mới đủ
mỗi mùa thực hiện mỗi mục tiêu.
Cổ kinh Do Thái viết điều này lầm lẫn.
Hắn biết yêu biết hận cùng một lần,
biết cười biết khóc cùng đôi mắt,
gom đá, ném đá cùng một tay,
tranh cãi khi yêu, yêu khi tranh cãi.
Biết hận thù biết tha thứ biết thương nhớ biết lãng quên,
biết sắp xếp biết bối rối, biết ăn uống biết tiêu hóa
điều mà lịch sử
mất nhiều năm tháng dựng lên.
Một người không có giờ.
Khi mất mát muốn tìm lại, khi kiếm được
lại xem thường, biết xem thường mới biết yêu, khi yêu thương
lại bắt đầu coi nhẹ.
Linh hồn hắn đã dạn dày,
đầy kinh nghiệm.
Chỉ hình hài mãi mãi còn
nghiệp dư. Hắn cố gắng rồi thất bại,
đâm ra rối trí, chẳng học được gì,
tìm say hóa mù quáng trong khoái lạc
và khổ đau.
Hắn sẽ chết như sung rụng mùa thu,
Nhăn nhúm dù ngọt ngào sung mãn,
lá rơi khô dần trên mặt đất
cành trơ trụi chĩa phương xa
nơi tất cả có thời giờ dư giả.
A Man In His Life
A man doesn't have time in his life
to have time for everything.
He doesn't have seasons enough to have
a season for every purpose. Ecclesiastes
Was wrong about that.
A man needs to love and to hate at the same moment,
to laugh and cry with the same eyes,
with the same hands to throw stones and to gather them,
to make love in war and war in love.
And to hate and forgive and remember and forget,
to arrange and confuse, to eat and to digest
what history
takes years and years to do.
A man doesn't have time.
When he loses he seeks, when he finds
he forgets, when he forgets he loves, when he loves
her begins to forget.
And his soul is seasoned, his soul
is very professional.
Only his body remains forever
an amateur. It tries and it misses,
gets muddled, doesn't learn a thing,
drunk and blind in its pleasures
and its pains.
He will die as figs die in autumn,
Shriveled and full of himself and sweet,
the leaves growing dry on the ground,
the bare branches pointing to the place
where there's time for everything.
( Trích Yehuda Amichai Poems. PoemHunter.com The Worled's Poetry Archive)
Tôi Mọc Đầy Lông Lá
Khắp người tôi mọc lông lá rậm rạp.
E rằng họ bắt đầu săn đuổi để lột da.
Chiếc áo sặc sỡ không ẩn tình nhắn nhủ
nhìn như sắc màu quảng cáo trong hầm ga.
Ban đêm thân xác trần truồng thức trong chăn chiếu,
như mở mắt bị khăn che chờ lệnh tử hình.
Tôi sẽ vô định lạc đường đi
sẽ chết vì khao khát sống.
Bây giờ tôi xin được yên bình, như gò đất sau phố thành tàn phá
rồi lặng im như nghĩa địa đầy mồ.
I have Become Very Hairy
I have become very hairy all over my body.
I'm afraid they'll start hunting me because of my fur.
My multicolored shirt has no meaning of love --
it looks like an air photo of a railway station.
At night my body is open and awake under the blanket,
like eyes under the blindfold of someone to be shot.
Restless I shall wander about;
hungry for life I'll die.
Yet I wanted to be calm, like a mound with all its cities destroyed,
and tranquil, like a full cemetery.
(http://www.poemhunter.com/poem/i-have-become-very-hairy/ )
Anh Không Chắc Lịch Sử Sẽ Tái Diễn
Anh không chắc lịch sử sẽ tái diễn
Nhưng anh biết rõ em sẽ không.
Anh vẫn nhớ thành phố đó ngăn đôi
Không chỉ giữa Do Thái và Ả Rập,
Còn ngăn đôi giữa anh và em,
Khi đôi ta thắm thiết bên nhau.
Chúng ta trở nên trung tâm hiểm họa
Xây một ngôi nhà chết bởi chiến tranh
Như người sống gần bắc cực
Xây cho mình tổ ấm yên lành
bằng tử thần tuyết lạnh.
Thành phố đã hòa giải
Nhưng chúng ta không còn bên nhau.
Đến lúc này anh mới hiểu
Lịch sử đó không tái diễn bao giờ
Như anh luôn luôn biết em sẽ không lập lại.
I Don't Know If History Repeats Itself
I don't Know if history repeats itself
But I do know that you don't.
I remember that city was didvided
Not only between Jews and Arabs,
But Between me and you,
When we were there together.
We made ourselves a womb of dangers
We built ourselves a house of deadening wars
Like men of far north
Who build themselves a safe warm house of deadening ice.
The city has been reunited
But we haven't been there together.
By now I know
That History doesn't repeat itself,
As I always knew that you wouldn't.
(http://www.poemhunter.com/poem/i-don-t-know-if-history-repeats-itself/ )
Hòa Bình Tự Nhiên
Không phải hòa bình khi ngưng bắn
cũng không phải ánh mắt lang sói rình chiên cừu
nhưng đúng hơn
là chuyện con tim khi bảo hòa kích động
chỉ có thể nói đến mệt chán trầm luân.
Tôi biết cách giết người, kiến thức này làm tôi khôn lớn.
Con tôi biết bắn súng giả
biết mở rồi nhắm mắt và gọi "Mẹ ơi".
Hòa bình
không nghe tiếng của gươm chiến đấu
vang trong lưỡi cày
không một lời hứa
không tiếng dấu ấn đóng xuống: cứ để lơ mơ,
lơ lững, như bọt trắng hững hờ.
Một chút nghỉ ngơi cho thương tích; ai dám nói lành lặn?
( Tiếng rú khóc của trẻ mồ côi truyền từ thế hệ này
sang thế hệ kia, như cuộc đua chạy tiếp sức:
khúc cây tiếp tay không bao giờ rớt.)
Việc gì đến sẽ đến
nở ra như hoa dại,
một cách tình cờ, vì cánh đồng
tất nhiên phải có: cảnh hòa bình tự nhiên.
Wildpeace
Not the peace of a cease-fire
not even the vision of the wolf and the lamb,
but rather
as in the heart when the excitement is over
and you can talk only about a great weariness.
I know that I know how to kill, that makes me an adult.
And my son plays with a toy gun that knows
how to open and close its eyes and say Mama.
A peace
without the big noise of beating swords into ploughshares,
without words, without
the thud of the heavy rubber stamp: let it be
light, floating, like lazy white foam.
A little rest for the wounds; who speaks of healing?
(And the howl of the orphans is passed from one generation
to the next, as in a relay race:
the baton never falls.)
Let it come
like wildflowers,
suddenly, because the field
must have it: wildpeace.
(http://www.best-poems.net/yehuda_amichai/poem-22280.html )
Ngu Yên