"Tôi là một người trong tay không lấy một tấc sắt, trên mặt đất không có chỗ nào dừng chân. Chẳng qua mình là một thằng tay không, chân trắng, sức yếu, tài hèn lại đòi vật lộn với hùm beo có nanh dài, vuốt nhọn. Dù sao mặc lòng, tôi vẫn cứ hăng-hái đi tới. Tôi vẫn muốn đổ máu ra mua Tự-Do "

** Phan Bội Châu **

Phan Huy Ích (1751-1822)  Tinh Sà Kỷ Hành

 KÝ  SỰ  TRÊN THUYỀN  ĐI  SỨ ( VỚI  VUA QUANG TRUNG GIẢ ) NĂM  1790 

            Tinh Sà Kỷ Hành, là tập thơ kiệt tác hàng đầu trong kho tàng thi ca chữ Hán của Việt Nam, được vua Quang Trung khen ”thơ văn ông có khí cốt” và Ngô Thì Nhậm ca ngợi thơ văn  ông “đắc vô tà chi tư “ (có được cái nghĩ không sai trái). Phan Huy Ích viết ký sự bằng thơ, bằng nguyên dẫn, chú thích  cuộc đi sứ thú vị nhất trong lịch sử bang giao  Trung Hoa và Việt Nam là cuộc đi sứ năm 1790 thời Tây Sơn sau trận chiến thắng Đống Đa. Nhà Thanh phải tiếp rước chiêu đãi trong hơn sáu tháng một sứ đoàn đông đảo 150 người tổng cộng nhà Thanh phải tốn đến 800 000 lạng bạc, khác với sứ đoàn bình thường khoảng 30 người. Lần đầu tiên có một ông vua Việt Nam sang Trung Quốc, lại là ông vua Quang Trung giả, với sự thông đồng  giữa Tổng Đốc Lưỡng Quảng nhà Thanh Phúc Khang An và Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm Việt Nam  qua mắt  vua Càn Long. Sứ đoàn còn có hoàng tử Nguyễn Quang Thùy, một ban hát bội Bình Định và hai con voi đực làm quà triều cống ngoài các cống phẩm thường lệ: ngà voi , sừng  tê giác, yến, quế, gấm, đoạn, vàng, bạc.. Sau cuộc chiến, việc nối lại bang giao nhằm tránh việc trả thù  dai dẵn hao tổn xương máu, tài sản cả hai bên, và bảo đảm một hoà bình lâu dài trước một đế quốc  gấp mười lần nước ta. Vai trò các sứ thần trong việc ngoại giao trở thành vai trò hàng đầu. Trong trận tuyến hòa bình ngày xưa, sứ thần được xem là những Thi tướng trong thi trận. Nhanh nhẹn làm thơ ứng đối để khiến đối phương khâm phục công nhận mình là một nước văn hiến. Khi vào chầu đòi hỏi phải đứng ngang hàng với các sứ thần Triều Tiên, Lưu Cầu Nhật Bản.  Gặp các công quán, quan địa phương chơi xỏ “chào mừng sứ đoàn nam di”, thì nhất định không bước qua, lập luận sắc bén buộc phải tháo gỡ. Khi họ đòi hỏi những cống phẩm quái gỡ như nước giếng Cổ Loa để rửa ngọc trai, cống người vàng.. phải lập luận có chứng cứ để bãi bỏ. Trước các thắng cảnh di tích các quan địa phương, quan triều đình Trung Quốc  giả vờ xin đề thơ đề bia đá  để thử tài, trăm cặp mắt nhìn vào,  các sứ thần nước ta phải hiểu rộng lịch lãm  thi ca các thi hào Trung Quốc, phóng bút đề thơ văn hay, chữ tốt  khiến họ khâm phục, để không bị cười  như “một đàn thằng ngọng đứng xem chuông “, do đó thi ca khi đi sứ không phải là chuyện bầu rượu túi thơ, thi sĩ một mình một ngựa đi ngâm vịnh thắng cảnh non sông, mà là những cuộc thi thơ đối mặt thường trực vì văn hóa, sĩ diện danh dự đất nước.

            Tiếc thay, một tập thơ kiệt tác của một danh nhân nước Việt, mà con cháu ngày nay, đọc bản dịch như đọc  thơ ngoại quốc. Đau xót với nỗi khổ ấy, tôi đã dịch thơ toàn bộ những bài thơ Tinh Sà Kỷ Hành trong Dụ Am Ngâm lục. nxb KHXH 1978. để ngày nay chúng ta thưởng thức được cái hay đẹp của nhà thơ hàng đầu nước ta. Năm 2009 tôi đã du hành Trung Quốc theo hành trình con đường đi sứ để dịch thơ Nguyễn Du qua Bắc Hành Tạp Lục. Con đường này tác giả Tinh Sà Kỷ Hành cũng đã đi qua. Theo Phan Huy Ích, tập thơ 85 bài, nhưng trong bản Dụ Am Ngâm lục bản in năm 1978, chỉ có 60 bài tôi chia ra thành hai phần để tiện phổ biến trên  internet.

            Cuộc chiến bại trận Đống Đa gần 300 000 quân Tôn Sĩ Nghị chạy tan tác, cầu phao sụp xác quân Thanh chết đuối  tắc nghẻn cả nước sông Hồng, làm rung động cả  Trung Quốc. Nguyễn Du lúc đó đang đi giang hồ (đi chơi trên các sông Giang Nam, Giang Bắc và 5 hồ lớn Trung Quốc), đang ở thành Tín Dương đã viết bài Tín Dương tức sự: Tây Phong biến dị hương. Ngọn gió Tây làm rung động cả đất khách.

            Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim tr 135. : “Vua nhà Thanh nghe tin Tôn Sĩ Nghị bại binh, nổi giận đùng đùng giáng chỉ sai quan Nội Các là Phúc Khang An ra thay Tôn Sĩ Nghị làm Tổng Đốc Lưỡng Quảng, đem binh mã chín tỉnh kinh lý việc An Nam.

            Phúc  Khang An đến Quảng Tây, nghe tiếng quân An Nam khí thế mạnh trong bụng đã sợ, có ý muốn cầu hòa, bèn sai người đưa thư sang nói việc lợi hại và bảo phải làm biểu để tạ tội cho yên việc binh đao.

            Vua Quang Trung bèn cho người đem vàng bạc sang đút lót cho Khang An, rồi sai người cháu là Nguyễn Quang Hiển và quan là Vũ Huy Tấn đem đồ cống phẩm sang Yên Kinh, vào chầu vua Thanh và dâng biểu xin phong.

            Bấy giờ quan ngoài thì có Phúc Khang An đề bạt giúp đỡ, quan  trong thì có Hòa Thân chủ hoà thuận cho giảng hòa. Vua nhà Thanh bèn sai sứ sang phong vua Quang Trung làm An Nam Quốc Vương và lại giáng chỉ vời quốc vương vào chầu.

            Vua Quang Trung bèn chọn một người hình dung giống mình tên là Phạm Công Trị. Trá làm Quốc Vương  rồi  sai Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chấn, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn đưa sang Yên Kinh vào chầu vua Càn Long. Quan Tổng Đốc Lưỡng Quảng là Phúc Khang An và quan Tuần Phủ Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh phải đưa An Nam Quốc Vương vào kinh.

            Sang đến Yên Kinh, vua Càn Long tưởng là Nguyễn Quang Trung thật, vời đến chầu ở Nhiệt Hà, cho vào làm lễ ôm gối, như tình cha con một nhà, và cho dự yến với các thân vương. Đến lúc về nước vua lại sai thợ vẽ làm một bức ảnh truyền thần để ban cho ân lễ thật là hậu.”

             Vai trò quan trọng nhất trong sứ đoàn, Chánh sứ là Tiến sĩ Phan Huy Ích.  Một trong ” An Nam ngũ tuyệt ” năm người văn chương hay nhất nước Nam, thuộc bốn dòng họ văn chương danh tiếng nước ta: Nguyễn Du, Nguyễn Hành họ Nguyễn Tiên Điền, Phan Huy Ích họ Phan Huy,  huyện Thạch Thất, Sơn Tây,  Nguyễn Huy Tự họ Nguyễn Trường Lưu, Hà Tĩnh và Ngô Thì Vị  họ Ngô Thì , Tả Thanh Oai , Hà Tây.

            Phan Huy Ích sinh năm 1751 con Phan Huy Cẩn, người làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc tỉnh Nghệ An, sau dời đến làng Thụy Khuê huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây. Ông Cẩn đỗ Tiến Sĩ năm 1754 được phong tước Khuê Phong hầu. Phan Huy Ích là học trò Ngô Thì Sĩ, sau làm rễ Ngô Thì Sĩ, lấy em gái Ngô Thì Nhậm.

            Nổi tiếng thông minh năm 22 tuổi đỗ Giải Nguyên thi Hương trường Nghệ, năm 26 tuổi đỗ Hội Nguyên, năm 1776 ông lại đỗ khoa Ứng chế và được bổ làm Hàn Lâm thừa chỉ. Năm 1777 làm Đốc Đồng Thanh Hóa rồi về triều giữ chức Thiêm sai tri hình, rồi được lên  Ải Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh. Năm 1780 vụ án Trịnh Tông giành ngôi Chúa, phe cánh bị giết. Ngô Thì Nhiệm bị ngờ là người tố cáo có lên quan đến phe cánh Đặng Thị Huệ. Đến năm 1782, chúa Trịnh Sâm chết, kiêu binh làm loạn phế Trịnh Cán đưa Trịnh Tông lên ngôi. Ngô Thì Nhậm phải lẫn trốn Phan Huy Ích cũng bị hiềm nghi không được tin dùng, ông cáo bệnh từ chức nhưng không được, ông đóng thuyền ở trên sông và chỉ vào chầu. Năm 1785, ông được bổ làm Hiến Sát  Thanh Hóa.

            Năm 1786 Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc phù Lê diệt Trịnh, rồi trở về Nam bỏ rơi Nguyễn Hữu Chỉnh. Trịnh Bồng lên làm chúa, ông được Án Đô Vương Trịnh Bồng sai đánh dẹp Nguyễn Hữu Chỉnh. Phan Huy Ích không phải là người có tài cung kiếm nên bị Chỉnh bắt sống vào mùa đông 1786, may nhờ Nguyễn Kim Khuê chổ quen biết cũ hết sức cứu gỡ nên ông được tha. Cuối năm 1787, Vũ Văn Nhậm thừa lệnh đem quân ra Bắc giết Nguyễn Hữu Chỉnh, ông lẫn tránh về quê ở Sài Sơn.

            Tháng 4 năm Mậu Thân, Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc lần thứ hai giết Vũ Văn Nhậm lộng quyền. Phan Huy Ích cùng một số nho sĩ như Nguyễn Nể, Đoàn Nguyễn Tuấn, Vũ Huy Tấn, Ngô Thì Nhiệm, Ninh Tốn.. được tiến cử. Họ cùng Nguyễn Huệ vào Phú Xuân, sau được phái ra Bắc Thành cùng Ngô Thì Nhậm.

            Tháng 11 năm 1788 Lê Chiêu Thống theo chân Tôn Sĩ Nghị với gần 30 vạn quân xâm lược và phu binh trở về Thăng Long. Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhiệm bị trả thù, đục tên trên bia văn miếu, bị tầm nã.

            Mùa xuân  Kỷ Dậu, cuộc hành quân thần tốc, vua Quang Trung quét sạch quân Thanh. Sau chiến thắng Phan Huy Ích lại được triệu ra cùng Ngô Thì Nhậm trông nom việc ngoại giao giao thiệp với Trung Quốc.

            Năm 1790 ông nhận được chiếu thư sai đi sứ phương Bắc. Đoàn sứ bộ hẹn vào đêm mùng 9 tháng tư sẽ từ Bắc Thành lên đường, hẹn ngày 15 tháng tư,  mở cửa Ải Nam Quan. Chuyến đi quan trọng gây tình hòa hiếu giữ hai nước. Phan Huy Ích được coi là trọng thần hàng văn trong đoàn.

            Khi đi sứ trở về, năm 1791 trong gia đình Phan Huy Ích xảy ra một chuyện: người em thứ năm là Hữu Trấn nổi dậy chống Tây Sơn, bị thất  bại, bị giết. Ông dâng biểu trần tình tạ tội. Vua Quang Trung phê vào tờ biểu:  “Tính người thiện ác khác nhau, cha còn chả được lòng với con, huống gì anh đối với em, việc không dính líu đến, thì còn có hiềm nghi gì.” Và cho vào kinh triều kiến. Khi vào chầu vua Quang Trung lại gọi ông tới trước mặt ân cần chỉ bảo.

            Năm 1792 ông được thăng chức Thị Trung Ngự Sử ở toà Nội Các. Vào những năm dưới thời Quang Trung, Phan Huy Ích được nhà vua đặc biệt quý trọng tài văn chương¨.

Vua tôi tương đắc chưa được bao lâu thì một tai họa giáng xuống. Vua Quang Trung mất ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (1792) nhà vua ở ngôi được 4 năm, thọ 40 tuổi.

            Sau khi vua Quang Trung mất, Quang Toản nối ngôi niên hiệu Cảnh Thịnh mới 10 tuổi, mọi việc đều do cậu là Thái sư Bùi Đắc Tuyên quyết đoán. Tuyên kéo bè đảng xích mích giữ các tướng lĩnh, đại thần. Tại triều thì giết hại lẫn nhau, bên ngoài Nguyễn Ánh rình rập tiến công ra Bắc.

            Thời Cảnh Thịnh, Phan Huy Ích lo việc từ hàn, trông nom công việc ngoại giao. Ông thay Quang Toản làm những bài văn hòa giải như vụ Vũ Văn Dũng, Trần Quang Diệu. Ông theo vua vào chinh phạt Nguyễn Ánh tại sông Gianh.

            Tháng 5 năm Tân Dậu (1801) Nguyễn Ánh chiếm Phú Xuân. Cuối mùa hạ 1802 Phan Huy Ích bị bắt cùng Ngô Thì Nhậm và Nguyễn Thế Lịch. Từ Bắc Thành bị giải về Phú Xuân rồi lại đưa giam ở trại Tiền Quân.

Tháng 2 năm Quí Hợi 1802 ông bị đánh đòn tại Văn Miếu, sau được tha về.

Cuối năm 1803 Phan Huy Ích dời về ẩn cư ở Sài Sơn, đến năm 1814 ông vào Thiên Lộc Hà Tĩnh dạy học, cho tới năm 1819 ông về làng an dưỡng.

Ngày 20 thánh 2 năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Minh Mạng năm thứ ba (1822) Phan Huy Ích qua đời thọ 73 tuổi.

Phan Huy Ích để lại một khối lượng sáng tác phong phú: Nam trình tạp vịnh, Cẩm trình kỷ hứng, Thang châu lữ hứng, Vân Sơn khiển hứng, Tinh sà kỷ hành, Cúc thu bách vịnh, Nam trình tục tập, Vân du tùy bút. Tổng cộng hàng nghìn bài thơ chữ Hán, chữ Nôm.

Cuối đời Phan Huy Ích sai con cháu thu thập rồi xếp vào một tập đặt tên Dụ Am ngâm lục. Đáng tiếc bộ Dụ Am Ngâm lục chỉ còn khoảng 600 bài thơ bằng phân nữa số thơ ông sáng tác.

Thời Lê Trịnh lúc làm quan nội các ông biên soạn Lịch Triều điển cố dâng lên chúa Trịnh. Dưới triều Quang Trung ông được cùng Ngô Thì Nhậm chuyên thảo công văn giấy tờ giao thiệp với nhà Thanh. Toàn bộ Chiếu, biểu, tấu thư trát, văn tế, câu đối văn tựa, bạt của Phan Huy Ích được tập hợp trong bộ Dụ Am Văn tập gồm 8  tập sách. Ngoài ra rải rác vùng Hà Đông Sơn Tây còn có những bài văn bia của ông như bài văn bia về tướng Đặng Tiến Đông.

Phan Huy Ích còn sáng tác nhiều văn thơ Nôm. Năm 1799 công chúa Ngọc Hân qua đời ông viết 5 bài thơ quốc âm ca ngợi đức tài bà thay vua Quang Toản. Trong Dụ Am văn tập, Dụ Am ngâm lục còn chép lại trên 20 bài văn, 11 bài thơ chữ Nôm.

            Ông có bài thơ nói việc ông diễn ca Chinh Phụ Ngâm Khúc và con cháu lưu giữ bản Chinh Phụ Ngâm Khúc  và dịch  ra chữ quốc ngữ. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã chứng minh trong Chinh Phụ Ngâm bị khảo : bản dịch phổ biến nhất ngày nay là của Phan Huy Ích. Bản dịch ông sau bản dịch Đoàn Thị Điểm 60 năm, ông phỏng dịch lời thơ mới hơn, cùng thời với Truyện Kiều  nên chúng ta đọc dễ hiểu. Việc thống nhất đất nước của vua Gia Long, ảnh hưởng mạnh mẽ của chữ Nôm Đàng Trong làm biến mất một số chữ Nôm Đàng Ngoài.  Bản dịch Đoàn Thị Điểm chính xác theo văn bản, chữ thời Lê Trịnh cổ xưa hơn nên khó hiểu, người cảm tưởng không hay bằng bản phỏng dịch  của  Phan Huy Ích. Bản dịch Đoàn Thị Điểm thường dùng chữ ‘nhé’(Kìa thăm thẳm nhé Thương thiên), giọng văn nhỏ nhẹ của phụ nữ. Theo Tốn Phong người viết tựa Lưu Hương Ký của Hồ Xuân Hương, văn chương Hồng Hà nữ sĩ thiên về đùa bởn. Năm 1978 bà Nguyễn Kim Hưng tìm ra Hồng Hà Phu Nhân Di Văn,  có công bố trên Tạp chí Văn Học, bài Đùa tặng người béo, trong số  28 bài thơ nôm trào phúng của Đoàn Thị Điểm chưa đọc được. Tiếc là thời điểm đó không mang được sang Pháp nhờ Gs Hoàng Xuân Hãn đọc giùm, nên văn bản cho tới nay chưa ai đọc  được hết được các chữ nôm thời Lê Trịnh.

            Các bản khắc ván chữ  nôm, chữ quốc ngữ thời Thành Thái khoảng năm 1905 sau khi Đoàn Thị Điểm mất hơn 160, Phan Huy Ích mất hơn 100 năm của nhà in Xuân Lan do ông Nguyễn Ngọc Xuân tại Hải Phòng, hay các hiệu in tại Hà Nội. Việc khắc in nhằm mục đích kiếm tiền và trình độ người chủ trương xuất bản kém cỏi, nhiều bản in không đề tên tác giả, nhiều việc quơ quàn gán ghép cho Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm  không đáng tin cậy bằng lời xác định của gia đình họ Phan Huy. Thư viện Quốc Gia tại Paris còn lưu giữ rất nhiều các sách chữ Nôm, chữ quốc ngữ do các lái sách in ấn đầu thế kỷ 20, thuở ấy chưa có các hiệu sách, các thương nhân phụ nữ gánh sách trên các gánh hàng rong đi bán tại các lễ hội các nơi hay nơi gần các trường học. Khác với sách do  triều đình, các quan hay các nhà nho học danh tiếng, thuê người khắc bản in ấn, chăm sóc bản in, các sách do các thương lái sách ấn hành gây nhiều sự lầm lẫn trong văn học Việt Nam. Truyện thơ Quân Trung Đối của Nguyễn Nghi,  em cùng cha khác mẹ của Nguyễn Du không đề tên tác giả cũng nằm trong đống sách hổn loạn này. Quyển Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo của Gs Hoàng Xuân Hãn là một công trình nghiên cứu nghiêm túc và khoa học đúng đắn.

             Đoàn Thị Điểm với Truyền Kỳ Tân Phả, truyện Hải Khẩu Linh từ dám viết về trận chiến bại của vua Trần Duệ Tôn, nhà vua tử trận, hai trăm ngàn quân Đại Việt tan tác trong trận đánh Chiêm Thành vì không nghe lời nàng Bích Châu trong khi lịch sử chỉ chép vài dòng. Bà đã là một nhà văn nữ vĩ đại. Những câu thơ bản dịch Chinh Phụ  Ngâm tưởng rằng dỡ như câu: Nửa đêm cửa tướng hịch bay ầm ầm, so với câu Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh bản Phan Huy Ích, nhưng khi xem phim Trung Quốc, Hương Cảng ngày nay tả cảnh hịch vừa truyền ra, hàng chục phu trạm cướp thẻ bài, phi ngựa đi truyền lệnh, phóng ngựa ầm ầm, ta mới phục tài tả không khí chiến tranh của Đoàn Thị Điểm và thấy rằng Phan Huy Ích có tài văn chương và không có tài quân sự. Nếu phải định ngày xuất chinh thì cần gì nửa đêm khẩn trương truyền hịch, để sáng mai truyền cũng được có mất mát gì !.  Khuynh hướng tiếc rẻ, vì sao bản phổ biến nhất không là bản của Đoàn Thị Điểm làm người ta mù quáng không thấy được cái hay, cái tuyệt vời của bản dịch Đoàn Thị Điểm. Thậm chí có  bài viết cho rằng Gs Hoàng Xuân Hãn là giáo sư Toán nên đoán mò, gán ghép sai lạc thiên vị.  Là một trong những người đầu tiên tốt nghiệp Ecole Polytechnique Paris, Kỹ sư Cầu Đường, Thạc sĩ Toán. Tại Pháp được trúng tuyển vào Ecole Polytechnique là trường đào tạo những nhân tài xuất chúng trong guồng máy lãnh đạo nước Pháp, làm vẻ vang cho người Việt Nam thời thuộc địa,  những người này đi vào những chuyên môn khác nhau, nơi nào họ cũng trở thành những lãnh tụ hàng đầu. Gs Hoàng Xuân Hãn sinh trong một gia đình Nho Học tại Hà Tĩnh được hấp thụ truyền thống cha ông, nên rất giỏi chữ Hán, chữ Nôm. Từ lúc còn sinh viên ông đã soạn quyển Danh từ Khoa Học làm nền tảng cho việc dịch thuật Khoa Học ra tiếng Việt. Trở về nước làm việc, được chính quyền thuộc địa cho biết không có chỗ làm cho văn bằng uy tín nhất nước Pháp, ông phải thi thêm Thạc sĩ Toán (Kỳ thi dành cho người đi dạy học tuyển rất khó), ông dạy học tại Hà Nội và cộng tác với các trí thức uy tín như Trần Trọng Kim xuất bản báo Khoa Học nhằm nâng cao dân trí.  Được mời làm Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục và Mỹ Thuật năm 1945 ông là người  khai sinh ra chương trình giảng dạy bậc Trung, Tiểu Học bằng tiếng Việt được áp dụng về sau cả hai miền Nam Bắc. Các tác phẩm Lý Thường Kiệt, La Sơn Phu Tử, Chinh Phụ Ngâm bị khảo là những công trình nghiên cứu khoa học mẫu mực. Trong chiến tranh khi Gs Dương Quảng Hàm lao vào thư viện để cứu di sản sách vở cha ông bị  cháy và chết theo kho sách. Gs Hoàng Xuân Hãn vẫn đi mua từng gánh sách các gia đình đại gia đi bán làm giấy bổi, rồi đem đi một nơi xa an toàn gìn giữ gia tài di sản tổ tiên, một đời nghiên cứu gìn giữ di sản không màng danh lợi. Công lao ấy được đất nước  và các bậc trí thức kính trọng.

            Phan Huy Ích  đã viết Tinh Sà Kỷ Hành, một tập thơ kể lại hành trình chuyến đi qua những thắng cảnh, những bài thơ tặng đáp với  quan lại Trung Quốc và với các bạn trong sứ đoàn Vũ Huy Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn và các bài thơ gửi Ngô Thì Nhiệm túc trực tại Lạng Sơn trong suốt thời gian đi sứ để chuyển tin về cho vua Quang Trung thật..

            Còn vua Quang Trung thật, theo bài thơ Phan Huy Ích viết về Nguyễn Nể, nhà vua ngày ngày gióng ngựa quý, (giả dạng thay Phạm Công Trị) đến dinh Kim Âu  bàn bạc việc nước cùng Nguyễn Nể (anh Nguyễn Du).

            Ngô Thì Nhậm đã đề tựa tập thơ Tinh Sà Kỷ Hành như sau:

            “Văn chương xưa nay, được xem là “ tác gia “đã khó, được xem là  “ đại tác gia “ lại càng khó. “ Đại tác gia “ là nói những người khuôn mẫu văn chương có thể giúp đời. Có khuôn mẫu văn chương gấm vóc, có khuôn mẫu văn chương vải lụa. Nhưng trong dòng văn chương gấm vóc, cũng có người quá bay bướm, trong dòng văn chương vải lụa, cũng có người quá quê mùa. Những người đó có thể gọi là “tác gia” , không thể gọi là “đại tác gia“.

            Những nhà văn có văn chương giúp đời, sáng tác không phải chỉ có một loại. Thơ, phú, ca, hành, biện luận, ký, tựa, bạt, giải thích, biền ngẫu, tản văn; chất chứa trong lòng, phát ra lời đẹp, như gấm vóc làm đẹp mắt, như vải lụa làm thích thân, đó gọi chung là nhà văn. Trong các thể loại đó, có cái làm phấn chấn lòng người, cảm phát tình người, thì không gì lớn hơn thơ. Cho nên trong thơ được riêng gọi là  “nhà thơ “.

            Nước Việt ta lấy văn hiến dựng nước. Thơ phôi thai từ thời Lý, thịnh ở thời Trần, phát triển mạnh trong thời Hồng Đức nhà Lê. Một bộ Toàn Việt Thi, về cổ thể không nhường thơ các đời Hán, Tấn; về cận thể không nhường thơ các đời Đường, Tống, Nguyên, Minh; tiếng vàng tiếng ngọc, thực có thể gọi là “ nước thơ “’. Tựu trung, tìm trong khuôn mẫu văn chương to lớn, đáng gọi là thi gia thì chỉ có các ông Thái Lã Đường, Bạch Vân Am. Ngoài ra thật xa vời vắng lặng !

            Từ Lê Trung Hưng về sau, những nhà thơ danh tiếng xuất hiện nhiều qua các tập thơ đi sứ. Hoặc thăm chốn thanh u, viếng nơi cổ tích, gặp cảnh sinh tình, xa nước nhớ quê, nhân việc tỏ ý, dư hương của nó có thể thắm đượm người sau. Đến như gấm vóc bay bướm, vải lụa mà không quê mùa, thì chỉ có tập Tinh sà kỷ hành. Vì nó có cái vẻ đẹp của nụ cười tươi, nét mày đẹp đấy chăng ?

            Tập thơ này là do ông  Thị trung ngự sử họ Phan làm trong dịp đi sứ triều hạ.. Ông đỗ Hội  nguyên, đứng đầu làng văn, nhà nổi tiếng  mấy đời tiến sĩ, khuôn mẫu văn chương được cha truyền cho. Làm văn quý ở chỗ điển nhã mà hồn hậu, lấy thực tiễn làm cốt tử, chỉ hơi thêu dệt là lượt để trang sức. Làm thơ cũng thế. Băng lên hàng Trình Hạo, Chu Hy, vượt qua cửa ngõ Khuất Nguyên, Tống Ngọc, vào nhà Y Doãn, Chu Công, rời khỏi con đường Lý Bạch, Đỗ Phủ.. như gấm vóc vải lụa, chỗ nào dùng cũng hợp. Có lẽ từ Trung cổ đến nay những bậc đại gia văn chương nước ta, ít thấy người như thế.

            Tôi với ông vừa có tình nghĩa đỗ đồng khoa lại là quyến thuộc, lúc nhỏ cùng chơi, lớn cùng làm quan. Tôi vốn phục văn chương ông, trong chổ điển nhã hồn hậu lại có văn vẻ đẹp.. Có lúc tôi chẳng cân nhắc, tự cho thơ mình hơn, nhưng ngẫm lại thì quả không bằng. Kịp đến khi xem tập thơ này, mừng vui và khâm phục mãi không thôi. Vô luận dùng chữ đặt câu hay dùng vần, dùng cách đều vượt cõi tục vào cõi thanh. Hãy xem xưa nay, ông vua tránh đời ai bằng Triệu Úy Đà ? Ông qua đô cũ nhà Triệu có câu thơ: “Cố tri Hoàng đế hiền thiên tử, thùy cấm man di trưởng lão phu.” Vẫn biết vua hiền bậc thiên tử. Ai cấm man di trưởng lão phu. Thì có ai đã nói được như thế ? Lại xem xưa nay kẻ đại trượng phu mà hay khóc, có ai bằng Bạch Cư Dị ? Khi ông qua đình Tỳ Bà có câu : “ Cửu Giang yên thủy đa thiên khách; Thiên cổ phong lưu độc đoãn đình.” Mây nước Cửu Giang nhiều khách trích; nghìn thuở phong lưu một đoản đình,  thì có ai viết được như thế ?

            Lại xem trong khoảng trời đất, vật không nói cũng không im, gì bằng núi, sông ? Khi ông qua Hà Nam có câu : Hà ngũ bách niên không tỷ tiếu, sơn tam vạn tuế hốt năng ngôn.” Năm trăm năm sóng không cười được. Ba vạn niên non núi nói đâu ? (Sông Hoàng Hà  năm trăm năm một lần trong suốt  ví với nụ cười Bao Công, xử án nghiêm minh nhưng ít cười. Núi Tung Sơn, khi Hán Vũ Đế đến  thì nghe ba lần tiếng hô vạn tuế.) thì ai đã nói được như thế ? Còn đến các bài ca: “Thương gái goá như Hoa Châu khóc chồng là Kỳ Lương đến đổ thành”.  “Kẻ thạc nhân múa ở Bội.” “ Trang Chu gõ chậu làm nhịp” thì như câu : “Đồng minh nhượng nhất nhân” (Cùng bạn nhường một người) “Thanh tiêu độc hoài tàm,”(Đêm thanh riêng hổ thẹn), cái ý ôn hậu khẳng khái tràn ra ngoài lời, người khác không ai nói được. Ôi, thế mới gọi là thơ, mới có thể gọi là nhà thơ, mới có thể gọi là thơ đại gia. Tôi từng phụng mệnh sang sứ Yên Kinh, có tập Hoa Trình thi phú sao, nay thấy thơ ông, thì tập thơ của tôi không dám ra đời nữa.

            Đầu mùa xuân năm Canh Thân (1800) vào triều kiến, ông đem tác phẩm bảo tôi xem và bình luận. Thật khó mà có chỗ hạ bút : vì văn chương của ông, các bạn tôn làm khuôn phép, gần đây được nhà vua biết đến, thanh giá thêm tăng. Hoàng thượng ta (vua Quang Trung)  học thực cao minh, lời văn rực rỡ. Tôi từng được gọi vào Đại Nội. Hoàng thượng bàn đến văn chương, khen thơ văn ông có khí cốt. Tôi đôi lúc thù phụng. Hoàng thượng hỏi: “Câu ấy chữ ấy, ý người cho là thế nào “, bởi vì Hoàng thượng khen những câu chữ ấy trình độ đã sâu. Nội các đánh giá, cửu trùng khen ngợi đã định, kẻ bình luận tầm thường như tôi, đâu dám rườm lời!

            Nhưng đã ngâm đọc tập này, không  thể không nói. Nhân tiếm để tự đầu sách. Trộm nghĩ: “Ba trăm thiên Kinh Thi, một lời bao trùm hết, là câu  “tư vô tà “(nghĩ không sai trái), thơ ông 85 bài, một lời có thể bao trùm hết,  là “đắc vô tà chi tư “ (có  được cái nghĩ  không sai trái).

            Tôi, bạn đồng khoa và quyến thuộc chức Thị trung Đại học sĩ tước Tình Phái hầu Ngô Thì Nhậm tự là Hy Doãn bái tựa.”

            Bắt đầu từ rằm tháng tư (1790) sứ bộ ra khỏi  ải  Nam Quan, theo sông Minh Giang  đi qua Quế Lâm rồi theo sông Tương đến Động Đình Hồ, đến Hán Khẩu từ đó đi đường bộ Hà Nam đến Yên Kinh giao phẩm vật cống sứ cho Bộ Lễ Trung Quốc, rồi lên Nhiệt Hà ngày 11 tháng 7  vì vua Càn Long đang nghỉ mát nơi đây.

Năm 2009 tôi có đi Trung Quốc theo hành trình một số địa danh từ Quế Lâm các nơi các sứ đoàn đi sứ đã đi qua trên đường đi sứ đến Bắc Kinh và  tôi có đến thăm cung điện mùa hè vua Càn Long tại Nhiệt Hà ăn lễ mừng thọ vua được 80 tuổi.. Khác vơi cung điện Bắc Kinh to lớn, chói lọi màu sắc vàng, đỏ, cung điện mùa hè trang nhã  tỉnh mịch hơn, năm  bên các gốc thông, phiến đá cạnh vườn thượng uyển. Thật thú vị khi đến thăm phòng  vua Càn Long tưởng tượng nơi đây năm 1790 từng diễn ra cảnh làm lễ ôm gối nhận tình cha con giữa vua Càn Long và vua Quang Trung giả.

Ngày 22 tháng 8 âm lịch sứ đoàn ra về.

Ngày 29 tháng 10 sứ bộ quay về đến Ải Nam Quan. Tính ra thời gian trên đất Trung Quốc là 6 tháng 14 ngày.

            Nhận được chiếu đi sứ Phan Huy Ích viết: vừa sửa sang xong phần mộ cha, lễ hiếu vẹn toàn. Nhận chiếu thư từ trên ban xuống sai đi sứ. Chí tang bồng, chí bốn phương kẻ làm trai, ngại gì rong ruổi phương xa. Giữ tiết ngọc, cầm cờ tiết vua ban cho sứ thần việc ngoại giao nên biết ứng đối (văn chương) là khó. Bầy tôi phải vất vả để giúp ích xã tắc. Du khách khi cao hứng lại vịnh núi sông.. Bao nhiêu việc nhà cửa sau khi ra đi. Đều nhờ người vợ nghèo ra tay xếp đặt. Chữ ‘kinh thoa’ trong thơ tích từ vợ Lương Hồng cao sĩ nhà Hán là Mạnh Quang có đức hạnh, nàng dùng gỗ tử kinh làm cành thoa, dùng vải thô làm quần, cho nên nói kinh thoa bố quần để chỉ người phụ nữ nghèo, cần cù làm việc để giúp đỡ chồng. Đời sau người ta mượn từ kinh thoa để chỉ người vợ của mình.

GIỮA MÙA XUÂN PHỤNG CHIẾU SAI ĐI SỨ PHƯƠNG BẮC, KHI NHẬN ĐƯỢC MệNH LÀM THƠ

Phần mộ cha xong, hiếu vẹn toàn,

Hoàng hoa nhận chiếu lại lên đường.

Chí tang bồng ngại gì rong ruỗi,

Giữ tiết ngọc trong ứng đối văn.

Vất vả bầy tôi lo xã tắc,

Khách du cao hứng vịnh non sông.

Chia tay bao việc trong nhà cửa,

Dặn lại bần thê sắp đặt giùm.

XUÂN TRUNG PHỤNG CHIẾU SAI BẮC SỨ, ĐẮC MệNH NGẫU PHÚ.

Huyền trạch sơ doanh, hiếu lễ hoàn,

Hoàng hoa dao phụng chiếu thư ban.

Tang hồ hề tuất trì khu viễn,

Ngọc tiết tu trì ứng đối gian.

Thần phận phục lao tỳ miếu xã,

Khách du thừa hứng phẩm giang san.

Biệt lai đa thiểu gia môn kế,

Toàn chúc kinh thoa bố trí gian.

RA CỬA ẢI NAM QUAN

Nguyên Dẫn: Giờ Tỵ ngày 15 tháng 4 mở cửa ải, phụng mệnh đến làm lễ ở đài Chiêu Đức. Quan Đốc Phủ và các đề trấn dẫn đầu các viên chức các đạo, đài, phủ , huyện tiếp đưa đường, ngựa xe cờ xí sáng rực núi khe.

             Sứ đoàn đi từ Thăng Long  đến Lạng Sơn chờ đợi và thông báo cùng Trung Quốc hẹn ngày lành tháng tốt tiếp đón sứ đoàn. Tổng Đốc Lưỡng Quảng Phúc An Khang phụ trách điều khiển cuộc hành trình  đi từ Ải Nam Quan đến Bắc Kinh, Nhiệt Hà rồi trở về lại ải Nam Quan. Đúng giờ cổng mở bằng một chìa khóa lớn dài khoảng một thước tây, cửa mở, đốt pháo, lính gác cầm giáo giàn chào.  Chỉ có đoàn sứ đi qua, các quân lính, người khuân vác đều  dừng lại trước cửa. Từ Ải Nam Quan,  Trung Quốc hoàn toàn phụ trách việc tiếp rước, quân lính hộ vệ và phu khuân vác cùng xe ngựa hay thuyền.  Theo thông lệ, tại đài Chiêu Đức,  các rương hòm phẩm vật đều được mở ra, bày cúng tế, quan chức nhà Thanh kiểm kê chứng nhận phẩm vật, sau đó lại bỏ vào rương hòm, chèn kín bằng ống giấy dâm bào, đóng khèn có con dấu  in chứng nhận, khóa kín cho đến Bắc Kinh mới mở ra.. Sứ đoàn được đưa về tiếp tân ở Thụ Hàng, ra mắt viên Tổng Đốc Lưỡng Quảng Phúc Khang An. Phan Huy Ích viết:

            Ải Bắc trời cao, cổ xe tứ mã chạy đều. Đầy núi cờ lộng hộ vệ người đi xa, Chuyến này là hội áo xiêm hòa mục, là một cuộc hội họp hòa bình. (đối lập với hội binh xa, hội họp về chiến tranh). Nghĩ mình là một văn nhân bình thường. Khúc ly câu ngâm xong gợi tình đất nước. Ly câu là tên khúc hát tiễn biệt thời xưa. Tiếng chim kêu hoài rừng núi quang tạnh. Cánh bằng bay chín vạn dặm trong chớp mắt.  Sách Trang Tử chép: chim bằng bay biển Nam, nước trào lên ba nghìn dặm, cưỡi gió cuốn mà bay lên chín vạn dặm. Trong văn thơ dùng cánh bằng để nói đến chí lớn. Lần đầu đi sứ tầm mắt mới lạ.

  RA CỬA ẢI

Ải Bắc trời cao bốn ngựa phi,

Đầy non cờ lộng bóng người đi.

Chuyến đi xiêm áo thời bình trị,

Nghĩ phận văn nhân nào có gì!

Ngâm khúc ly câu thương đất nước,

Chim kêu khoắc khoải tạnh rừng mây.

Chín vạn dậm bằng bay chớp mắt,

Tầm mắt sứ nhìn mới lạ thay.

XUẤT QUAN

Tái Bắc thiên cao lục bí quân,

Mãn sơn kỳ cải hộ chinh trần.

Thị hành ung mục y thường hội,

Tự ngã tầm thường hàn mặc nhân.

Hương quốc ly tình câu xướng bãi,

Lâm loan tễ sắc điểu thanh tần.

Phù dao cửu vạn tài đương thuấn,

Tư đạc sơ trình nhãn giới tân.

            Sứ đoàn lên thuyền theo sông Tây Giang vào đến sông Minh Ninh để theo kinh đào phía Bắc Quế Lâm vào sông Tương Giang từ đó đi vào Động Đình Hồ đến Hán Khẩu.

            Qua cửa sông Minh Ninh có thắng cảnh Di Tích Hoàng Sào binh mã núi Hoa Sơn. Là một vách núi trên vách có những vệt đá đen đỏ trông giống như một bầy ngựa chiến với người, gươm dáo, cờ xí.. Tương truyền đây là  nơi Hoàng Sào thời  nhà Đường đóng quân khi đánh vùng  Quảng Đông, Quảng Tây. Nguyễn Du có viết bài thơ nơi này.

            Nguyên dẫn:  Núi này ở cửa sông Minh Ninh vách đá nhìn xuống dòng sông, màu đỏ như trát sơn, thấp thoáng dường như có hình người, ngựa cờ, gươm. Tương truyền chiến địa của Hoàng Sào trước kia hiện hình nơi đây.

BINH MÃ HOA SƠN

Vách đá chon von sóng nước xanh,

Ngựa người thấp thoáng đỏ son hình.

Rêu vương giáp vẽ, mưa còn đọng,

Yên ngọc hoa lay gió động mình.

Đục núi hóa công khôn vẽ tạc,

Đường xa đất khách nỗi chồn chân.

Hão huyền trận tích ai bàn chuyện,

Bóng ngã non xa thuyền bập bềnh.

HOA SƠN BINH MÃ

Thôi ngôi tiểu bích hám tình lan,

Nhân mã y y nhất sắc đan.

Vũ tích đài phu xâm họa giáp,

Phong tương hoa ảnh động điêu an.

Hóa công nguyên thiết nhan dung xảo,

Viễn giới ninh tri khách lộ nan.

Trận tích huyễn đàm thùy chất phỏng,

Vân sơn thấn nhập đoản bồng khan.

             Cùng đi sứ  có Thượng Thư Bộ Công Vũ Huy Tấn, người làng Mộ Trạch, huyện Đường An từng giữ chức Thị Lang Bộ Công, tước Hạo Trạch Hầu. Vũ Huy Tấn từng đi sứ với  phó sứ Nguyễn Nể, và Nguyễn Quang Hiển cháu vua Quang Trung, trong  bang giao đầu tiên giữa Tây Sơn và nhà Thanh năm 1789 sau chiến trận Thăng Long. Trở về lại đi tiếp trong sứ đoàn Phan Huy Ích.

Thắng ngựa từ nước Việt xa xôi đi đến non Yên .Chén rượu câu thơ đình mai chung một màu xuân. Đời người gặp gỡ nhiều điều trái ý. Quân tử giao du lâu ngày tất thân nhau. Chuyến đi này khó dễ đều qua đất khách. Lòng trung tín sẵn có làm tinh thần mình mạnh mẽ. Thăm hỏi khắp nơi mừng có bạn đường. Tâm tình này cùng chia sẻ nỗi vất vả.

HỌA ĐÁP VŨ CÔNG BỘ

Thắng ngựa non Yên nước Việt xa,

Đình mai chén rượu thơ  xuân hòa.

Nhân sinh khi gặp điều sai ý,

Quân tử thân nhau lâu với ta.

Khó dễ chuyến này qua đất khách,

Sẵn lòng trung tín chẳng phai nhòa.

Thăm hỏi khắp nơi mừng có bạn,

Tâm tình chia xẻ nỗi xông pha.

HỌA ĐÁP VŨ CÔNG BỘ

Việt thủy Yên Sơn viễn giá nhân,

Mai đình tràn vịnh nhất ban xuân.

Nhân sinh tế ngộ đa phi ý,

Quân tử giao du cửu tất thân.

Thử khứ hiểm di kinh khách lộ,

Bản lai trung tín tráng ngô thân.

Chu tu thả hỷ liên chinh duệ,

My cổ tình hoài bán tiệt phân.

            Bài Thương Ngô Giang Thứ. Nguyên dẫn : Ở phía thành Ngô Châu có ba dòng sông hợp lại. Nơi đây thuyền bè tấp nập, hàng hóa chất đầy. Bãi nổi giữa sông là nơi giáp giới của Lưỡng Quảng. Trong thành có các dinh thự của Tổng Trấn, phủ huyện, và có cả hành dinh của Tổng đốc. Phong cảnh ở đây phồn hoa tráng lệ. Sứ bộ của ta vào hội yến xong bèn nhổ neo thuận dòng xuôi xuống phía Đông.. Nghe nói ở Thương Ngô có tám cảnh đẹp mà chưa có dịp nào tới thăm.

 Trên ba dòng sông Kiều Giang, Uất Giang và Quế Giang (thuộc tỉnh Quảng Tây ngày nay) thuyền bè đỗ san sát ở góc thành. Đây là châu phồn hoa nhất miền nam núi Ngũ Lĩnh. Đồng hoang này tục truyền là nơi ngày xưa vua Thuấn tuần thú. Vua Thuấn băng hà ở cánh đồng Thương Ngô, nay còn phần mộ ở núi Cửu Nghi. Một thuyết khác lại cho rằng mộ vua Thuấn ở núi Thương Ngô biên giới Vĩnh Châu. Mây chiều gợi nhớ chuyện Lã Tiên đi chơi. Tương truyền Lã Đồng Tân hiệu Thuần Dương, người đời Đường gặp loạn Hoàng Sào đem gia quyến đến núi Chung Nam và tu tiên đắc đạo. Cảnh sóng trên sông đâu cũng có điều mới lạ. Câu này nhắc đến câu thơ Thôi Hiệu bài Hoàng Hạc Lâu : Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai ? Coi trọng việc ứng thù mỗi khi dự tiệc. Dấu vết nổi tiếng mà chưa có dịp viếng thăm tám cảnh đẹp : Tiêu Tương bát cảnh gồm : Bình sa lạc nhạn(bãi cát núi Hồi Nhạn,) Sơn thị tình lam (Chợ núi trong sương), Viễn phố quy hàm (Thuyền về phố xa), Động Đình thu nguyệt (Trăng thu hồ Động Đình), Giang biên mộ tuyết (Tuyết rơi trên bờ sông), Tiêu Tương dạ vũ ( Đêm mưa trên sông Tiêu Tương), Ngư thôn tịch chiếu (Xóm chài trong nắng chiều tàn) Sơn tự hàn chung (Tiếng chuông trên núi lạnh vọng về). Dòng sông cuồn cuộn chảy về phía Đông như đuổi theo thuyền nhẹ.

  BÊN SÔNG THƯƠNG NGÔ

Ba sông thuyền đỗ sát bên thành,

Đây phố phồn hoa nhất Lĩnh Nam,

Đồng nội tương truyền Nghiêu Đế đến,

Mây chiều gợi  cảnh Lã Tiên rong.

Khói mây đâu cũng khơi niềm nhớ.

Chén rượu đáp đền trọng tiệc văn.

Danh tích tiếng đồn vang Bát Cảnh,

Dòng sông cuồn cuộn thuyền về Đông.

THƯƠNG NGÔ GIANG THỨ

Tam giang phàm tiếp ỷ thành ngu,

Lĩnh ngoại phồn hoa đệ nhất châu.

Thương dã truyền văn Nghiêu Đế thú,

Mộ vân tưởng tượng Lã Tiên du.

Yên ba đào xứ tần thu thưởng,

Quan bội  lâm diên trọng ứng thù.

Danh tích vị do tầm bát cảnh,

Thao thao đông thủy trục kinh châu.

            Tại công quán thành Quảng Châu,  nhân ngày giỗ thân mẫu và kỳ tế lễ tang thân phụ, ông viết: Xe dừng lại ở lầu viện nơi phồn hoa, Lòng nhớ quê của kẻ đi xa xiếc bao nỗi xúc động. Ba chục năm  mẹ mất, nay chiêm bao thấy mẹ. Ngoài chín ngàn dậm làm người mang áo tang. Chưa đền đáp được mảy may công ơn người trước. Luống thẹn tấm thân áo mũ ngày nay. Ngắm mây sớm phương Nam giờ lâu. Trong tiệc, bấc giác khách nhíu lông mày xúc động.

Ở  CÔNG QUÁN THÀNH QUẢNG CHÂU

gặp ngày giổ thân mẫu, lại gặp kỳ tế lễ mùa hạ thân phụ, dậy sớm cảm tác.

Xe dừng lầu viện đất phồn hoa,

Xúc động xiếc bao nỗi nhớ nhà.

Ba chục năm nằm mơ thấy mẹ,

Chín nghìn dặm lẽ giỗ tang cha.

Chưa đền đáp được công tiên tổ,

Luống thẹn áo xiêm tủi phận ta.

Ngắm mây sớm tự phương Nam lại,

Trong tiệc đôi mi khách nhíu sa.

QUẢNG THÀNH CÔNG QUÁN  

cung trị tiên tỷ húy thần, hựu phụng tiên khảo hạ tế lễ tào khởi cảm tác.

Phồn hoa lầu viện trú chinh luân,

Du tử hương tâm bội cảm thần.

Tam thập niên lai huyên thất mộng,

Cửu thiên lý ngoại luyện thôi nhân.

Vị năng trần chích thù tiên trạch.

Hư quý hiên thường hữu thử thân.

Nam cực hiểu vân ngưng miện cửu,

Quỳnh diên bất cấm khách mi tần.

            Động Quan Âm ở huyện Anh Đức, xứ Việt Đông. Nhà sư chất đá làm nền sàn trông xuống dòng sông. Trước cửa có treo biển đề: ‘Thủy nguyệt thiền cung.’ (Cung thiền trăng nước).  Sứ đoàn ghé lại thăm.

Núi trống ở cửa sông, lối xanh thăm thẳm. Điện thờ Quan Âm đường cao chênh vênh. Đèn toà sen dọi qua khe cửa hở tới hang mây. Chữ triện trên bia đầy rêu dựa vào bóng núi. Trời đất trong hang động không dấu vết trần tục. Trăng nước trong rèm in tấm lòng thiền. Ngẫu nhiên đến cõi Phương Hồ thanh u. Theo sách Thập di ký ngoài biển có ba quả núi tiên ở là : Bồng Doanh, Phương Trượng, Bích Hải. Phương Hồ là Phương Trượng. Có câu thơ Lã Đồng Tân:  Bồng Lai, Phương Trượng cao cao, Sáng chơi Bích Hải, chiều vào Thương Ngô. Muốn treo cái roi ngựa đi xa để ngâm nga thoải mái. Muốn không  còn nghĩ đến  việc đi sứ để ngâm vịnh cho thoải mái.

  CHƠI ĐỘNG QUAN ÂM

Núi trống cửa sông lối thẳm xanh,

Quan Âm điện các đường chênh vênh.

Đèn tòa sen chiếu hang mây dọi.

Bia triện chữ rêu bóng núi nghiêng.

Trời đất động không lưu dấu tục,

Nước trăng rèm rũ tấm lòng thiền.

Ngẫu nhiên được ngắm Phương Hồ cảnh,

Muốn vất roi song để hát ngâm.

DU QUAN ÂM NHAM

Giang khẩu không nham mục kính thâm,

Tha nga sạn các phụng Quan Âm.

Khâm đăng khích chiếu xuyên vân đậu,

Bi triện đài man ỷ thạch âm.

Động lý khiến khôn vô tục tích.

Liêm tiền thủy nguyệt ấn thiền tâm.

Thanh u ngẫu đáo Phương Hồ cảnh,

Dục quải chinh tiên nhất sướng ngâm.

            Chùa Phi Lai ở hẽm núi Ngung thuộc huyện Thanh Viễn tỉnh Quảng Đông. Có thác nước từ vách đá dựng đứng đổ xuống, gác cao soi bóng xuống dòng nước. Tương truyền đời nhà Lương, một đêm gió bão sấm chớp nổi lên dữ dội, rồi ngôi chùa xuất hiện nhân đó đặt tên cho chùa là Phi Lai. Có câu chuyện nói về hai vua Ngung và con vượn trắng. Ngay ở giữa gian giữa chùa có bàn thờ vua, có biển đề ‘vạn tuế ‘. Một số sĩ phu nhà Thanh tiễn đưa, dẫn sứ bộ ta đến thăm chùa. Tới trước bàn hành lễ vái lạy. Họ cứ yêu cầu các sứ thần làm thơ. Tôi viết xong bài thơ đưa cho viên Tổng Đốc Quảng Đông. Liền được họ sai  thợ đá khắc bài thơ này trên vách núi  chùa Phi Lai.

            Hồi chuông chậm rãi từ lầu chuông trên núi rơi xuống eo sông. Ánh sáng tốt lành bao quanh đài Phạm Vương. Đài Phạm Vương là nơi thờ Phật. Nước thác đổ ngỡ sông Ngân Hà chảy xuống.  Chùa bay tương truyền sấm nửa đêm đem đến. Dấu tích nêu cao ở ngoài cõi Âu Việt.  Phái Thiền tính ngược đến Bồ Đề Đạt Ma: Tổ thứ 28 truyền từ  đại Đệ tử của Đức Phật là Ca Diếp, người Tây Trúc, thế kỷ thứ  VI, đời Lương Vũ Đế sang Trung Hoa thuyết pháp. tại chùa Thiếu Lâm trên núi Tung Sơn, được tôn là Thiền Tông đệ nhất tổ.  Leo lên cao càng mừng được gần đóa mây hồng. Muốn đem chén rượu dâng lên trước tấm biển đề  ‘vạn tuế ‘

ĐỀ CHÙA PHI LAI

Gác núi chuông vang lạnh nước sông,

Phạm Vương đài sáng bóng từ quang.

Núi  trào thác đổ dòng  Ngân chảy,

Đêm Ngọc chùa bay tiếng sóng ầm.

Âu Việt nêu cao danh dấu tích,

Đạt Ma truyền xuống lối Thiền tông.

Gần đám mây hồng mừng thưởng cảnh,

Chén quỳnh vạn tuế muốn đem dâng.

ĐỀ PHI LAI TỰ

Sơn các sơ chung lạc thủy ôi,

Tường quang liệu nhiễu Phạm Vương đài.

Bộc tuyền nghi xuất tinh hà thủy,

Phi tự truyền văn bán dạ lôi.

Địa tích cao tiêu Âu Việt ngoại,

Thiền gia thượng tố Đạt Ma lai.

Tê phan cách hỷ hồng vân cận,

Vạn tuế bài tiền dự phụng bôi.

            Cờ sứ còn đang dùng dằng, thì cảnh khói sông lại tăng thêm nỗi buồn cho kẻ đi xa. Thuyền tiên lênh đênh. Cây mùa xuân với mây buổi chiều những an ủi niềm tưởng nhớ cố nhân. Dựa lan can  cảm khái viết mấy lời. 

            Kết bạn với Đoàn Nguyễn Tuấn từ hai mươi năm, chẳng hề sai trái. Đường đời từng trải bao sóng gió. Dãi mũ bụi có lẽ ta thua kém ông.(Ý nói trong cõi trần tục thì ta còn kém ông một bước) Vườn hoa chẳng phải ông đã phụ với tổ cũ. Họ Đoàn hồi ở quê hương Quỳnh Hải có làm cái chòi trong vườn hoa nhà mình gọi là phong nguyệt sào (tổ gíó trăng) ngâm vịnh trong đó, tự hiệu là Sào Ông.  Làm khách vẫn thẹn không nặng bằng ba kẻ sĩ. Vua nước Triệu đi triều cống nước Tần, chọn bọn Quí Lương đi theo và nói : Ta có ba kẻ sĩ đủ làm cho nước Triệu có sức nặng. Bạn bè hãy nhường giá cao cho một người bạn. Ta có ba người bạn, chỉ có Nguyễn Chi Phong là người phóng khoáng nhất. Sống về Ải  ngọc (Nam Quan) sớm tìm nhàn hạ. Trong cảnh điền viên chưa chắc giải thích về lời chế nhạo. Tích Dương Hùng nhà Hán viết Kinh Thái Huyền, người thời bấy giờ cười ông, ông viết bài Giải trào (giải thích lời chế diễu). Ý câu thơ nói trở về sống với cảnh điền viên cũng chẳng cần giải thích gì nữa mặc dù có tiếng cười của người đời.

GHI CẢM HOÀI GỬI QUAN HÀN LÂM HỌ ĐOÀN

Hai mươi năm bạn chẳng đơn sai.

Sóng gió từng qua với cuộc đời.

Dãi mũ bụi vì ta kém bạn,

Vườn hoa chẳng phụ với ngôi chòi.

Thẹn không bằng khách ba hiền sĩ,

Nhường giá cao cùng một bạn thôi.

Nhàn hạ mai về qua ải ngọc,

Điền viên chưa chắc đã nên lời.

THƯ HOÀI GIẢN ĐOÀN HÀN LÂM

Nhị thập niên tiền mạc nghịch giao,

Thế đồ canh lịch kỷ phong đào.

Trần anh tự ngã thâu tiên trườc,

Hoa ổ phi quân phụ cố sào.

Tác khách hoàn tu tam sĩ trọng,

Đồng minh thả nhượng nhất nhân cao.

Ngọc quan sinh nhập qui nhàn tảo,

Vị tất viên lâm khẳng giải trào.

            Bảy ngày trong quán khách được Án sát họ Trương tỉnh Quảng Đông đãi ngộ chu đáo, trên đường sông nghìn dặm được ông làm bạn đồng hành. Cuộc gặp gỡ đẹp như sao như phượng, cảm xúc về sự hợp tan như móng chim hồng trên tuyết, tạm mượn vài  lời để tỏ chút tình thân mến.

            Mang ngọc báu đến nơi, hai ba lần phiên dịch. Ở Phong Xuyên  (Quảng Đông), nghe ca tụng bóng cây cam đường (vị quan chân chính). Đã lâu ngóng ơn trạch thiên vương đối xử ân cần. Mới biết lòng người chủ địa phương tiếp đãi tử tế.  Sông Triệu lặng sóng, mái chèo lan lướt gần. Núi Thiều lộng gió bóng áo gấm đi tới. Lúc chia tay ngước nhìn chòm sao thai rực sáng. Mong sớm có chim hồng báo tin mừng. Móng chim hồng, chữ  ‘nê hồng’  từ  câu  thơ Tô Đông Pha : Phù sinh đáo xứ tri hà tự ? Cáp tự phi hồng đạp tuyết nê. (Kiếp phù sinh giống như gì nhỉ ?  Giống hệt dấu hồng dẫm tuyết rơi.)

ĐẬU THUYỀN Ở SÔNG PHỦ THIỀU CHÂU

Làm thơ tiễn quan Án sát họ Trương tỉnh Quảng Đông về trị sở.

Phải dịch ba lần ngọc báu dâng,

Phong Xuyên đông tới tiếng Cam đường,

Đã lâu trông ngóng ơn vua tốt,

Mới biết lòng ngay lộc chủ ban.

Sông Triệu sóng êm chèo lướt đến,

Núi Thiều lộng gió áo thong dong.

Chia tay trong bóng sao Thai sáng,

Mong sớm được tin bóng nhạn hồng.

THIỀU CHÂU GIANG THỨ PHỤNG TIỂN QUẢNG ĐÔNG TRƯƠNG NIẾT ĐÀI HỒI TRỊ

Thị dịch trùng tam khác phụng sâm,

Phong xuyên đông hạ tụng đường âm.

Nhu hoài cửu ngưỡng thiên vương trạch,

Khoản ngộ tương tri địa chủ tâm.

Triệu thủy ba trừng lan trạo nhĩ,

Thiều sơn phong động tú y lâm.

Phân kỳ kiểu phán thai triền lãng,

Tảo hữu hồng thiên báo hảo âm.

            Đi qua huyện Cát Thủy nơi sinh Văn Thiên Tường hiệu Vân Sơn, đỗ Trạng Nguyên, làm tể tướng triều Tống là nhà yêu nước vĩ đại, viết bài Chính Khí Ca trong ngục tù Nguyên Mông.            Huyện Cát Thủy nổi tiếng nơi sinh bậc hiền tài. Trời đem chính khí hun đúc cho Vân Sơn. Làm Trạng nguyên, Tể tướng nặng gánh cương thường. Lại gặp Hoàng Phạm, Toa Đô sự thế khó khăn. Hoàng Phạm họ Trương người Hán theo quân Mông Cổ được ban tên là Bạt Đô và phong làm Nguyên soái. Toa Đô là trướng bị quân nhà Trần bắt sống ở cửa Hàm Tử.. Văn Thiên Tường  gặp phải kẻ thù lợi hại nên tình thế khó khăn. Không ngại để gương nghĩa liệt trong sử xanh. Đâu đành an nhàn tạm bợ đội mũ vàng qui ẩn. Lòng cô trung sáng mãi trong trời đất. Khiến kẻ xu thời theo sóng phải thẹn mặt.

QUA HUYệN CÁT THỦY

VIẾNG VĂN THỪA TƯỚNG

Đất phát danh hiền đây Cát Thủy,

Trời đem chính khí đúc Văn Sơn.

Trạng Nguyên Tể Tướng cương thường gánh,

Hoằng Phạm, Toa Đô thế khó khăn.

Nghĩa liệt tấm gương soi sử sách,

An nhàn đâu dám mặc non sông.

Lòng trung sáng mãi trong trời đất,

Khiến kẻ xu thời hổ tấm thân.

KINH CÁT THỦY VÃN VĂN THỪA TƯỚNG

Địa xuất danh hiền xưng Cát Thủy,

Thiên tương chính khí dục Văn Sơn.

Trạng nguyên, Tể tướng cương thường trọng,

Hoằng Phạm, Toa Đô sự thế nan.

Thanh hãn bất phương lưu nghĩa liệt,

Hoàng quan phi cẩu  nguyện an nhàn.

Cô trung chiếu yết càn khôn cửu,

Ba lãng trung nhân nhất hãn nhan.

            Núi Đại Dĩu ở giáp giới tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, trên núi có cây mai xanh tốt, cành lá um tùm như rừng nên gọi là núi Mai Lĩnh (núi Mai). Trên núi có đường đá vắt ngang, suối  chảy xung quanh, vượn khỉ kêu trong bụi cây. Tương truyền bầy nhạn bay đến đó thì quay trở lại, trên vách đá có khắc chữ “nhạn hồi nhân viễn “ (nhạn quay trở lại, người đi xa) “hải thiên nhất tuyến“ (biển trời một tuyến), “nam thiên tỏa thược “ (then khóa trời nam ). Vị trí tỉnh Quảng Đông ở ngoài Ngũ Lĩnh. Đời Đường có Trương Cửu Linh người Việt Đông làm đến Tể Tướng mới mở con đường này. Từ đó thành đường thông xe ngựa, dân địa phương đi lại thuận tiện. Trên núi có miếu thờ Trương Cửu Linh. Thuyền đi tới phủ Nam Hùng, sứ bộ ta phải trèo núi, từ thành phủ Nam An lại đi đường sông.

            Nghe địa dư chí có nói cây mai ở núi Đại Dĩu. Nay cầm cờ sứ từ đường xa đến. Gốc cây gầy gò mà xanh tốt lan ra khắp rừng. Thơ Lục Du gọi cây mai là cố tiên, vị tiên gầy. Bậc đá lạnh cao chót vót, xẻ núi mở ra. Suối đá bốc hơi mát, vượn kêu buổi chiều. Biển trời trông man mác, chim nhạn bay trở lại. Phong độ của Khúc Giang nêu cao nghìn thuở. Huyện Khúc Giang là quê hương Trương Cửu Linh, Tể tướng thời nhà Đường là người có tài năng khí phách, nên người đương thời gọi là Khúc Giang Công mà không gọi tên thật.. Miếu thờ Trương ở núi Dĩu Lĩnh có bài minh ca tụng công đức của ông. Bia  viết bài minh rêu phủ, vạch rêu xem lời.

QUA NÚI MAI LĨNH

Rừng mai Đại Lĩnh địa dư truyền,

Đường xa cờ sứ ghé qua thăm.

Gầy gốc cây xanh, lan khắp núi,

Lạnh lùng cầu đá mở non sông.

Vượn kêu chiều xuống vương khe lạnh,

Nhạn liệng bay về trời mác man.

Phong độ Khúc  Giang cao vạn thuở,

Vạch rêu lam đọc tấm bia xanh.

DU MAI LĨNH

Dư chí truyền văn Đại Dĩu mai,

Vu đồ kim ủng sứ tinh lai.

Cố căn thông uất mạn lâm trưởng,

Hàn đẳng thiều nghiêu tiệt lĩnh khai.

Tuyền thạch sinh lương, viên khiếu vãn,

Hải thiên diếu vọng nhạn phi hồi.

Khúc Giang phong độ cao thiên cổ,

Tự dịch bi minh toả lục đài.

Gác Đằng Vương ở ngoại thành Giang Tây, bài tựa của Tử An (Vương Bột) khắc trên vách phấn. Trong thành có cái đầm sâu nước lạnh, phong cảnh hoa lệ, có tên “Nam châu hoa đảo “ (Đảo hoa Nam Châu). Các dinh thự quan tỉnh và nha môn phủ huyện, phố phường đều vây quanh bốn mặt đầm. Từ dưới gác ngang sông đến bờ phía đông là con đường chính.

Mái hiên chót vót nhìn xuống dòng nước xanh. Bài tự Đằng Vương Các tự của Vương Bột rực rỡ như ánh sao Đẩu. Núi sông thu vào văn bút thần đồng, nhân tiết  trùng cửu (mồng 9 tháng 9) đô đốc họ Diêm thết tiệc và thi thơ ở gác Đằng Vương để khoe tài thơ con rể. Vương Bột mới 16 tuổi trên đường thăm cha tại Giao Châu, tình cờ dừng thuyền liền vào dự thi, trong bữa tiệc ông làm bài Đằng Vương Các tự nổi tiếng chiếm giải nhất.

             Xưa nay còn truyền lầu Đế tử. Lầu do  Lý Nguyên Anh, con vua Đường thụ phong là Đằng Vương, dựng gác trên cửa sông Tây Giang. Thuyền  xe muôn dặm xuyên qua bãi rau liễu. Loại rau có mùi cay thơm như rau răm mọc ở mé nước, qua lại dưới gác Đằng Vương đặt tại mé sông. Hoa cỏ quanh năm rợp một vùng, nơi này có tên là Nam Châu hoa đảo. Tình cờ nối  gót nghe dấu ngọc loan rung. Thơ Vương Bột có câu: rung nhạc loan mang ngọc bội,  đi ngựa và mặc trang phục lộng lẫy.

ĐỀ ĐẰNG VƯƠNG CÁC

Chót vót lầu cao soi nước xanh,

Thơ như sao Đẩu sáng long lanh.

Núi sông thu lại thần đồng bút,

Kim cổ xây lầu, đế tử truyền.

Vạn dậm xe thuyền qua bến liễu,

Bốn mùa hoa cỏ khói mây xuyên.

Thuyền sứ được nhờ cơn gió thuận,

Ngẫu nhiên nối gót, nhạc chim rung.

ĐỀ ĐẰNG VƯƠNG CÁC

Nguy nghiệp tằng thiềm hám bích lưu,

Tự văn thôi sản đẩu quang phù.

Giang sơn tận thuộc thần đồng bút,

Kim cổ do truyền đế tử lâu.

Vạn lý chu xa xuyên liễu phố,

Tứ thời yên thụ trữ hoa châu.

Tinh sà bất giả huân phong tiện,

Ngẫu tục minh loan bội ngọc du.

Đới Cù Hanh, người huyện Đại Dĩu tỉnh Giang Tây, đỗ Trạng nguyên năm Mậu Tuất (1778), làm quan Hàn Lâm tu soạn, xin nghỉ về làng, hiện đang ở thành Giang Tây. Ông cùng các vị quan ở địa phương đến nhà công quán hội họp, lời nói, nét mặt ôn nhã. Có hai bài thơ đề chùa Tâm Lan đưa cho sứ thần xem, tôi nhân đó làm bài thơ này tặng lại.

Cưỡi ngựa kỳ ngựa lạc từ nước ngoài vào Trung Nguyên. Ngựa kỳ là ngựa màu xanh đen, ngựa lạc là ngựa bạch. Thơ Hoàng Hoa trong Kinh Thi có câu Kỳ lạc tuân tư nói việc nhà vua sai sứ thần đi thăm hỏi nước láng giềng. Ở đây chỉ việc đi sứ. Gặp Trạng nguyên như ngôi sao, như chim phượng hoàng trên đời. Chùa Tâm Lan câu thơ hay sao họa được . Chốn Ngọc đường (dinh thự Viện Hàn Lâm) không thẹn viết chiếu vua. Nhìn tận mặt nụ cười ánh mắt, kính bậc hiển đạt. Biết sớm đem phong độ mưu mô giúp đấng chí tôn. May mắn được biết họ Hàn lòng thêm ngưỡng mộ. Điển Lý Bạch viết thư cho Hàn Kinh Châu ( Hàn Triêu Tông): Tôi nghe sĩ phu  thiên hạ nói với nhau rằng : Bất nguyện nhân gian vạn hộ hầu, Đán nguyện nhất thức Hàn Kinh Châu (Không mong được vạn hộ hầu trên thế gian, chỉ mong được gặp ông Hàn Kinh Châu một lần) do đó người ta dùng chữ thức Hàn để chỉ việc gặp người giỏi. Trong ánh sang văn chương được chiêm ngưỡng sao Khuê. Sao chủ việc văn chương, ý tán dương văn chương họ Đới.

TẶNG TRẠNG NGUYÊN HỌ ĐỚI

Xứ ngoài cỡi ngựa vào Trung Nguyên,

Như phượng, như sao gặp Trạng nguyên.

Thơ tuyệt chùa Tâm sao họa được,

Chiếu vua điện Ngọc thảo lời truyền.

Mắt nhìn tận mặt người vinh hiển,

Mưu chước sớm đem giúp chí  tôn.

May gặp họ Hàn thêm ngưỡng mộ.

Sao Khuê được thấy ánh văn chương.

TẶNG ĐỚI TRẠNG NGUYÊN

Hải bang kỳ lạc nhập Trung Nguyên,

Nhân thế tinh hoàng kiến Trạng nguyên.

Lan tự hà năng canh tảo cú,

Ngọc đường vổ thiểm diễn luân ngôn.

Cân môn tiếu mện khâm hiền đạt,

Tảo bá phong du bậc chí tôn.

Yêu hạnh thức hàn tăng duyệt mộ,

Vãn quang trừ thị ngưỡng Khuê văn.

            Ngày 8 tháng 6, từ Giang Tây, liên tiếp được chiếu chỉ : Đến ngày 10 tháng 7 tới bệ kiến(vua Càn Long) tại khu nhà nghỉ  mát ở sơn trang (Nhiệt Hà – Chende). Bèn đi gấp không kể ngày đêm, những đường phố đoàn đi qua, dân chúng kéo ra vây quanh xe kiệu để xem, người đến mỗi lúc một đông. Trên đường những nhà hiếu nghĩa, tiết hạnh, khoa hoạn đã được khen phong đều dựng bia ghi khắc ở trên miếu trên mộ. Những nơi cổ tích cũng đều có bia để lại có thể khảo cứu được.

            Trải qua đường sông, lại đường bộ. Bên khóm cây dương xanh nghe tiếng chim đa đa. Đến bệ kiến nơi sơn trang trong mùa thu, mệnh vua rạng rỡ. Người phu trạm đưa đường ngày đêm không nghỉ. Những dãy bia ngất ngưỡng để lại lời xưa. Các phố xá huyên náo rực rỡ bóng cờ. Trải qua bao gió bụi, hai mái tóc rối bời. Luôn luôn gửi tâm tình vào nơi núi khe.

ĐI SỚM TỪ GIANG TÂY

Đi hết đường sông lại đất bằng,

Khóm dương nghe tiếng đa đa vang.

Sơn trang bệ kiến, thu rạng rỡ,

Phu trạm đưa đường, chẳng nghỉ chân.

Ngất ngưỡng miếu bia lời để lại.

Ồn ào phố chợ bóng cờ tung.

Trải bao gió bụi đôi bờ tóc,

Còn gửi sơn khê một nỗi lòng.

GIANG TÂY KHỞI TẢO

Lịch thiệp giang trình, hưu lục trình,

Lục dương tùng bạn giá cô thanh.

Thu trang kiến giá ty luân bí,

Dịch sứ truyền bưu trú dạ tinh.

Ngột nghiệp bi phường trưng cổ chí,

Huyên điền cù mạch diệu hành tinh.

Phong ai lạc lạc phong bồng mấn,

Thời dữ nham khê nhất trí tình.

            Sứ đoàn dừng chân tại thành Cửu Giang, tỉnh Giang Tây  được chủ lữ quán là Lã Triệu Tường tiếp đãi ân cần. Phan Huy Ích viết lời thơ tặng ông.

            Thấy đầy hoa chỉ hoa lan biết là nhà bạn tốt. Sách Gia Ngữ ghi lời Khổng Tử : Dữ thiện nhân cư như nhập chi lan chi thất.(Ở với người thiện như vào nhà có cỏ chi cỏ lan) trong thi ca ý nói mình làm bạn được với người tốt. Mùi thơm mát nuôi dưỡng tấm lòng hư không. Gặp thú trăng gió có danh thiếp mời treo nơi khung cửa. Tìm lời thánh hiền có  thêm sách dựng trên giá. Đỗ Cống sinh, chút đã đền bù công học kinh điển nhà nho. Tiếp tân khách riêng mến mộ sau những buổi bút đàm. Đêm mưa ở Tầm Dương được gặp sau cuộc thơ. Thật khiến cho lòng người thêm sảng khoái. Tầm Dương tên quận thuộc huyện Cửu Giang tỉnh Giang Tây, nơi Bạch Cư Dị tiễn khách tỏ lòng lưu luyến .

HỌA THƠ TẶNG CỐNG SINH LÃ TRIệU TƯỜNG

CHỦ QUÁN THÀNH CỬU GIANG

Lan chỉ đầy nhà biết bạn hiền,

Mùi thơm nuôi dưỡng tấm lòng trong.

Gió trăng gặp thú, thư treo cửa,

Hiền thánh tìm lời, sách dọc hiên.

Đỗ đạt cống sinh đền học vấn,

Tiếp tân khách mới, bút hàn huyên.

Tầm Dương mưa xuống đêm thơ bút,

Thật khiến cho lòng sảng khoái thêm.

HỌA TẶNG CỬU GIANG THÀNH QUÁN CHỦ CỐNG SINH LÃ TRIệU TƯỜNG

Mãn thất chi lan kiến thiện cư,

Thanh phân dưỡng đắc, thử tâm hư.

Hội phong nguyệt thú, huyền my thiếp,

Cầu thánh hiền ngôn, sáp giá thư.

Bạt cống sảo thù kinh học tố,

Tiếp tân thiên luyến, bút đàm dư.

Tầm Dương vũ dạ phùng thi trận,

Chân hảo linh nhân tứ sáng như.

            Đình Tỳ Bà ở bên sông, phía tây huyện Cửu Giang tỉnh Giang Tây. Khi nhà thơ Bạch Cư Dị đời Đường bị biếm đi làm chức Tư Mã ở Giang Châu, ban đêm tiễn khách trên sông Tầm Dương, nghe thuyền bên có người con gái gảy đàn tỳ bà mà hát, nhà thơ cảm xúc viết bài Tỳ Bà Hành. Đời sau người ta xây đình Tỳ Bà bên sông Tầm Dương để kỷ niệm nhà thơ với áng  thơ tuyệt tác. Phan Huy Vịnh có dịch bài Tỳ Bà Hành thật tuyệt. Đoạn kết bài Tỳ Bà Hành có câu: Tọa trung khấp hạ thủy tối đa, Giang Châu Tư Mã thanh sam thấp. Lệ ai chan chứa hơn người. Giang Châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.

            Giọt châu cô gái đẹp nhỏ xuống trên phím đàn tranh bạc. Nhờ gửi chàng áo xanh, dựa mái chèo lắng nghe. Lưu lạc chân  trời chung niềm cảm khái. Bồi hồi đêm trăng một khúc ca hành. Khói nước Cửu Giang bao người bị biếm truất tới. Cửu Giang là một khúc sông Trường Giang, cũng gọi là sông Tầm Dương tên một huyện thuộc tỉnh Giang Tây. Phong lưu nghìn thuở riêng chiếc đình nhỏ này. Đầu bến cỏ thơm lòng khách đi xa man mác. Người lái đò gãy cây đàn hai dây tiếng nghe thanh thót.

QUA SÔNG TẦM DƯƠNG TRÔNG ĐÌNH TỲ BÀ

Giai nhân nhỏ lệ phím đàn tranh,

Dựa mái chèo nghe, chàng áo xanh.

Luân lạc chân trời nghe cảm khái,

Bồi hồi trăng sáng khúc ca hành.

Cửu Giang khói sóng say lòng khách,

Muôn thuở phong lưu một mái đình.

Đầu bến cỏ thơm man mác tứ.

Thuyền ai thánh thót hai dây tình.

ĐỘ TẦM DƯƠNG VỌNG TỲ BÀ ĐÌNH

Danh oa châu trích tống ngân tranh,

Bằng ký thanh sam ỷ trạo thanh.

Luân lạc thiên nhai đồng cảm khái,

Bồi hồi nguyệt dạ hữu ca hành.

Cửu giang yên thủy đa thiên khách,

Thiên cổ phong lưu độc đoản đình.

Phương thảo độ đầu chinh tứ diểu,

Chu nhân khiêu bát nhị huyền thanh.

            Bâng khuâng trên cỗ xe đi xa, trăm mối cảm hoài. Gió ngọn thông sát bờ sông hòa cùng tiếng sóng. Quên cơ tâm làm sao giống được chim âu nằm trên bãi cát. Sách Liệt Tử viết: Người miền biển có kẻ thích chim âu, mỗi sớm ra biển chơi với chúng, chúng kéo đến hàng trăm con. Bố người ấy bảo rằng: Ta nghe nói chim âu bay đến chơi với người, hãy bắt nó về đây cho ta xem. Sáng hôm sau người con ra biển, chim âu bay múa trên không mà chẳng có con nào đáp xuống. Theo Liệt Tử chim âu là loài không có cơ tâm, tức trong lòng không có mưu đồ. Nhiễm thói đời, khác nào như chim thước cho mượn tổ. Kinh Thi, thơ Thước sào có câu: Chim thước có tổ, chim cưu đến ở. (Duy  thước hữu sào, duy cưu cư chi) Trạng thái sự vật chẳng cùng như mây biến ảo. Lòng nhớ quê hương những sánh vầng trăng cô đơn. Khói sương đất khách làm cho người già đi. Trông gương râu trắng như hoa, bóng cũng đùa cợt.

 GHI CẢM HOÀI ĐÁP VŨ CÔNG BỘ

Trăm mối cảm hoài xe sứ ra,

Bờ sông tiếng sóng gió thông hòa.

Lòng an chẳng được, âu trên cát,

Đời thói khác chi, thước mượn nhà.

Vạn vật chẳng cùng mây biến ảo,

Quê hương nhung nhớ ánh trăng qua.

Khói sương đất khách, thân già cỗi,

Bóng cũng đùa gương, râu trắng hoa.

THƯ HOÀI ĐÁP VŨ CÔNG BỘ (VŨ HUY TẤN)

Tỷ ỷ chinh dư bách cảm giao,

Tùng phong giáp ngạn hưởng bôn đào.

Vong cơ na tự âu miên chử,

Mỗi tục ninh phi thước tả sào.

Vật thái mạc cùng vân biến ảo,

Hương tâm không đối nguyệt cô cao.

Khách trình yên vụ thôi nhân lão,

Kinh lý hoa nhiêm ảnh diệc trào.

            Đình Pha Tiên ở trên núi  Xích Tỵ phía ngoài thành huyện Hoàng Cương, ngôi đình xây dựa vào núi, rường cột hoa lệ, bức bình phong bằng gỗ khắc hai bài: ‘Tiền Hậu Xích Bích’. Vách đá khắc hình Tô Đông Pha, hai bên khắc cây mai cây trúc và bài đề  Vịnh mai trúc của ông.

            Tô Đông Pha (Tô Thức) là người hào hoa phóng khoáng, người đời gọi là Pha Tiên.  Sứ đoàn dừng chân  đi chơi đình Pha Tiên, nơi Tô Đông Pha viết hai bài thơ Tiền Hậu Xích Bích.

            Gác núi dựa bên thành, nhìn xuống bãi nổi quanh co. Mọi người nói ngôi đình Xích Tỵ là của Pha Tiên. Bức tượng trang nghiêm tao nhã còn lưu ở vách núi cao. Bài phú cổ rực sáng vẫn rọi trên bức bình phong vuông. Không vì cầm bút cười hoa cúc vàng. Thì sao có thuyền chỡ rượu linh lục. Linh lục là một thứ rượu ngon, hai câu 5, 6 này nhắc lại chuyện thơ giữa Vương An Thạch và Tô Đông Pha. Khi Vương đi Hàn Châu trở về có làm hai câu thơ: Tây phong tạc dạ quá viên lâm,Suy lạc hoàng hoa mãn địa câm. Gió Tây đêm trước thổi rừng cây, Làm rụng cúc vàng mặt đất đầy. Tô Đông Pha đến chơi, đọc xong liền viết hai câu thơ hàm ý chỉ trích quan Tể Tướng: Hoàng hoa bất cộng mai hoa lạc,Thuyết dữ thi nhân tử tế ngâm.Cúc vàng không giống hoa mai rụng. Khuyên nhủ nhà thơ nghĩ lại xem. Tể tướng Vương An Thạch thấy vậy, cho Tô Đông Pha kiến thức còn hẹp nên đày Tô đến trấn nhậm đất Hoàng Châu. Trên đường tới nơi  bị biếm truất nhà thơ họ Tô còn chở theo thuyền rượu lục linh ngon và đồ nhắm tốt.

BUỔI CHIỀU CHƠI ĐÌNH PHA TIÊN

Góc núi bên thành nhìn bãi quanh,

Ngôi đình Xích Tỵ của Pha Tiên.

Tượng nghiêm tao nhã lưu bên vách,

Phú cổ sáng soi, vuông bức bình.

Cầm bút chẳng cười, vàng cúc rụng,

Rượu bình sao chỡ một thuyền con.

Nhớ nơi ngâm thưởng đêm thu ấy,

Vẫn tưởng người say trăng gió sông.

VÃN DU PHA TIÊN ĐÌNH

Bạng thành sơn các hám hồi đinh,

Tuân đạo Pha Tiên Xích Tỵ đình.

Nghiêm nhã di dung lưu tiểu bích,

Côn hoa cổ phú điệu hương bình.

Bất duyên phấn bút trào kim cúc,

An đắc phù chu tải lục linh.

Miến tưởng thu tiêu ngâm thưởng địa,

Giang phong sơn nguyệt túy hoàn tinh.

            Dưới đình Pha Tiên. Phan Huy Ích nhớ lại chuyện xưa: Năm Tân Sửu (1781) niên hiệu Cảnh Hưng, tôi cùng các bạn đồng liêu trong phủ thích hào hoa, nên nuôi nàng hầu, đặt ca viện để cung thưởng ngoạn. Bèn mô phỏng bài thơ nôm đề tranh Xích Bích do cố nhạc nhụ tôi (Ngô Thời Sĩ) biên soạn để phổ vào bản nhạc cho ca nữ biểu diễn. Từ năm Nhân Dần (1782) trở về sau, nhân việc nước xãy ra biến cố (vụ án Trịnh Tông), nên âm nhạc cũng bị  thôi từ lâu. Nay đến di tích Xích Bích của Tô Đông Pha, hồi tưởng việc qua mà cảm khái làm bài thơ này.

            Từng hâm mộ hào phóng của ông già Xích Bích. Thú chơi thanh nhã được phổ vào những lời gấm vóc. Gõ thuyền giọng hát sãng khoái vần thanh tao. Rửa chén tay khéo léo múa điệu cao hứng. Cuộc đời biến đổi, mười  năm làm tiêu tán việc luyện tập phổ thơ, biểu diễn âm nhạc. Đi sứ qua muôn dặm hỏi thăm dấu tiên. Bỗng nhớ kiếp phù sinh tựa như móng chim hồng trên tuyết .

DƯỚI ĐÌNH NGẪU NHIÊN CẢM XÚC

Từng mộ hào hoa Xích Bích ông,

Thanh tao gấm vóc những lời vàng.

Gõ thuyền sảng khoái vần thanh hát,

Rửa chén khéo tay điệu hứng vang.

Biến đổi mười năm tàn nhạc giáo,

Đi sứ muôn trùng hỏi dấu tiên.

Đỉnh núi ngắm mây chiều thu ấy,

Bổng nhớ phù sinh, tuyết dấu hồng.

ĐÌNH HẠ NGẪU CẢM

Hào phóng tằng hy Xích Bích ông,

Thanh du phổ nhập ỷ la tùng.

Khấu huyền dật vận ca hầu sảng,

Tẩy trản cao hoài vũ tụ công.

Thế biến thập niên huy nhạc giáo,

Sứ hoa vạn lý phỏng tiên tung.

Sơn đình diếu đảo thu vân mộ,

Hốt ký phù sinh tuyết thượng hồng.

            Do dòng sông đổi cửa, nên Xích Bích thật sự nằm ở cách cửa sông 50 Km. Do đó mà  tỉnh Hồ Bắc có đến ba địa danh gọi là Xích Bích trong vùng : Xích Bích ở trên sông về phía đông bắc huyện Gia Ngư, chiến địa Tôn Quyền và Tào Tháo. Xích Bích ở ngoại thành huyện Hoàng Cương tên là núi Xích Tỵ. Tô Thức chơi thuyền ở đấy mà ông cho là núi Xích Bích nơi Chu Lang phá Tào. Một trái núi phía đông quận Võ Xương cũng tên Xích Bích. Phan Huy Ích vào thăm miếu thờ Tô Đông Pha ở núi Xích Tỵ huyện Hoàng Cương, sau đó qua cửa sông Xích Bích, nơi Tô Đông Pha viết  Tiền Hậu Xích Bích.

            Đêm qua cửa sông Xích Bích: Cồn cát dằng dặc, lau lách thưa thớt. Điệu hò mái đẩy dưới trăng, thi tứ man mác. Chiến địa Tôn Tào trong đám khói lạnh. Ải sông miền Kinh Sở đầu mùa lũ dâng. Nước Sở thuộc địa phận châu Kinh (Kinh Châu) nên gọi ghép thành Kinh Sở, nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc. Kinh Sở lấy sông Trường Giang làm ải hiểm trở nên còn gọi là giang quan. Sông trắng cuộn ngang trời, cánh buồm gió căng phồng. Đèn đỏ bên kia sông soi bóng nhà thủy đình trống trải. Ai sẽ tiếp nối sau chuyến đi chơi của Pha Tiên. Cạnh bãi phía trước ghềnh, trơ chiếc thuyền chài ban đêm.

ĐÊM VƯỢT QUA CỬA SÔNG XÍCH BÍCH

Mênh mông cồn cát sậy lao thưa,

Dưới nguyệt điệu hò rộn tứ thơ.

Chiến địa Tôn Tào trong khói lạnh,

Ải sông Kinh Sở  lũ dâng trào.

Ngang trời sông trắng buồm căng gió,

Trống trải đình khuya đèn đỏ ao.

Theo bước Pha Tiên chơi mấy kẻ,

Lửa chài le lói trước ghềnh cao.

DẠ ĐỘ XÍCH BÍCH GIANG KHẨU

Sa chử miên diên địch vĩ sơ,

Trạo ca thừa nguyệt tứ mang như.

Tào Tôn chiến địa hàn yên lý,

Kinh Sở giang quan thịnh lạo sơ.

Bạch lãng phù không phong phạm kính,

Hồng đăng cách ngạn thủy đình hư.

Pha Tiên du hậu tương thùy tục,

Cô đỉnh tiền than hiện dạ ngư.

             Đến nhà trạm  Võ Xương gần lầu Hoàng Hạc. Phan Huy Ích gửi quốc thư về nước cho Triều đình. Ngô Thì Nhậm túc trực tại Lạng Sơn đón quốc thư để chuyển về Thăng Long.  Kèm theo quốc thư là bài thơ gửi Ngô Thì Nhậm:  Muôn dặm ruổi rong mới được nửa đường. Tóc nhuốm sầu mà sinh bạc phơ. Bóng buồm côi ngoài gác Tình Xuyên. Tiếng đoản địch trước lầu Hoàng Hạc. Nhớ lại hương thơm hoa chỉ, chung niềm chí khí. Khiến ngòi bút hoa thay nhau vịnh việc ở, đi. Một vầng trăng tròn trên thành bên sông. Tưởng cũng sáng thâu đêm ở cầu Đông. Cầu bắc ngang sông Tô Lịch phía Đông Thành Thăng Long, thường gọi là Cầu Đông bến Đá. Trong Thăng Long  tam thập vịnh có cành Đông Kiều lộng địch (Thổi sáo ở Cầu Đông). Truyện Bích Câu Kỳ Ngộ cũng có nhắc đến Cầu Đông.

 TRẠM VÕ XƯƠNG KÈM QUỐC THƯ

GỬI BINH BỘ NGÔ (THÌ NHẬM)

Muôn dậm ruổi rong mới nửa đường,

Tóc đà nhuốm bạc, mối sầu vương.

Bóng buồm ngoài cõi Tình Xuyên gác,

Tiếng địch trước lầu Hoàng Hạc vang.

Lan chỉ nhớ hương, thương chính khí,

Thay nhau ngòi bút ở  đi đồng.

Một vầng trăng sáng bên cầu vắng,

Tưởng sáng thâu đêm cầu bến Đông.

VÕ XƯƠNG DỊCH THỨ PHỤ QUỐC THƯ KÝ NGÔ BINH BỘ

Vạn lý trì khu thủy bán trình,

Phân phân hoa phát đới sầu sinh.

Tình Xuyên các ngoại cô phàm ảnh,

Hoàng Hạc lầu tiên đoản địch thanh.

Hồi ức chi hương đồng chí khí,

Phân giao tảo bút diệt cư hành.

Giang thành nhất phiến đoàn viên nguyệt,

Tưởng diệc Đông kiều triệt dạ minh.

            Sau rằm tháng sáu, đến Vũ Xương thì gặp Ngô Vi Quý từ Yên Kinh đi về, Ngô Vi Quý mang quà tặng tiếp xúc với Tể tướng Hoà Thân để chuẩn bị cuộc tiếp rước sứ bộ chính thức có vua Quang Trung (giả). Trong Hải Ông thi tập Đoàn Nguyễn Tuấn có bài thơ:  Lục nguyệt vọng hậu đáo Vũ Xương ngộ Ngô Kế Dụng hòa thị tự Yên Kinh hồi, thi dữ tặng chi. Sau rằm tháng sáu tới Vũ Xương, gặp người bạn là Ngô Dụng Hòa từ Yên Kinh trở về, liền làm thơ tặng.  Dụng Hòa là một bút danh của Ngô Vi Quý.

            Bè tiên đi trong ánh sáng sao Ngưu, sao Đẩu xa tít .  Kinh sở tuế thời ký chép: Trương Khiên nhà Hán vâng mệnh cưỡi bè đi tìm nguồn sông Hoàng Hà lên đến địa vực sao Ngưu, sao Đẩu. Về sau người ta hay dùng điển này để chỉ việc đi sứ. Văn sĩ gặp lại nhau trong vận hội hưng thịnh. Đai mũ tám phen  hầu  trướng ngự. Mây ráng muôn dặm chứa bầu thơ. Xong việc công đáng khen xe sứ ra về yên ổn. Lười như ta, còn thẹn bận rộn nơi đất khách. Trên lầu ca nhạc là chốn gặp gỡ vui vẻ trân trọng. Núi sông lần lượt đón tiếp ngôi sao sứ thần.

HỌA TIỄN QUAN HÀN LÂM HỌ NGÔ

HIệU THANH PHONG ĐI SỨ VỀ.

Ngô Vi Quý người làng Tả Thanh Oai, Hà Tây.

Bè tiên Ngưu Đẩu ánh sao sa.

Văn sĩ gặp nhau hội thịnh hoà.

Đai mũ tám phen hầu trướng ngự,

Bầu thơ muôn dậm ráng chiều pha.

Việc xong xe sứ về yên ổn,

Đất khách rộn ràng lười phận ta.

Trân trọng vui nơi lầu ca nhạc,

Tiếp ngôi sao sứ, một sơn hà.

HỌA TIỄN THANH PHONG NGÔ HÀN LÂM SỨ HỒI

Tiên sà dao phiếm Đẩu Ngưu quang,

Văn sĩ  trùng phùng vận hội xương.

Quan bội bát phiên bồi ngự ác,

Vân hà vạn lý trữ ngâm trang.

Hoàn công đa tiễn qui thiều ổn,

Lãn ngã do tàm khách lộ mang.

Trân trọng kê lâu hoan ngộ xứ,

Giang sơn diệt tiếp sứ tinh lang.

            Hà Nam là đất châu Dự đời xưa, vẫn gọi là Trung Châu, có bãi phẳng mông mênh. Hoa màu chỉ có kê, lúa mì, lúa mạch, không thích nghi trồng lúa tẻ. Bên đường liễu mọc thành hàng, dân ở đó ăn lúa mì, ở nhà đất, vật sản ít ỏi. Sứ bộ đi tới châu Tín Dương thì đổi kiệu đi xe, toàn bộ hành lý để trên xe chở đi. Mỗi cổ xe dùng bốn ngựa hoặc lừa kéo đằng trước, tiếng xe kêu như sấm, bụi bay đầy đường, cảnh đi cũng khá vất vả.

            Đất ngoại thành bằng phẳng, mây ráng buổi sớm treo trên từng không. Xe ầm ầm, ngựa mạnh mẽ, rộn tiếng hành ca. Ruộng mạch mùa hè chín, bông rủ vàng óng, Đường liễu cơn gió lộng, cát bay trắng xóa. Tập tục của dân phần lớn ưa chuộng mộc mạc. Vị trí của đất rõ ràng ở chổ ôn hòa. Giáo hóa, uy tín nhà vua xưa nay ban bố khắp miền Trung Châu. Cần gì phải là nơi đất đai phì nhiêu, cảnh vật đẹp đẽ.

            Phong cảnh châu Dự đứng đầu Trung Nguyên. Dựa xe tỏ niềm cảm hứng hỏi thăm dấu xưa. Sông năm trăm năm luống ví nụ cười. Núi ba vạn tuổi bỗng nhiên biết nói. Sông Hoàng Hà tục truyền răng cứ  năm trăm năm có một lần trong. Người ta ví đó với nụ cười  Bao Công, vì Bao Công xử án rất nghiêm minh mà không mấy khi thấy ông cười. Núi Tung Sơn ở huyện Lạc Dương là Trung nhạc, ngọn núi ở chính giữa danh tiếng trong hàng ngũ nhạc ở Trung Quốc, theo Hán Thư: Hán Vũ Đế lên thăm núi Tung Sơn bỗng nghe có tiếng hô, người đương thời cho là thần núi hiển linh. Mãnh đất cao thấp là dấu vết đô ấp các triều đại. Nhà Ân đóng đô ở Bặc, Cảnh, Tướng, Triều Ca. Nhà Chu ở Lạc. Đông Hán đóng đô ở Cảo Nam. Tào Tháo đóng đô ở Hứa. Nhà Đường đóng đô ở Lạc. Nhà Tống đóng đô ở Biện. Tất cả đều địa phận tỉnh Hồ Nam. Làng xóm xa gần là di chỉ ngoại thành liệt quốc. Phân giới cũ các nước Trịnh, Vệ, Hứa, Trần đều là những nơi sứ bộ đi qua. Lại càng đắn đo khi thuyền về Giang Nam yên ổn. Chuyến này đi ngắm xem thắng cảnh khắp trời đất. Khi ấy sứ bộ ta định khi nào vào yết kiến sẽ xin tâu xin đi đường thủy về nước để được xem phong cảnh khắp Nam Kinh. 

TRÊN ĐƯỜNG HÀ NAM

I

Lơ lững mây hồng đường phẳng bằng,

Ầm ầm xe ngựa rộn ca thanh.

Rực vàng lúa mạch đồng mùa hạ,

Gió trắng cát tung đường liễu xanh.

Tập tục dân quê thường mộc mạc.

Rõ ràng địa lý đất an lành.

Xưa nay thanh giáo miền Trung Thổ,

Chẳng phải phì nhiêu cảnh vật thanh.

I I

Phong vật Trung Nguyên đất Dự Châu,

Dựa xe cảm hứng hỏi vài câu.

Năm trăm năm sống không cười được,

Ba vạn niên non núi nói đâu ?

Mãnh đất biết bao triều đại trước,

Xóm làng gần liệt quốc, chư hầu.

An lành thuyền đến Giang Nam đó,

Ngao du thắng cảnh đất trời sâu.

HÀ NAM ĐẠO TRUNG

I

Thần đãng giao nguyên quải thự hà,

Xa lân tứ phụ náo hành ca.

Mạch điền hạ thục hoàng thùy lũng,

Liễu lộ phong cao bạch tán sa.

Dân tập đại đô sùng giàn phát,

Địa dư đoan đích nhạ xung hòa.

Cổ kim thanh giáo phu trung thổ,

Khởi tất phồn dư điệu vật hoa.

I I

Dự châu phong vật giáp Trung nguyên,

Phỏng cổ hứng hoài nhất ỷ viên.

Hà ngũ bách niên không tỷ tiếu,

Sơn tam vạn tuế hốt năng ngôn.

Lịch triều đô ấp cao đê lũng,

Liệt quốc giao thư viễn cận thôn.

Cánh nghĩ Giang Nam qui trạo ổn,

Tư du thắng lãm biến kiền khôn.

            Đến miếu Nhạc Phi ở Yển Thành Phan Huy Ích viết :  Chí hùng tráng khẳng khái mong uống rượu ở Hoàng Long. Hoàng Long là kinh đô nhà Kim. Đất Kim là phần đất từ Khai Nguyên trở lên phía bắc tỉnh Phụng Thiên và toàn bộ tỉnh Cát Lâm. Nhạc Phi đánh nhau với quân Kim thề trước ba quân rằng: Tiến thẳng đến Hoàng Long rồi uống bữa rượu thật say ở đó ngày chiến thắng. Áo giáp sắt và mũ đâu mâu hò hét chỉ thành hư không. Nhạc Phi đang thắng to, quân Kim đang thua thì Tể tướng Tần Cối chủ trương ký hòa ước với quân Kim. Để thực hiện âm mưu độc ác, một ngày  mười kim bài lệnh vua đòi Nhạc Phi phải rút quân về triều. Nhạc Phi đành rút quân về, bị Tần Cối hạ ngục rồi giết chết. Cuộc kháng chiến quân Nam Tống tan rã. Đội hương quân đón phụ lão hân hoan. Kim bài phụng chiếu, thương khóc anh hùng. Trời xui Nam Tống ngu bởi chữ  “hòa “ người vì Trung Nguyên tiếc công chiến đấu. Bừng bừng căm phẩn còn sót lại trên đất kiếm cung. Một sân tùng bách  gió gào chiều hôm.

 ĐỀ MIẾU NHẠC VƯƠNG Ở YỂN THÀNH

Chí hùng mong uống rượu Hoàng Long,

Áo giáp mũ đồng hét cõi không.

Hương đỉnh hân hoan lòng phụ lão,

Kim bài phụng chiếu khóc anh hùng.

Trời xui Nam Tống ngu hòa giặc,

Người ví Trung Nguyên tiếc chiến công.

Căm phẩn bừng bừng nơi chiến địa,

Một sân tùng bách gió thu rung.

ĐỀ YỂN THÀNH NHẠC VƯƠNG MIẾU

Tráng hoài cảm khái ẩm Hoàng Long,

Thiết giáp đâu mâu khiếu sá không.

Hương đỉnh nghinh sư hân phụ lão,

Kim bài phụng chiếu khấp anh hùng.

Thiên giao Nam Tống ngu hòa tự,

Nhân vị Trung Nguyên tích chiến công.

Liệt phẩn do di cung kiếm địa,

Nhất đình tùng bách vãn hào phong.

            Dĩu Lý thuộc huyện Thang Âm tỉnh Hà Nam, tương truyền là nơi Trụ giam Chu Văn Vương. Trong lúc bị giam giữ Văn Vương đã diễn nghĩa lý Kinh Dịch. Nhờ bề tôi là Tản Nghi Sinh dâng ngọc ngựa cho Trụ  mà Văn Vương được tha. Lý của cỏ thi, mai rùa có cái sâu xa. Nơi đồng hoang còn bia đá ghi sự tích này. Hàn Dũ có viết bài Cầm tháo, phổ trên đàn cầm nói tấm lòng Văn Vương bị giam nơi Dĩu Lý.

            Nghĩa lý tinh vi : Thân tức là đạo. Lúc động lúc tỉnh theo tính trời. Giữ tiết tháo ở miền Tây xa xôi. Để tâm tư trước tiên vào thái cực. Theo Kinh Dịch thái cực là cái đầu tiên có trong trời đất. Nếu không có việc bị giam ở Âm Khư, thì nét vạch Phục Hy lấy ai phát huy ý huyền diệu. Nếu không có việc Chu Văn Vương bị giam ở Ân Khư cố đô nhà Ân. Tương truyền Phục Hy vạch ra tám quẻ Kinh Dịch, Văn Vương trong lúc bị giam ở Ân Khư đã đặt ra lời giải thích ý nghĩa chủ yếu từng quẻ. Dâng ngọc, ngựa bề tôi tỏ lòng thành kính. Tản Nghi Sinh là bề tôi Chu Văn Vương, ông đem biếu vua Trụ ngọc và ngựa, Trụ bèn tha cho Văn Vương. Lý của cỏ thi, mai rùa hai vật người xưa dùng vào việc bói toán vốn là sâu xa.. Nơi đồng hoang nay còn tấm bia đá. Lời đại thoán còn đầy  ở lề da. Đời xưa chưa có giấy, chép lời vào thẻ tre rồi dùng dây da xâu lại. Sử Ký nói: Khổng Tử ham đọc Kinh Dịch đọc mãi đến cái lề da xâu thẻ tre bị đứt ba lần. Nhớ khúc cầm tháo của ông Hàn Dũ nói nỗi lòng kiên trinh của Văn Vương khi bị giam ở Dĩu Lý mà tấm lòng u uất băn khoăn.

 DĨU LÝ NƠI DIỄN NGHĨA KINH DỊCH

Nghĩa sâu:  thân là đạo,

Động tỉnh đều tính trời.

Miền Tây xa giữ tiết,

Để tâm Thái cực thôi.

Âm Khư không giam giữ,

Phục Hy  giải  diệu huyền,

Ngọc,  ngựa dâng thành kính,

Thi, qui vốn cao thâm.

Đồng hoang còn bia đá,

Lời xưa đầy thẻ xanh.

Nhớ khúc cầm Hàn Dũ,

Lòng u uất băn khoăn.

DĨU LÝ DIỄN DỊCH XỨ

Tinh vi thân thị đạo,

Động tức tính chư thiên.

Thủ tiết tây giao viễn,

Du tâm Thái cực tiên.

Ân Khư phi dưỡng hối,

Hy hoạch thục câu huyền.

Bích mã thần tâm kính,

Thi qui vật lý uyên.

Hoang nguyên lưu thạch kệ,

Đại thoán diễn vi biên.

Cầm tháo tư Hàn cú,

U thê cảnh cảnh nhiên.

            Di chỉ Trú Cẩm Đường ở phủ thành Chương Đức, tức Tương Châu xưa, có cột bia to ghi công tích Hàn Ngụy Công. Hàn tên là Hàn Kỳ đỗ tiến sĩ  lúc còn trẻ tuổi, là danh thần nhà Bắc Tống, có công cùng Phạm Trọng Yêm dẹp giặc Tây Hạ. Sau Hàn Kỳ làm tể tướng, được phong Ngụy Quốc Công. Hàn Kỳ có xây biệt thự ở quê tên là Trú Cẩm Đường :  Bia xưa vời vợi trong nắng chiều. Dấu thơm Ngụy Quốc ứng với mây ngũ sắc. Thời vua Tống Nhân Tông, quan thái sư tâu dưới mặt trời xuất hiện đám mây ngũ sắc. Người đương thời cho là điềm tốt lành, ứng với việc Hàn Kỳ làm nên công nghiệp lớn. Rủ giải mũ ở xã tắc nêu cao đức trí, Hàn Kỳ là quan tể tướng trong triều đình thể hiện một người có đức có tài. Áo gấm không thiếu phần cảm hứng ‘phần du’. Khi đi kinh lý ở quê nhà, Hàn Kỳ tỏ ra có công lao. Áo gấm chỉ sự giàu sang, Hàn Kỳ mặc áo gấm về quê hương, phần du là hai thứ cây, đồng thời là quê của Hán Cao Tổ. Người xưa dùng hai chữ này để chỉ quê hương. Gác vẽ còn lại bài văn châu ngọc. Âu Dương Tu thi hào đời Tống viết bài văn Trú Cẩm Đường ghi trên bình phong lầu gác ca ngợi công nghiệp Hàn Kỳ.

 TRÚ CẨM ĐƯỜNG  HÀN NGỤY CÔNG

Bia xưa vời vợi nắng chiều say,

Nước Ngụy dấu thơm năm sắc mây.

Xã tắc mũ xiêm cao trí đức,

Quê hương cờ tiết đức công dày.

Cho dù áo gấm quê hương hứng,

Còn lại  gác văn  châu ngọc  lời.

Sự nghiệp tiên hiền lòng tưởng nhớ,

Mùi thơm chất chứa mãi nơi đây.

HÀN NGỤY CÔNG TRÚ CẨM ĐƯỜNG CỐ CHI

Sa nga cổ kệ quải tình huân,

Ngụy Quốc phương tung ứng ngũ vân.

Xã tắc thùy thân xuy đức trí,

Gia hương kiến tiết biểu huân cần.

Cẩm y bất thiểu phần du hứng,

Họa các duy dư uyển diễm văn.

Lịch lịch tiền tu tràng xi tưởng,

Tự đường như ấp tích thanh phân.

            Nhân ngày sinh nhật phụ thân, Phan Huy Ích viết bài tự sự :  Người cỡi hạc bay tít lên làng mây xa. Con không được mặc áo quan văn dâng rượu chúc thọ. Việc hái rau ngoài khe cậy người vợ dưới cửa sổ. Kinh Thi thơ Thái Tần nói việc vợ quan đại phu lo việc cúng tế có câu : Vu di thái tần, nam giản chi tân. Vu di thái tảo, vu bỉ hàng lao.. Vu di điện chi, tôn thất dũ hạ . (Hái rau tần ngoài khe suối. Hái rau tảo ở vũng nước ven đường.. Rồi đặt dưới cửa sổ nhà thờ tự.) trong tiếng Việt có chữ  người đàn bà tảo tần gốc từ câu thơ này. Kẻ sứ thần không nhận được cành mai ở Lũng Đầu, không nhận được tin tức ở nước nhà gửi sang. Lòng hiếu đáp sao được ơn như trời đất của cha mẹ. Việc công thăm hỏi, lúc đi đường thủy, lúc đi đường bộ rất vội vàng. Lòng quê vạn dậm luôn luôn tìm thấy trong mộng. Buổi sớm ở nhà trạm những ghê khí lạnh mùa thu.

 CẢM NGHĨ  NHÂN NGÀY SINH NHẬT PHỤ THÂN

Cỡi hạc người bay mây cõi xa,

Áo văn chẳng mặc thọ mừng cha.

Hái rau cậy vợ bên khung cửa,

Đi sứ cành mai chẳng nhận quà.

Cha  mẹ đất trời, ơn chẳng đáp,

Việc công thăm hỏi vội vàng ra.

Làng quê vạn dậm luôn trong mộng,

Buổi sớm trạm dừng thu lạnh qua.

TIÊN KHẢO SINH THỜI CẢM TÁC

Liêu liêu hạc ngự cách vân hương,

Phi phục văn thân hiến thọ trường.

Giản tảo hữu trai tông dũ phụ,

Lũng mai vô tín sứ tinh lang.

Hiếu tư đối việt càn khôn đại,

Công sự chu tư thủy lục mang.

Vạn lý gia hương tần nhập mộng,

Dịch đình thiên hiểu khiếp thu lương.

            Sứ bộ tới trạm Lương Hương, quan Lễ Bộ Thị lang là Đức Minh vâng mệnh tiếp trà, xong xuôi lại lên đường. Đi qua ngoại thành Yên Kinh vào cửa Chương Nghi, theo cầu Chính Dương vào cửa Tuyên Vũ, đi qua phố phường phía Tây hoàng thành . Từ giờ tý đến giờ mùi (đi mất 16 g , từ 11 giờ khuya đến 3 giờ chiều) mới tới cửa Đức Thắng ở thành Bắc. Trong thành đường đi toàn lót đá, tiếng xe kêu như sấm, bước chân người rầm rập, vị quan đi theo dục đi gấp, nên không nghỉ ngơi được một chút để xem phong cảnh.

            Mây lành bay toả nơi đế vương ở. Núi như chầu, sông như đai thế đất hùng tráng. Chốn đô hội phồn hoa của một nước. Nơi xây dựng thanh giáo của triều thịnh. Rồng uốn hổ ngồi, hướng về thành trì. Gia Cát Lượng bàn về hình thế đất Kim Lăng (Nam Kinh) nói : Chung Phụ long bàn, Thạch Thành hổ cứ, chân đế vương chi trạch.(Núi Chung Phụ như rồng uốn, núi Thạch Thành như hổ ngồi, thật xứng là chổ của đế vương. Phan Huy Ích cho rằng thế đất của Yên Kinh cũng như thế. Ngựa giong xe ruổi vì sợ mệnh nhà vua. Kinh Thi có câu: Úy thứ giản thư (Sợ mệnh nhà vua). Ý thơ nói xe ngựa đi lại tấp nập vì mệnh lệnh nhà vua khẩn cấp khiến người ta không dám trì hoản. Phố phường hoa lệ thật đẹp mắt. Cung khuyết Càn Thành, cung điện nhà Thanh vui biết chừng nào.

QUA YÊN KINH

Bay tỏa mây lành chốn Đế vương.

Đai chầu sông núi, đất oai hùng.

Phồn hoa đô hội kinh đô nước,

Thanh giáo dựng xây triều Thịnh Vương.

Rồng cuộn, hổ ngồi thành trực hướng,

Ngựa xe rong ruổi lệnh quân vương.

Phố phường hoa lệ trông say mắt,

Cung khuyết Càn Thanh vui biết chừng.

QUA YÊN KINH

Tường vân phiếu diếu đế vương cư,

Củng đới sơn hà tráng địa dư.

Thượng quốc phồn hoa đô hội xứ,

Hy triều thanh giáo triệu bồi dư.

Long bàn hổ cứ chiêm thành trạm,

Mã sậu xa trì úy giản thư.

Ỷ  lệ nhai triền kham diệm mục,

Càn Thành cung khuyết lạc hà như !

            Sau khi, dâng biểu, nộp cống phẩm tại Bộ Lễ và đến tập lễ tại Hồng Lô Tự và dự yến triều đình, Sứ đoàn được mời đi thăm Vạn Lý Trường Thành phía Bắc  cách Bắc Kinh khoảng 100km. Từ Yên Kinh một ngày rưỡi thì đến thành nhà Tần. Lên cửa núi đi ra phía Bắc, xe chạy dồn lên dập xuống, đường rất khó đi.

            Phan Huy Ích làm bài thơ tức sự ở  Vạn Lý Trường Thành. Tường trên thành liền núi cao chót vót một màu xanh. Trên cửa ải mở thông một con đường. Thành quách vương dài, ai bảo nơi nhờ cậy muôn đời ? Trời đất bao la, nay thuộc triều thịnh trị. Mục đích Vạn Lý Trường Thành là ngăn chận các dân Bắc Di xâm lăng. Nhưng Trung Quốc vẫn bị  hết nhà Kim thời Tống, đến Mông Cổ cai trị gần 100 năm, nhà Mãn Thanh cai trị 248 năm., triều thịnh trị nhà Thanh vốn là dân Mãn Châu nằm ngoài Vạn Lý Trường Thành. Vẻ thu mờ nhạt, núi khe cổ kính. Đường đá vòng vèo, đường trạm xa xôi. Nhìn sang phía Bắc thấy nhà cửa của vua chỉ cách trời gang tấc. Tiếng nhạc ngựa vang thấu đến lớp lớp mây.

 TỨC SỰ Ở TRƯỜNG THÀNH

Tường thành liền núi ngất mây xanh,

Cửa ải mở thông một nẽo thành.

Thành quách vương dài đâu vạn thuở,

Bao la trời đất thịnh triều vương.

Mờ xa thu nhạt hang khe núi,

Đường đá vòng xa tít trạm đường.

Phía Bắc cung đình gang tấc thấy

Ngựa vang tiếng nhạc lớp mây sương.

TRƯỜNG THÀNH TỨC SỰ

Liên sơn trĩ điệp bích thiều nghiêu,

Quan thượng phi thông lộ nhất điều.

Diên mậu thùy vân tư vạn thế,

Tế bàn kim dĩ thuộc hy triều.

Thu dung đạm đãng nham khê lão,

Thạch kính oanh vu nhật dịch lao.

Bắc vọng hoàng trang thiên chỉ xích,

Tằng tằng vân lĩnh đạt chinh biều.           

            Nhiệt Hà tỉnh ở đông bắc Trung Quốc, phong cảnh đẹp, khí hậu tốt, vua Thanh làm khu đặc biệt xây dựng hành cung ở đó. Sau khi đi thăm Vạn Lý Trường Thành, sứ đoàn trở lại cửa Bắc, thành Yên Kinh, rồi đi đến Nhiệt Hà bằng cửa Đông Bắc. Ra khỏi cửa ải mười dậm, qua đền thờ Dương Nghiệp, lại đi mười dặm nữa qua chùa Thái Ninh, phải đi đêm nên chưa thăm phong cảnh được. Sách Dụ Am Ngâm Lục nxbKHXH 1978  dịch lầm là Đêm đi ở cửa Tái Bắc.

            Cưỡi ngựa ruổi nhanh trên đường quan ải xa tít. Suối khe rào rào, đá lởm chởm. Đến đất Nhiệt Hà mặt vua gần gũi. Vin leo Hàn Lĩnh bóng trăng mới lên. Hàn Lĩnh chỉ núi non miền Bắc Trung Quốc. Đền Vô Địch thâm nghiêm ánh đèn thấp thoáng. Am Thái Ninh yên tỉnh hạt móc vừa sa. Vất vả chẳng ngại giong ruổi xa xôi. Đêm thu nơi nhà vắng dễ não lòng người.

ĐÊM TRỞ LẠI CỬA BẮC

Cỡi ngựa ruổi đường xa ải quan,

Đường đi lởm chởm suối khe tuôn.

Nhiệt Hà thấy mặt rồng gần gủi,

Hàn Lĩnh nhìn trăng sáng mới lên.

Vô Địch thâm nghiêm đèn thoáng hiện,

Thái Ninh yên tỉnh móc vừa buông.

Xa xôi rong ruổi lòng không ngại,

Nhà vắng đêm thu dế não lòng.

TÁI BẮC KHẨU DẠ HÀNH

Tuyệt tái chinh đồ sậu giá nhân,

Khê tuyền tích lịch thạch lân tuân.

Nhiệt Hà chiêm ngưỡng thiên nhan cận,

Hàn Lĩnh tê phan nguyệt phách tân.

Vô Địch từ thâm đăng bán hiện,

Thái Ninh am tĩnh lộ sơ quân.

Hiền lao phi đạn trì khu viễn,

Hoang thự thu tiêu dị não nhân.

            Chiêu Quân, cung nhân của Hán Nguyên Đế, tên Vương Tường là một giai nhân tuyệt sắc. Hán Nguyên Đế sai Diên Thọ vẽ tranh các cung phi để dâng lên vua xem, có lẽ vì vua không thể gặp mặt hết các cung phi. Các cung phi đều hối lộ cho Mao Diên Thọ để được vẽ đẹp. Chiêu Quân không chịu hối lộ, bị Diên Thọ vẽ xấu đi. Thời Hán Nguyên Đế triều đình hèn yếu, vua Hán phải triều cống cho vua Hung Nô để được yên ổn không bị Hung Nô đem quân đánh. Vua Hán Nguyên Đế phải cống cung phi đẹp cho vua Hung Nô. Lúc từ biệt nhà vua mới biết Chiêu Quân là người đẹp nhất trong hậu cung, nên có ý hối hận bèn giết Diên Thọ. Nhưng cuối cùng Chiêu Quân phải cống cho Hung Nô. Chiêu Quân có ngón đàn tỳ bà tuyệt vời, các tranh thường vẽ nàng với cây đàn tỳ bà. Về sau Chiêu Quân chết và chôn ở đất Hồ. Chiêu Quân cống hồ là đề tài của một truyện thơ khuyết danh Việt Nam, và nhiều vỡ tuồng, và cải lương. Năm 1792, vua Quang Trung có sai Trần Quang Diệu sang cầu hôn công chúa con vua Càn Long và xin phần của hồi môn là hai tỉnh Lưỡng Quảng vốn là đất Bách Việt ngày xưa. Việc đang tiến hành tốt đẹp thì vua Quang Trung qua đời, Trần Quang Diệu đành quay về, chuyện công chúa nhà Mãn Thanh “đi cống” nước Nam vì thế không xãy y ra.

            Ven núi thành Tần cỏ um tùm, người ta chỉ mộ Minh Phi táng trong thung lũng ấy. Dù trướng nhung có thương người mệnh bạc. Các dân tộc phía Bắc  Vạn Lý Trường thành lấy lông cừu non làm trướng, gọi là trướng nhung, đây chỉ vua Hung Nô. Sao bằng hộp phấn cứ chết gìà trong cung. Người Trung Quốc ngày xưa kỳ thị: làm vợ vua Hung Nô không bằng làm cung nữ vua Hán, dù là không được vua đoái hoài đến chết già trong cung. Mày liễu ủ rũ ngậm móc mùa thu. Tiếng đàn thê lương nghẹn ngào trong gió bấc. Song dung nhan phi thường thì bút cũng khó vẽ nỗi.

MỘ CHIÊU QUÂN

Thành Tần ven núi cỏ um tùm,

Người bảo Minh Phi chôn lũng trong.

Dù dưới trướng nhung thương mệnh bạc,

Sao bằng hộp phấn chết trong cung.

Liễu mày ủ rũ thu sương móc,

Đàn gãy thê lương gió bấc rung.

Muôn thuở chê tranh Diên Thọ vẽ,

Bút nào vẽ nỗi sắc phi thường.

CHIÊU QUÂN MỘ

Tần thành lĩnh bạn thảo mông nhung,

Kiến chỉ Minh Phi táng lũng trung.

Nhuế trướng túng nhiên liên bạc mệnh.,

Hương liêm hà tự lão thâm cung.

Liễu mi lãnh lạc hàm thu lộ,

Cầm vận thê thanh yết sóc phong.

Thiên cổ mạn cừu Diên Thọ họa,

Phi thường nhan mạo bút nan công.

            Dự yến ở Tây Uyển, có người thư ký Triều Tiên  tên là Phác Trai Gia, đem bài thơ đề trên quạt tới trình, liền họa vần tặng lại ngay trong bữa tiệc.

            Các sao xúm quanh tòa Đế tọa. Đế toạ là tên  vì sao, thường dùng để chỉ nhà vua. Chắp cánh lên cõi tiên. Móc sớm trùm lên cây liễu xanh tươi. Hương trời thơm nức trên lầu cánh chả, (lầu sơn màu xanh, nóc mái ngói bằng sứ xanh chim thúy vũ). Vui  cùng hát bài thơ Lộc minh. Bài thơ hội yến quân thần chép ở thiên Tiểu nhã, Kinh Thi.  Các cung nữ múa khúc Nghê thường, chuyện Đường Minh Hoàng lên cõi tiên cùng Hằng Nga. Nơi tôi và ông gặp nhau. Là khi cùng ngồi cùng thuyền trong ao.

 DỰ YẾN Ở TÂY UYỂN

Sao quanh toà Đế tọa,

Chắp cánh cõi tiên châu.

Tràn liễu xanh sương móc,

Hương trời thơm thúy lâu.

Lộc minh cùng vui hát,

Nghê thường múa đẹp sao !

Nơi tôi anh gặp mặt,

Trong ao một thuyền câu.

THỊ YẾN TÂY UYỂN

Tinh thần tuyền Đế tọa,

Hàn vũ thướng tiên châu.

Hiểu lộ thông thương liễu,

Thiên hương tử thúy lâu.

Hoan đồng ca lộc tịch,

Thái sán vũ nghê thu.

Tử ngã thương phùng xứ,

Trì đường thích nhất chu.

            Ngày 19 ở triều mừng lễ vạn thọ xong. Đêm cùng bạn đồng sự nói chuyện phiếm ngẫu nhiên làm thơ dựa ý: Nhu thử lương hà dạ. Đêm tốt lành thế này tính sao, lấy vần hà. Câu này lấy từ bài Hậu Xích Bích của Tô Đông Pha.

            Dâng chén rượu mừng thọ lên cửa trời, bến Ngân Hà thả chiếc bè chơi. Tích Trương Khiên  nhà Hán đi tìm nguồn sông Hoàng Hà xem có bắt nguồn từ sông Ngân Hà trên trời, về sau dùng nói việc đi sứ.  Ánh sáng trăng trắng xóa trên sân vắng. Tiếng hát rộn ràng bên kia tường. Quang cảnh thu đâu đâu cũng đẹp. Đường đời làm cho người ta già đi nhiều. Bên ngọn đèn khuya tịch mịch. Lòng nhớ quê hương chẳng ngăn nỗi, biết tính sao đây?

ĐÊM TỐT LÀNH THẾ NÀY TÍNH SAO

Cửa trời chén chúc thọ,

Thả bè chơi ngân hà.

Trăng sáng tràn sân vắng,

Tiếng hát rộn tường hoa.

Cảnh thu đâu cũng đẹp,

Đường đời người chóng già.

Bạn đèn khuya tịch mịch,

Lòng quê biết sao a ?

NHƯ THỬ LƯƠNG DẠ HÀ ?

Thiên hôn xưng thọ giả,

Tinh chữ ổn du sà.

Kiểu phách không đình nguyệt,

Phồn thanh cách bích ca.

Thu quang tùy xứ hảo,

Thế lộ lão nhân đa.

Tịch mịch hàn đăng bạn,

Hương tâm bất cấm hà ?

            Ngày hôm ấy từ kinh thành hộ giá (vua Quang Trung giả) đến Nguyệt Đàn, đêm đến công quán Viên Minh. Gương nga trên trời lạnh soi xuống thềm sân. Bóng trong sáng xa xa từ biển quế tới. Nước Phương Nam sản sinh nhiều quế nên gọi là biển quế, ở đây chỉ nước Việt. Nửa phần sắc thu đến trong lúc bận rộn. Năm canh lòng quê về trong giấc chiêm bao. Hạt sương rơi thấm mái tóc sầu, dựa lan can cô quạnh. Giọt đồng nhỏ giọt đêm thanh, dốc chén rượu say tít.. Dịch chữ lậu trong thơ. Ngày xưa chế cái bầu bằng đồng khắc ngấn và dùi lổ cho nước nhỏ xuống. Bầu nước cạn đi bao nhiêu thì biết bấy nhiêu giờ khắc. Khí cụ ấy gọi là cái đồng hồ (cái bầu đồng). Suốt mấy năm lênh đênh mang mối hận du tử. Hết Phú Xuân mùa thu năm Mậu Thân (1788) hầu vua ở kinh thành Phú Xuân, mùa thu năm Kỷ Dậu (1789) chờ mệnh ở trấn Lạng Sơn để tiếp sứ giả, mùa thu năm nay lại tới Yên Kinh.

 TRUNG THU NƠI QUÁN KHÁCH

Gương nga trời lạnh chiếu thềm sân,

Từ biển quế xa bóng sáng trong.

Thu sắc nửa phần đang lúc bận,

Lòng quê năm khắc giấc mơ nồng.

Hạt sương rơi tóc hiên sầu quạnh,

Đồng giọt đêm thanh  dốc chén quỳnh,

Năm tháng lênh đênh du tử hận,

Phú Xuân,  xứ Lạng lại Yên kinh.

KHÁCH QUÁN TRUNG THU

Hàn không nga kính chiếu đình giai,

Thanh ảnh dao tòng quế hải lai.

Thu sắc bán phần mang lý quá,

Hương tâm ngũ dạ mộng trung hồi.

Sương xâm sầu mấn bằng cô hạm,

Lậu yết hương tiêu đáo túy bôi.

Bồng ngạnh liên niên du tử hận,

Xuân thành, Lạng khổn hựu Yên Đài.

            Ngô Chiếu người Thanh Uyển tỉnh Trực Lệ, đậu Tiến sĩ năm Đinh Mùi (1787) gặp tôi ở phòng triều yết, rót trà mời tiếp đãi kính trọng, nhân gửi bài thơ tặng ông ta.

            Trên Hội Bàn ào áo mũ chen nhau. Theo Hán Võ nội truyện: Tây Vương Mẫu cho Võ Đế mười quả đào, vua định cất lấy hạt đem ương cây giống. Tây Vương Mẫu bảo:  Đào này ba nghìn năm ra quả một lần, đất trần gian không trồng được. Về sao dùng Bàn đào để chỉ bữa tiệc nơi sang trọng quyền quí. Trong ban măng ngọc được gặp phượng loan. Ngọc duẫn là ngón tay ngọc. Ý nói Ngô Tiến sĩ là người có dung mạo, tài năng khác thường vào hàng chim phượng, chim loan. Sớm có văn chương nỗi danh tiến sĩ. Tạm đem lễ độ giúp việc Bộ Lễ. Tinh thần sảng khoái như trăng sáng ba thu. Độ lượng mênh mông như sóng lớn nghìn khoảnh. Để lại nỗi nhớ chiêm bao vấn vương với bình rượu trong. Đời người như bèo nước, ngẫu nhiên gặp nhau kết giao vui vẻ.

TẶNG TIẾN SĨ HỌ NGÔ TIẾN  BỘ  LỄ

Bàn Đào tiên hội áo xiêm chen,

Ngọc duẫn trong hàng gặp phượng loan.

Tài sớm          văn chương  danh tiến sĩ,

Tạm đem lễ độ  giúp  xuân quan,

Tinh thần sảng khoái ba thu sáng

Độ lượng mênh mông nghĩa sóng tràn,

Chiêm bao bình rượu còn ghi mộng,

Ngẫu nhiên bèo nước kết tâm can.

TẶNG LỄ BỘ CHỦ SỰ NGÔ TIẾN SĨ

Bàn Đào hội thượng xí y quan,

Ngọc duẩn ban trung cấu phượng loan.

Tảo hưởng văn chương tiêu giáp đệ.

Tạm tương lễ độ tá xuân quan.

Tam thu cửu nguyệt phong thần sảng,

Thiên khoảnh uông ba vũ lượng khoan.

Khiển quyển thanh tôn lưu mộng ức,

Nhân sinh bình thủy ngẫu đề loan.

PHAN HUY ÍCH TINH SÀ KỶ HÀNH

PHẦN II. THƠ TRÊN ĐƯỜNG VỀ

            Ngày 22 phụng mệnh từ Tây Uyển công quán lên đưởng về nước, mừng làm thơ.

            Đêm trên sông  Lô nuốt nước mắt qua đò. Lúc ở quán Yên Kinh được quay cương ngựa trở về. Sướng khổ lòng son những lo đối phó. Vất vả phận thường phải đi thăm hỏi. Dịch chữ tuân ti. Thơ “Hoàng hoàng giả hoa” trong Kinh Thi có câu : Chu viên tư tuân (đi thăm hỏi khắp nơi). Nội dung bài thơ vua ủy lạo sứ thần. Vì âm vận tác giả đổi tư tuân thành tuân tư, chữ tư lại đọc là ti cho hợp vận. Xem phong cảnh mà được gần gũi tầng mây.. Dịch chữ quan quang trong bài. Đời xưa hay dùng nói việc đi sứ là đi thăm phong cảnh nước người (Kinh Dịch). Đi xa luôn được ngắm vẽ lạ sông núi. Lòng khách cô đơn riêng  những mến cảnh. Hoa liễu vườn Viên Minh rợp cung Dao Trì.  Cung điện thần tiên, đây chỉ cung điện nhà vua ở Nhiệt Hà.

LÊN ĐƯỜNG VỀ NƯỚC

Sông Lô nén lệ qua đò đêm,

Quay ngựa trở về từ quán Yên.

Sướng khổ lòng son lo đối phó,

Phận đi thăm hỏi phải lo thường,

Được xem quang cảnh mây gần gủi,

Ngắm cảnh non xa vẻ lạ lùng.

Lòng khách cô đơn riêng mến cảnh,

Viên Minh hoa liễu rợp Dao Cung.

ĐĂNG TRÌNH HỒI QUỐC

Lô giang ngấn lệ hoành chu dạ,

Yên quán thừa ân phản bí thì.

Khổ lạc sơ tâm kham đối đãi,

Cần lao thường phận yếu tuân ti.

Quan quang thân tiếp vân tiêu cận,

Hành viễn trùng khan thủy thạch kỳ.

Lao lạc khách hoài thiên luyến cảnh,

Liên Minh hoa liễu ấm Dao Trì.

            Cổ xe về phương Nam, đường khách vời vợi. Tình thu trăn trở qua đêm lạnh. Canh tư trạm công giục giã cương ngựa. Mười dặm chòi canh lặng thinh mõ gác. Gió đưa chuông loan, tiếng vang nhè nhẹ. Xe sứ thường treo cái chuông bên cạnh, khi xe đi chuông kêu nghe như tiếng chim loan. Móc thấm áo nệm da, chiêm bao quạnh hiu. Hãy mừng việc bói rùa hợp điềm tốt lành. Mây núi cố quốc chờ xe sứ thần trở về.  Phan Huy Ích viết: Lúc chuẩn bị hành lý ở Thăng Long, tôi có đến Văn Miếu gieo quẻ bói, bói được quẻ Hoán. Lời quẻ Hoán nói: khi chia tay thì tốt.

DỰA VẦN VŨ  CÔNG BỘ

VIẾT KHI ĐI XE ĐÊM

Phương Nam vời vợi khách hồi hương,

Trăn trở tình thu gió lạnh vương.

Trạm dục  canh tư  xe ngựa bước,

Chòi canh mười dặm , mõ im lìm.

Chuông loan gió đẩy  vang vang  tiếng,

Áo dạ  móc rơi  hiu quạnh  hồn,

Mừng bói toán điều lành tốt đẹp,

Núi mây  chờ  đợi sứ đoàn sang.

DẠ GIAN XA HÀNH  Y  VŨ CÔNG BỘ VẬN.

Biển thặng nam hồi khách lộ thiều,

Thu hoài triển chuyển độ hàn tiêu.

Tứ canh công địch thôi chinh bí,

Thập lý tiểu lâu tĩnh thú điêu.

Phong dẫn loan linh thanh tế tế,

Lộ xâm cầu nhục mộng liêu liêu.

Qui do thả hỉ phù nguyên cát,

Cố quốc vân sơn hậu phản thiều.

            Đến thành Trác Châu nhân đi qua miếu Tam Nghĩa kỷ niệm  Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi kết nghĩa ở vườn đào, thề sống chết có nhau để tôn phò nhà Hán. Trời giữ lại giềng mối nhà Hán để họp mặt anh hùng. Vua tôi anh em hợp trong tình tri ngộ. Tôn miếu xã tắc nhà Hán lại bị vùi lấp, bọn quan gian thần lộng quyền nổi lên. Hỏa đỉnh: vạc lửa, nhà Hán lấy hỏa đức để trị thiên hạ, cho nên hỏa đỉnh chỉ nhà Hán. Vườn đào ba người kết nghĩa sống chết có nhau. Không bàn đến cuộc đời giành nhau làm bá chủ riêng. Đời Tam Quốc:  Ngụy, Ngô, Thục mỗi nước làm bá chủ một phần lãnh thổ Trung Quốc chống nhau. Còn đem luân thường nêu cao đến tận trời xanh. Tình nghĩa vua tôi, anh em của ba người kết nghĩa là tiêu chuẩn của luân thường đạo lý. Trên đường trạm ngẫu nhiên đến  đền miếu xưa. Chiêm ngưỡng di vật mũ miện, mũ biền hai thứ lễ phục ngày xưa xong, dạo trong gió thông vi vút.

 MIẾU TAM NGHĨA Ở THÀNH TRÁC CHÂU

Trời lưu nhà Hán họp anh hùng,

Huynh đệ quân thần gặp mặt chung.

Đỉnh lửa lấp vùi quan tiếm loạn,

Vườn đào kết nghĩa tử sinh cùng.

Chẳng bàn thế cuộc dành ngôi bá,

Đem đạo cương thường soi thái không.

Đường trạm ngẫu nhiên thăm miếu cổ,

Ngắm nhìn mũ miện, dạo tùng phong.

TRÁC CHÂU THÀNH TAM NGHĨA MIẾU

Thiên lưu Hán thống hợp anh hùng,

Huynh đệ quần thần kế ngộ trung.

Hoả đỉnh tái nhân cường tiếm khởi,

Đào viên tam kết tử sinh đồng.

Vô luân thế cục tranh thiên bá,

Hoàn bả nhân thường yết thái không.

Bưu nhật ngẫu lâm từ miếu cổ,

Miện biền chiêm bái lộng tùng phong.

              Đến Hứa Châu tức Hứa Đô kinh đô nhà Đông Hán, sứ đoàn dừng chân, nhớ chuyện Tào Tháo, Phan Huy Ích viết bài thơ:  Di tích Hán Đô mờ mịt không nghe thấy gì. Đương thời dựa vào cố quân để dòm ngó vạc báu. Tào Tháo dựa vào hư danh của vua Hiến Đế để ra mệnh lệnh cho các chư hầu. Thay thế ngôi vua ngấm ngầm truyền lại cho Thế tử họ Tào. Thế tử họ Tào là Tào Phi. Sau khi Tào Tháo chết, Tào Phi lên thay đoạt ngôi nhà Hán rồi xưng đế tức Ngụy Văn Đế. Chức để phần mộ vờ mượn tiếng : tướng quân nhà Hán. Tào Tháo vẫn tự xưng mình là tướng nhà Hán, hàm chức và phần mộ Tào Tháo vẫn đề là Hán tướng quân. Thuật ma quỷ gian hùng làm ô uế sử xanh. Dáng mùa thu ở lư tỉnh chiếu lên mây biếc. Theo cổ chế thì phép tỉnh điền chia ruộng đất theo hình chữ tỉnh, cứ tám gia đình là một tỉnh, những nhà cửa trong khu vực gọi là lư tỉnh(hu tong). Du khách ngày nay đến Trung Quốc thường được đi thăm các lư tỉnh. Câu này ý nói Tào Tháo làm ô uế sử xanh, nhưng sau khi Tào Tháo chết đất Hứa Châu vẫn đẹp. Đồng Tước chỗ dạo chơi cũ nay đã mai một. Đồng Tước là lâu đài do Tào Tháo xây dựng ở tây nam huyện Lâm Chương tỉnh Hà Nam. Tào Thực con út Tào Tháo có làm bài thơ tuyệt tác ca tụng lâu đài này tả hai cây cầu(kiều) nối với đền. Khổng Minh sửa câu thơ Tào Thực, cho rằng Tào Tháo xây đài Đồng Tước để bắt hai nàng Kiều vợ Tôn Quyền và vợ Chu Du về giam ở đây: Một nền Đồng tước khóa xuân hai Kiều. Khích Chu Du, Tôn Quyền đánh trận Xích Bích. Nào ai hỏi nghi phần trên cao nguyên hoang vắng. Tào Tháo cho đắp 72 ngôi mộ giả trên cao nguyên để cho đời sau khó phát hiện được nấm mộ nào chôn hài cốt mình, vì thế gọi là nghi phần.

NGHỈ Ở THÀNH HỨA CHÂU NHỚ SỰ TÍCH TÀO MAN

Hứa Đô di tích mịt mờ không,

Thời dựa cố quân, vạc báu tranh.

Thay thế ngôi vua Tào Thế tử,

Chức đề phần mộ Hán Tướng quân.

Gian hùng quỷ thuật nhơ trang sử,

Lư tỉnh dáng thu mây biếc xanh.

Đồng Tước dấu xưa nào có thấy,

Mộ phần ai hỏi chốn mênh mông ?

TÚC HỨA CHÂU THÀNH TRUY ỨC TÀO MAN CỐ SỰ

Hứa đô di tích mịch vô văn,

Khuy đỉnh đương sơ hiệp cố quân.

Thiện đại ám di Tào thế tử,

Mộ hàm hư thác Hán tướng quân.

Gian hùng quỉ thuật ô thanh giản,

Lư tỉnh thu dung chiếu bích vân.

Đồng Tước cựu du nhân một tận,

Hoang nguyên thùy phục phỏng nghi phần.

            Cuối mùa hè vừa rồi đi đến đây thì đang mùa nước lũ, sóng lên cuồn cuộn. Thuyền sang phài mấy khắc mới đến được bờ phía Bắc.(Khắc tương đương vói 2 giờ, đêm năm canh, ngày sáu khắc; Giờ Tý nửa đêm, giữa trưa là chính Ngọ)

            Buồm gió lênh đênh nước gợn sóng. Bãi rau tần qua thu đưa gió bấc lạnh. Hãy xem sương móc buổi sớm trên ngọn sóng; Chẳng như dòng nước chảy xiết sau cơn lũ lụt. Cá rồng ẩn hiện, tiềm tàng vô tận. Sông Hoàng Hà có nhiều loài thủy tộc sinh sống. Trâu ngựa lờ mờ phân biệt cũng khó. Vượt hiểm đi theo con đường trung tín là thuận lợi. Người xưa quan niệm giữ lòng trung tín thì không sợ nguy nan.  Dòng nước vàng mênh mông là một kỳ quan. Sông Hoàng Hà nước màu vàng nên gọi là Hoàng lưu.

 SÁNG SỚM QUA SÔNG HOÀNG HÀ

Sóng gợn lênh đênh buồm gió lên,

Hơi thu buốt lạnh bãi rau Tần.

Hãy xem sương móc trên sông sớm,

Chẳng phải nước ròng sau lũ tuôn.

Cá rồng ẩn hiện tàng thu tận,

Trâu ngựa lờ mờ khó biệt phân.

Vượt hiểm giữ đường trung tín thuận,

Mênh mông dòng nước một kỳ quan.

THẦN ĐỘ HOÀNG HÀ

Phong phàm phiếm phiếm thủy dương lan,

Tần phố kinh thu tống sóc hàn.

Hảo khán đào đầu phù hiểu lộ,

Phi đồng lạo hậu sấn kinh thoan.

Ngư long xuất một tàng vô tận,

Ngưu mã vi mang biện diệc nan.

Di hiểm lợi hành trung tín lộ,

Hoàng lưu di diểu nhất kỳ quan.

             Ải Vũ Thắng nằm giữa phân giới châu Kinh và châu Dự, nay là tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc. Đêm trăng sứ đoàn đi ngang qua cửa ải Phan Huy Ích viết:  Bờ nội chắn ngang phân giới giữa châu Kinh châu Dự. Vén bức rèm xe trông bốn phía thấy mặt trăng vừa lên. Sương móc cuối thu mang nhiều hơi lạnh. Đồng bằng Trung Quốc còn dấu vết cũ.  Trạm trên gác đê canh nghiêm ngặt, luôn luôn sẵn sàng nổ súng. Xóm thôn miền núi khe xa vắng, le lói ánh đèn. Mãi đi, nhất là lúc lòng muốn về trĩu nặng. Ra đi khỏi một cửa ải, nỗi mừng tăng thêm một.

ĐÊM TRĂNG QUA ẢI VŨ THẮNG

Kinh Dự hai châu ranh giới phân,

Vén rèm bốn mặt sáng vầng trăng.

Cuối thu sương móc mang hơi lạnh,

Trung Quốc đường bằng dấu cũ còn.

Trạm gác trên đê nghiêm pháo nổ,

Sơn khê thôn xóm ánh đèn chong.

Mãi đi lòng muốn về trĩu nặng,

Đi thêm một ải, nỗi mừng tăng.

NGUYệT TỊCH QUÁ VŨ THẮNG QUAN

Chu Dự phân cương hoành dã ngạn,

Yết thiềm tứ diếu nguyệt sơ thăng.

Thâm thu sương lộ đa hàn khí,

Trung Quốc giao nguyên hữu cựu trưng.

Đường tấn thú nghiêm tần phát pháo,

Sơn khê thôn quýnh  thiểu trương đăng.

Tham trình tối thị qui tâm trọng,

Xuất nhất tằng quan hỉ nhất tòng.

            Trên đường trở về đến Vũ Xương,   sứ đoàn lại lên thăm Hoàng Hạc Lâu. Lầu ở thành Vũ Xương, nhìn xuống sông Hán. Truyền thuyết Phí Văn Vi đắc đạo thành tiên nên thường cưỡi hạc vàng đến chơi đó. Nay tầng thứ nhất có thờ tượng Phí, tầng thứ  hai thờ tượng Lã tiên. Tương truyền Lã Đồng Tân hiệu là Thuần Dương người đời Đường gặp loạn Hoàng Sào, đem gia quyến đến núi Chung Nam ở và tu tiên đắc đạo. Bên cạnh có thờ tượng Lư Sinh, phía sau có đình Táo Tiên, rễ táo vẫn còn giống như rễ trầm hương. Cách bờ là bến lớn sông Hán, người tụ tập đông đúc, hàng hóa chất đầy. Núi Qui, gác Tình Xuyên, bãi Anh Vũ thật là những cảnh đẹp trong trời đất. Người ta vẽ nhiều cuốn tranh Lầu Hoàng Hạc để bán cho khách. Sứ bộ ta từ nhà công quán ở Hán Dương bơi ngang thuyền đến. Buổi chiều lên gác cao, bồi hgồi nhìn bốn phía,, lúc đó quan Hàn Lâm họ Đoàn (Đoàn Nguyễn Tuấn), đã làm ba bài thơ trước, tôi mượn một bài có nhuận sắc thêm, dựa vào bài bút đề trên vách lầu của ông Đoàn, tôi cũng ghi lại bài thơ.

            Buộc neo vào mỏm đá dưới khe, lên thăm cảnh tiên. Mái lầu lên cao trăm thước đứng trên đầu. Hạc vàng mây trắng, lời thơ tuyệt trần. Sóng biếc cây hồng cảnh thu trong trẻo. Thị thành hoa lệ tranh vẻ chẳng giống. Khói nước mênh mông lòngkhách thêm sầu. Cảnh thật đầy trước mặt ngâm vẫn chưa xong. Mượn đè tài tạm ghi lại chuyến chơi lầu.

LÊN CHƠI HOÀNG HẠC LÂU

Mỏm đá buộc neo thăm cảnh lầu,

Mái lầu trăm nóc đứng trên đầu.

Hạc vàng mây trắng lời thơ tuyệt,

Sóng biếc cây hồng xanh ngát thu.

Hoa lệ thị thành tranh chẳng giống,

Mênh mông khói nước khách thêm sầu.

Cảnh đầy trước mắt ngâm chưa phỉ.

Đề tạm lại ghi chuyến viếng lầu.

 DU HOÀNG HẠC LÂU

Khê ki duy lãm phỏng tiên du,

Bách xích phi manh nhiếp thượng đầu.

Hoàng Hạc bạch vân nga tuyệt diệu,

Bích ba hồng thụ điếu thanh thu.

Thị thành hoa lệ đồ phi tiếu,

Yên thủy thương mang khách diệc sầu.

Chân cảnh mãn tiền ngâm vị cánh,

Tá đề liêu ký thử đăng lâu.

Trước kia khi đến lầu Hoàng Hạc có làm thơ gửi cho quan Binh Bộ Ngô Thì Nhậm nay trở về lại lên chơi lầu, bèn họa vần bài trước gửi tặng.

LẠI CHƠI HOÀNG HẠC LÂU

Sông lạnh cỏ thơm vẫn lối này.

Mừng như mọc cánh trở về đây.

Ánh thu lặng chiếu ba tầng gác,

Lòng nhớ quê theo cánh nhạn bay.

Xong việc báo tin nhanh ngựa trạm,

Đường sứ xa xôi thuyền khách đầy.

Nhớ lúc Nam Quan cầm tay hẹn,

Lại nhìn đài núi  bóng trăng say.

TÁI DU HOÀNG HẠC LÂU

Phương thảo Tình Xuyên cựu khứ trình,

Qui biền hỉ tự vũ hàn sinh.

Thu quang tỉnh chiếu lâu tam điệp,

Hương tứ mang tùy nhạn nhất thanh.

Thoan sự thư hồi bưu kỵ mẫn,

Chu tư lộ viễn khách chu hành.

Nam quan bả ác tương kỳ  cứu,

Thời phán sơn đài nguyệt nhất minh.

            Từ Yên Kinh đi ba nghìn dặm đến Hán Dương, lưu lại mấy hôm. Tổng đốc họ Phúc từ biệt về tỉnh thành Quảng Đông. Tuần phủ Quảng Tây là Trần Dụng Phu, Bố chánh là Thang Hùng Nghiệp cùng quan văn, võ chức vẫn đi theo sứ bộ ta để lo liệu thuyền bè. Ngày 22 tháng 9 nhổ neo, qua bảy ngày đêm thì đến Hồ Động Đình.

            Đường trạm qua ba nghìn dặm bỗng rời cương ngựa. Trên sông Hán Dương khách về dương cánh buồm xa. Mây quanh lầu Hạc luôn luôn ngoái trông. Eo sông huyện Ngư bỗng say ngà ngà. Thuyền nhổ neo từ Hán Khẩu, đêm đậu lại bến huyện thành Gia Ngư, hóng mát và rót rượu uống tạm. Mênh mông khói sóng sức gió mạnh mẽ. Lô nhô đình tạ ánh trăng bao la. Thuyền sứ đi qua các phủ thành, quan sở dựng thủy đình bên sông, bố trí cả nhạc cụ và yến tiệc. Mỗi đêm khi đi qua các bến sông, thì ở đó thắp đèn đuốc sáng rực, ánh sáng rọi lên tận trăng sao. Tính đường lại thấy gần đến cửa hồ, Nước mùa thu cùng bầu trời mênh mông hòa lẫn màu lam.

ĐI THUYỀN SÔNG HÁN

Đường ba nghìn dậm khách rời cương,

Giương cánh buồm xa sông Hán Dương.

Lầu Hạc hoài trông mây trắng mộng,

Huyện Ngư sông lượn rượu say hương.

Mênh mông khói sóng thuyền căng gió,

Đình tạ lô nhô trăng mênh mông.

Gần đến  cửa hồ đường  đã  thấy,

Trời thu mây nước ngát xanh trong.

HÁN THỦY CHU TRÌNH

Nhật dịch tam thiên xạ giải tham,

Hán Dương qui khách quải chinh phàm.

Hạc lâu vân tể vân hồi phản,

Ngư huyện giang loan ngẫu bán hàm.

Hạo điểu yên ba phong lực kính,

Sâm si đình tạ nguyệt quang hàm.

Án trình hựu giác hồ môn cận,

Thu thủy trường thiên hỗn uất lam.

            Lầu thành Nhạc Dương trông xuống Hồ Động Đình. Trên gác thờ Lã Tiên (Lã Đồng Tân người đời Đường). Ở tấm bình phong có khắc bài ký của Phạm Văn Chính tức Phạm Trọng Yêm, danh nhân đời Tống. Từ xa trông thấy trời nước một màu. Hai ngọn núi Quân, Biển thấp thoáng trong sóng.

            Gác cao đầu thành trải trong nắng sớm. Phóng mắt nhìn ánh hồ nước liền mây. Tục truyền Lã Tiên đã ba lần say rượu. Mừng được xem Phạm lão viết một bài ký. Sóng ôm ngọn núi trơ trọi nổi lên như con ốc xanh. Gió đưa cánh buồm phất phới, chập chờn như đàn bướm gấm. Gửi trong khoảng trời đất bao la mênh mông. Bầy chim âu đùa giỡn trên bãi lan, bờ chỉ.

LÊN LẦU NHẠC DƯƠNG NGẮM CẢNH BUỔI SỚM

Lầu gác đầu thành trong nắng mai,

Ánh hồ phóng mắt nước liền mây.

Tục truyền Tiên Lã say ba bận,

Mừng thấy Phạm Ông phú một bài.

Ngọn núi xanh trơ như ốc nổi,

Gió buồm gấm phất bướm vờn say.

Gửi trong trời đất bao la ấy.

Cỏ chỉ bờ lan âu giỡn bay.

NHẠC DƯƠNG LÂU HIỂU VỌNG.

Thành đầu cao các quải triêu huân,

Cực mục hồ quang tiếp thủy vân.

Truyền đạo Lã Tiên tam độ túy,

Hỉ  khan Phạm Lão nhất thiên văn.

Ba hàm cô dữ thanh loa hiện.

Phong tống phi phàm cẩm điệp vân.

Ký dữ càn khôn không khát tế,

Đình lan ngạn chỉ hiệp âu quần.

            Giờ Thìn(7-9g) thuyền nhổ neo từ Nhạc Dương, gió bấc chuyển mạnh, sóng hồ nổi lên cuồn cuộn, thuyên chỡ hành lý và thuyền  của quan Tư Mã (Ngô Văn Sở) đều bị đắm, riêng thuyền của ta bình an đi trước, đến giờ Mùi (1-3g)vượt qua hồ tới bến Tương Âm bèn mua rượu uống cho vui.

            “Cao giọng ngâm bay qua hồ Động Đình.” Câu thơ Lã Đồng Tân. Mây nước mênh mông chợt không chợt có. Sóng cả ngút trời gió rất mạnh. Buồm nhẹ đến bờ bóng vừa xế. Am núi thấp thoáng tiếng chuông xa xa. Vùng hồ lai láng, bóng nhạn lẽ loi tung bay. Chớp mắt đã đi qua ba trăm dặm khói sóng, Bên ngoài thành Tương Âm mua rượu mới cất uống mừng. Sách thơ văn Ngô Thì Nhậm cũng có chép bài này do lầm lẫn. Ngô Văn Sở không có trong sứ đoàn Ngô Thì Nhậm báo tang vua Quang Trung và thụ phong vua Cảnh Thịnh năm 1792.

 CÁNH BUỒM QUA HỒ ĐỘNG ĐÌNH

Cao giọng ngâm bay qua Động Đình,

Mây nước mênh mông chợt có không.

Sóng cả ngút trời cơn gió mạnh,

Nhẹ buồm bờ đến nắng phai hồng.

Núi am thấp thoáng chuông xa vọng.

Lai láng mặt hồ, nhạn lẽ  tung.

Chớp mắt đi ba trăm dặm sóng.

Tương Âm thành ngoại rượu say mừng.

PHONG PHÀM QUÁ HỒ ĐỘNG ĐÌNH

“Lãng ngâm phi quá Động Đình Hồ “.

Vân thủy thương mang xạ hữu vô.

Cự lãng mạn thiên phong tối kiện,

Kinh phàm đề ngạn nhật tài bô.

Sơn am ẩn ước chung thanh viễn,

Trạch quốc uông hàm nhạn ảnh cô.

Chuyển thuấn yên ba tam bách lý,

Tương âm thành ngoại nhưỡng tân cô.

            Trường Sa là tỉnh thành Hồ Nam, nhìn xuống sông Tương, phía tây thành là Cẩm phường (phường Gấm), có di chỉ nhà Giả Phó. Lầu Cùng Cực cao vài tầng ở bãi nổi giữa sông. Núi Nhạc Lộc ở bên trái sông, trên núi có di tích thư viện thời Nam Tống.

            Giả Phó tức Giả Nghị, là người hiền tài thời Hán. Nghị được Văn Đế trọng dụng, sau bị bọn Chu Bột, Quán Anh ghen ghét dèm pha và bị biếm đi làm chức Thái Phó ở Trường Sa, người đời gọi là Giả Phó. Hồ Nam ở  phía Nam nước Sở thời Xuân Thu Chiến Quốc nên gọi là Nam Sở Trường Sa là nơi Giả Nghị làm việc có phong cảnh đẹp Nam Sở. Giả Nghị là bậc sư phó của nhà vua mà phải đưa đến quận Trường Sa, một nơi nhàn tản, là việc khổ tâm cho Giả Nghị.

            Đầy thành hoa lệ nhìn xuống cửa sông. Cạnh lầu Cùng Cực là núi Nhạc Lộc. Khu vực nổi tiếng của Nam Sơ, đáng phóng măt nhìn. Thái Phó có tài phò vua, khổ tâm nơi nhàn tản. Khó nói phận  vua tôi với Giáng Hầu là Chu Bột và Quán Anh, hai người còn lại được hưởng công sau khi Hán Cao Tổ diệt các công thần hàng đầu như Hàn Tín. Nhìn suông khoảng trăng nước Hồ Động Đình và sông Tương. Cõi phiên trấn để mãi mối hận người anh tuấn. Di chỉ nơi  Tây Phường, nhà Giả Nghị rêu phong phủ tràn lan..

QUA TRƯỜNG SA NHỚ GIẢ THÁI PHÓ

Phố thành hoa lệ cửa bên sông,

Cùng cực lầu bên Nhạc Lộc Sơn.

Nam Sở tiếng danh nơi thắng cảnh,

Phò vua Thái Phó khổ tâm nhìn.

Vua tôi Gián, Quán làm sao nói.

Nhìn xuống Hồ Tương trăng nước trong.

Để hận cõi ngoài người tuấn tú,

Phường Tây nơi cũ phủ rêu phong.

THỨ TRƯỜNG SA GiẢ THÁI PHÓ

Mãn thành hoa diệm hám giang quan,

Cùng cực lâu biên Nhạc Lộc San.

Nam Sở danh khu nghi túng lãm,

Hậu nguyên tài phó khổ đầu nhàn.

Nam ngôn Giáng, Quán quân thần phận,

Hư đối Hồ Tương thủy nguyệt gian,

Phiên để trường lưu anh tuấn hận,

Tây phường di chỉ tích đài ban.

             Miếu Khuất Nguyên, Tam Lư Đại Phu bên bờ sông Mịch La. Phóng mắt nhìn rừng trúc thanh u bên bờ nước biếc. Đọc Ly Tao chẳng ai không cảm tiếc thương tài. Phẩm chất trong sạch, Khuất Nguyên  thường lấy hoa lan trang sức. Phẩn uất triền miên đành ôm đá tự trầm mình. Sông Tương sóng dữ nghìn xưa hờn giận. Cửa Sính lối hoang, chín chương ai oán. Sính là kinh đô nước Sở, các vị tiên vương đều đóng đô ở đó, đến đời Sở Hoài Vương phải dời đô đến nơi khác. Khuất Nguyên có viết chương Ai Sính (thương Sính đô) lời thơ cực kỳ đau thương. Hãy nhớ chổ vừa đi vừa ngâm ‘khương tá ‘ giọng ngâm thơ  bằng tiếng nước Sở của Khuất Nguyên. Mênh mông cồn cát cuốn lên bụi chiều.

 VỌNG MIẾU TAM LƯ ĐẠI PHU

Bến nước ngùi trông rừng trúc xanh,

Ly Tao ai đọc cũng thương tình.

Phẩm trong sạch lấy lan trang sức,

Phẩn uất đành ôm đá tự trầm.

Sóng dữ sông Tương nghìn thuở hận,

Lối hoang cửa Sính chín dương hồn.

Ngâm Khương Tá nhớ nơi đây nhỉ,

Cồn cát mênh mông cuốn bụi hồng.

VỌNG TAM LƯ ĐẠI PHU MIẾU

Cực mục u hoàng phủ bích nhai,

Độc tao trù bất giải lân tài.

Tu năng kiểu khiết lan vi bội.

Cô phẩn vu miên thạch khả hoài.

Tương thủy thệ ba thiên cổ hận.

Sinh môn tàng kính cửu chương ai.

Thỉ tư khương tá hành ngâm xứ,

Diếu diếu sa đình ủng vãn mai.

             Sông Tương phát nguyên từ núi Hải Dương thuộc huyện Hưng Yên, chảy qua Vĩnh Châu hợp với sông Tiêu. Từ Tương Nguyên đến Hành Châu là Thượng Tương, Tương Đàm là Trung Tương, Tương Âm là Hạ Tương, gọi là Tam Tương. Thượng Tương sông nông, nước trong, phong cảnh hai bên bờ hoa lệ. Tục truyền rừng trúc ở gần đỏ máu lốm đốm vì hai bà  Tương phi khóc chồng là vua Thuấn. Bên phải sông gần núi Hồi Nhạn. Nguyên Kết người nhà Đường làm thứ sử  Đạo Châu, yêu thích cảnh sơn thủy Kỳ Dương, làm nhà ở ngay bên bờ sông và đạt tên, Ngô đình, Ngô đài, Ngô khê khoét đá làm vò đựng rượu., nay cái vò đó hãy còn, vùng đất đó có tên gọi Tam Ngô. Trên núi Nhật Sơn có tảng đá màu đen bóng có thể soi gương được nên gọi là gương đá. Nguyên Kết soạn bài “Đại Đường trung hưng tụng “  Nhan Châu Khanh viết lại rồi đem khắc vào gương đá người đời gọi là  “Nhị tuyệt “. Văn Nguyên Kết tuyệt hay, chữ Chân Khanh tuyệt đẹp.

            Nước sông trong như pha lê một màu  hợp với dòng Tiêu Tương. Cảnh sông gợn sóng bên nước chạy dài. Kế bờ sông trúc lóm đóm giọt lệ cũ. Ngang dòng thác nhạn giăng hàng mang hạt sương lạnh. Tên Tam Ngô cũng lưu truyền mãi với cái vò bằng đá chứa rượu. Văn nhị tuyệt nổi trong ánh gương đen. Dòng sông man mác  là tứ thơ xưa nay. Tiếng thác trên dưới gầm rít ở quảng đê cong.

 THƯỢNG TƯƠNG NGẪU CHÍ

Pha lê một sắc hợp Tiêu Tương,

Cảnh bến theo dòng sóng nước sông.

Trúc đóm bên bờ ngâm lệ cũ,

Ngang bờ thác lạnh nhạn giăng hàng.

Tam Ngô truyền mãi cùng vò rượu,

Nhị tuyệt văn chương đen ánh gương.

Man mác tứ thơ  kim cổ nhớ,

Thét gầm tiếng thác quảng đê cong.

THƯỢNG TƯƠNG NGẪU CHÍ

Pha lê nhất sắc hợp Tiêu Tương,

Giang cảnh thanh y liệt tấn trường.

Giáp ngạn trúc ban hàm túc lệ,

Hoành than nhạn trận đới hàn sương.

Tam ngô danh dữ oa tôn thọ,

Nhị tuyệt văn phù hắc kính quang.

Lưu thủy du du kim cổ tứ,

Thoan thanh thượng hạ hống hồi đường.

             Đêm đã khuya, qua ghềnh gặp trở ngại không đi được, tạm đậu thuyền trước cổng sông, bâng khuâng chẳng sao ngủ được, sáng sớm dậy đi đến thành Toàn Châu.

            Ngoài thành Toàn Châu vài dậm có chùa Tương Sơn, thờ Phật Vô Lượng (Phật A Di Đà), vốn là đệ nhất trong rừng thiền (ngôi chùa lớn nhất Trung Quốc) sứ thần nước ta thường đến thăm cảnh, và đề vịnh thơ. Khi tôi quay về phải vội đi, nên không kịp lên thăm chùa.

            Khói mù trên sông vắng buộc con thuyền côi. Núi non xa gần hơi lạnh xông lên. Tiếng sóng vỗ trên ghềnh bờ sông, khua vào nửa gối.. Giọt móc xuyên vào cửa sổ thấm lạnh áo cừu. Mõ chòi canh làm kinh rợn giấc mộng canh ba. Trạm lữ quán khách càng thêm mối sầu tháng hai. Nghe nói núi Tương Sơn thờ Phật Vô Lượng. Roi ngựa đường xa, ước sao được lên thăm cảnh thiền.

ĐÊM ĐẬU THUYỀN GỀNH SÔNG TƯƠNG

Đậu thuyền sông vắng khói lên mù,

Non núi gần xa lạnh khí phù.

Sóng vỗ ghềnh sông khua nửa gối,

Nước xuyên cửa thấm áo lông cừu.

Canh ba tiếng mỏ kinh cơn mộng,

Tháng hai trạm lữ khách thêm sầu.

Nghe nói Tương Sơn Vô Lượng Phật,

Ước sao dừng ngựa cảnh thiền du.

TƯƠNG THAN DẠ BẠC

Không gian yên vụ hệ cô chu,

Viễn cận phong loan lãnh khí phù.

Phách ngạn than thanh xao bán chẩm,

Xuyên song lộ trích thấu trùng cừu.

Thú điêu kinh đoạn tam canh mộng,

Lữ dịch thiêm đa nhị nguyệt sầu.

Văn thuyết Tương Sơn Vô Lượng Phật,

Chinh tiên na đắc phỏng thiền du.

            Trên đường thủy ở Quế Lâm (thủ phủ tỉnh Quảng Tây) viết gửi Quan Binh Bộ họ Ngô, đựa theo vần đề ở Lầu Hoàng Hạc trước kia..

             Lĩnh Nam trời sáng lại lên đường trở về. Gió rung làn sóng thông, nổi lên hai bên đường. Mây lững lơ nơi quan ải, nhiều lần đi vào chiêm bao. Nước chảy xiết chỗ suối ghềnh, vang thành tiếng. Nỗi lòng xa cách tưởng như là ba thu. Kinh Thi: Nhất nhật bất kiến như tam thu hề. Một ngày chằng thấy mặt nhau, tưởng là đã  cách xa nào ba thu. Cốt cách  dại ngây thế mà vẫn đi được chặn đường muôn dặm. Ngày xuân gặp gỡ mùa xuân mai vàng nơi cố quốc. Hoa với đá ở Nhị Thanh. Lạng Sơn hiện ra rõ rệt.

ĐI THUYỀN TRÊN SÔNG QUẾ LÂM

Lĩnh Nam trời sáng lại lên đường,

Gió lộng hai bờ rung sóng thông.

Quan ải mây trôi vào mộng nhớ,

Suối ghềnh chảy xiếc tiếng reo lồng.

Nỗi lòng xa cách ba thu tưởng,

Cốt cách dại ngây vạn dặm trường,

Gặp gỡ mai xuân nơi cố quốc,

Nhị Thanh hoa đá hiện ra dần.

QUẾ LÂM GIANG TRÌNH

Lĩnh Nam thiên  hiếu sưởng qui trình,

Phong hám tùng đào giáp đạo sinh.

Quan tải nhàn vân tần nhập mộng,

Kê khan cấp thủy hựu thành thanh.

Khuê hoài cầu hưởng tam thu tưởng.

Si cốt  hoàn kham vạn lý hành.

Cố quốc mai xuân hoan ngộ nhật.

Nhị Thanh hoa thạch tối phân minh.

              Nước sông từ Quế Sơn  đổ về, khe thác quanh co. Núi từ Lĩnh Nam chạy dài xuống phía lòng sông, vây quanh lấy bờ sông. thổ dân đặt nhiều cối giã bên khe. Nước chảy, cối tự động giã không cần ngfười. Nơi đây vườn ruộng xơ xác, đồng nội nhiều bụi rậm. Từ Quế Lâm về Nam, phụ nữ mặc quần áo giống phụ nữ vùng Lạng Sơn, nước ta không bó chân. Họ thường ra chợ mua bán hàng., ngồi câu bên bờ sông. Đi lại bên khóm rau tần, rau liễu cảm thấy hứng thú.

            Suối khe mấy khúc xanh biếc quanh co. Dòng sông xa xa từ núi Quế đến. Cối gạo ngoài đồng vắng luôn luôn vận động. Ruộng núi hoa lợi thấp phân nửa bỏ hoang. Áo trắng khăn vải ra chợ lúc sáng sớm trong  sương lạnh. Áo tơi nón lá thành xóm ở bên dòng sông cong. Cờ trước gió rung rinh con ngựa gỗ đi như bay. Đâu đâu cũng dựng đài bên sông để đón khách. Ngựa gỗ gắn trên bàn quay khi gió thổi mạnh, các con ngựa quay tít như bay. Đường đi sứ đi theo sông  Tây Giang vào Quế Lâm và theo sông Thương đi đến Động Đình Hồ đến Vũ Xương. Đường sông tiện lợi khỏi chuyển vận hàng hóa, cống phẩm vì  khi qua đò, mỗi lần qua sông là mất cả ngày.

GHI CẢNH TRÔNG THẤY Ở  SÔNG LÝ

Suối khe mấy khúc biếc quanh quanh,

Dòng nước xa xa từ Quế Sơn.

Cối gạo ngoài đồng luôn tiếng giã,

Ruộng non ít lợi nửa phần hoang.

Áo khăn ra chợ trong sương lạnh,

Tơi nón thành thôn bến nước  cong.

Trước gió cờ rung bay ngựa gỗ,

Nơi nơi đón khách đài bên sông.

LY GIANG KÝ KIẾN

Khê loan kỷ chuyển bích vu hồi,

Lưu thủy dao tòng Quế lĩnh lai.

Dã chữ cơ nhàn tần vận động,

Sơn điền lợi sắc bán hoang lai.

Cảo ky xuất thị hàn sơn hiểu,

Soa lạp thành thôn khúc ngạn ôi.

Dao duệ phong tinh phi mộc mã,

Nghinh tân xứ xứ thốc giang đài.

              Trước đây đến Ngũ Hiểm dòng nước lớn cuồn cuộn. Vững thả một mái chèo xuống chổ nước xiết. Nay về Ngũ Hiểm nước muà đông cạn. Chìa ngang nửa sông là những bờ đá lạnh. Tiếng sóng vỗ bờ ào ạt gấp vội. Tay sào vượt sóng ngược dòng khó khăn. Vượt qua ghềnh Long, Hổ quanh co thuận lợi. Người trải muôn trùng nguy hiểm nay đến ghềnh này !

NGƯỢC GHỀNH NGŨ HIỂM

Khi đi Ngũ Hiểm nước cuồn trôi,

Vững mái chèo lan nước xiết bồi,

Ngũ Hiểm nay về đông cạn nước,

Chìa ngang đá lạnh nửa sông dài.

Vỗ bờ tiếng sóng ào ào gấp,

Vượt sóng tay sào ngược nước bơi.

Long Hổ ghềnh qua quanh thuận lợi,

Đến bờ nguy hiểm trải muôn nơi.

TỔ NGŨ HIỂM THAN

Tích lai Ngũ Hiểm hồng lưu dũng,

Ổn phiếm khinh nhiêu há tấn than.

Ngũ Hiểm kinh hồi đông thủy hạc,

Bán gian hành xuất thạch căn hàn.

Lãng thanh phách ngan bôn xung cách,

Cao thủ lăng ba dẫn tố nan.

Long Hổ oanh hồi bằng lợi thiệp,

Nhân khinh vạn hiểm đảo tư than.

              Trên đường Lệ Giang, nhớ quê hương Phan Huy Ích viết:  Mây bồng bay buổi sớm dựa vào sườn núi xanh; Lối đi trên núi khói dày đặc phủ rêu biếc. Tưởng tượng núi non quê hương ngày càng đến gần. Thấp thoáng đêm thanh chiêm bao đã ra về trước. Đoạn đường cuối trong cảnh gió bụi, áo bào xanh đã rách. Tình xa cách cây tùng khóm trúc, giục giã tóc chóng bạc. Tùng cúc chỉ vườn cũ nơi quê nhà do câu Tùng cúc do tôn (cây tùng cây cúc vẫn còn) bài Quí khứ lai từ của Đào Tiềm. Trân trọng báo tin xe sứ thần về phương Nam tốt đẹp. Tính đến nay ở nhà đang mong trở về.

TRÊN ĐƯỜNG Lệ GIANG NHỚ QUÊ HƯƠNG

Sáng sớm mây bồng dựa núi xanh,

Đường đi đá núi phủ rêu phong.

Quê hương tưởng tượng như đà đến,

Giấc mộng đêm đêm quê đến gần.

Gió bụi cuối đường xanh áo rách,

Tình xa tùng cúc bạc đầu sương.

Báo tin xe sứ về Nam tốt,

Cả nhà mong đợi buổi hồi hương.

Lệ GIANG ĐẠO TRUNG ỨC GIA HƯƠNG

Bồng phi vân hiểu ỷ thiên nhai,

Thạch kính yên thâm tỏa lục đài.

Tưởng tượng cô sơn hành tiệm cận,

Y  hi  thanh dạ mộng tiên hồi.

Phong trần mạt lộ thanh bào tệ,

Tùng cúc ly tình bạch phát thôi.

Trân trọng nam biền tiêu tức hảo,

Kim kê môn vũ vọng qui lai.

 Đến Nam Ninh có một người lái đò đưa bức tranh ra xin đề.  Quan Đế tức Quan Vân Trường, em kết nghĩa, và bề tôi của Lưu Bị thời Tam Quốc. Nhà Hán suy yếu quyền hành bị các gian thần hết Đổng Trác đến Tào Thào năm giữ, vua hèn yếu chỉ còn hư vị, khắp nơi các thổ hào nổi lên, Lưu Bị là dòng dõi nhà Hán cũng nổi dậy định khôi phục cơ nghiệp nhà Hán ở đất Ba Thục (Tứ Xuyên) nên được gọi là nhà Thục Hán. Trung Quốc chia ba : Tào Tháo nước Ngụy ở phía Bắc, Tôn Quyền nước Ngô ở Giang Đông.

            Dòng dõi đế vương hưng thịnh , bậc thiên thần, giáng sinh, cơ đồ vùng vẫy một thanh long đao. Rỡ ràng danh vang, nghĩa lớn, chỉ muốn gầy dựng Thục Hán diệt Tôn, Tào. Nghìn năm tô vẽ với màu xanh đỏ, chỉ được phần mày râu là giống; còn tinh thần anh linh lừng lẫy thì muôn đời vô tận; khắp trời biển đều cung kính, uy nghi tưởng vẫn lẫm liệt sáng tỏ trong đám khói hương.

 ĐỀ BỨC TƯỢNG QUAN ĐẾ.

Dòng vua hưng thịnh,

Thiên thần giáng sinh.

Cơ đồ vùng vẫy một thanh đao,

Rạng rỡ danh vang nghĩa khí,

Muốn dựng Thục Hán diệt Tôn, Tào.

Nghìn năm tô vẽ màu xanh đỏ,

Chỉ được mày râu là giống hao.

Tinh thần vùng vẫy muôn đời vô tận,

Khắp biển trời đều đồng kính,

Lẫm liệt uy ngh trong khói hương.

ĐỀ QUAN ĐẾ TƯỢNG

Đế trụ đương hưng, thiên thần đản giáng, đỉnh đồ huy xích nhất đao.

Hách hách anh thanh nghĩa khái, trực dục xương Thục Hán nghi điễn Tôn Tào.

Thiên tải hạ đan thanh miêu hội, nãi kỳ tu mi chính tự;

Nhược phù linh tinh dương trạc, chung cổ vô cực;

phả hoàn danh nghi đồng kính, nghiễm nhiên chiêu cách vu huân cao.

            Đường trên sông Sùng Thiện.  Núi như chiếc bình phong chắn ngang, sông  chảy êm như trải lụa. Cánh buồm đi xa uyển chuyển lướt qua cửa động. Tổ chim xinh xinh kêu trên đá xanh. Thuyền chài lênh đênh ngư phủ câu trên  sóng nước biếc. Vùng phía Nam núi Ngũ Lĩnh tuyết tan, khí lạnh đã bớt. Đất Nhật Nam gần gủi có nhiều thổ âm. Lòng muốn về lại gặp thời tiết cuối năm. Buồn dựa vào con thuyền đơn chiếc, nghe tiếng hát đò đưa.

 ĐƯỜNG SÔNG SÙNG THIệN

Núi chắn bình phong sông lụa là,

Cánh buồn uyển chuyển động trung qua,

Tổ chim ríu rít xanh trên đá,

Ngư phủ thuyền trôi vang tiếng ca.

Lĩnh ngoại tuyết tan hàn khí dứt,

Nhật Nam gần gủi thổ âm đa,

Lòng muốn trở về năm sắp hết,

Buồm thuyền đơn chiếc tiếng đò đưa.

SÙNG THIệN GIANG TRÌNH

Sơn tháp bình vi thủy triển la,

Chinh phàm uyển chuyển động trung qua.

Cầm sào hiền hoán đề thanh bạch,

Ngư đỉnh phiêu dương điếu bích ba.

Lĩnh ngoại tuyết tiêu hàn khí thiểu,

Nhật Nam địa cận thổ âm đa.

Qui tâm cánh trị niên quang mộ,

Muộn ý cô bồng thỉnh trạo ca.

            Ngày 29 tháng 11 đến chổ đóng quân, cởi y phục sứ thần, mặc y phục nước nhà, từ biệt các quan hộ tống. Sáng hôm sau, tới Ải Nam Quan gặp người bà con là Quan Binh Bộ (Ngô Thì Nhậm) hỏi thăm và biết được tin nhà bình yên, vui mừng liền làm bài thơ này.

Trước đây cầm cờ đi xa, ra khỏi ải ngọc, Tin hoa mai ở núi cũ, mừng vui nay khỏe mạnh trở về. Việc bang giao trọn vẹn tráp đầy giấy tờ. Phúc nhà tin truyền đến, mặt nở tươi cười. Chiêm bao thấy nhạc quân thiều, nhạc  mừng thái bình trong cung đình, chiêm ngưỡng đã gần. Hương thơm nhẹ nhàng từ  thân mình đã cởi áo mũ cân đai, bước đi thảnh thơi. Nhìn mây khói phương Nam thêm thôi thúc niềm mong muốn trở về. Trước đài Chiêu Đức là nơi thăm hỏi tin tức.

TRÊN ĐƯỜNG VỀ MỞ CỬA ẢI

Ngày trước cầm cờ qua ải ngọc,

Nay mừng khỏe mạnh được tin mai.

Bang giao trọn vẹn thơ đầy tráp,

Gia phúc hoài mong nở mặt cười.

Mộng nhạc quân thiều chiêm ngưỡng đến,

Hương thơm tỏa vọng bước chân vui.

Mây khói phương Nam thôi thúc nhớ,

Trước đài Chiêu Đức hỏi thăm lời.

HỒI TRÌNH KHẢI QUAN

Tạc ủng chinh y xuất ngọc quan,

Cô sơn mai tín hỉ chinh hoàn.

Bang giao hoàn cán danh tiên kiếp,

Gia khánh truyền âm triển tiếu nhan.

Mộng nhập quân thiều chiêm ngưỡng cận,

Hương sinh thân bội bộ xu nhan.

Vân yên nam vọng thôi qui hứng,

Chiêu Đức đài tiên vấn tấn gian.

            Vườn xưa tùng cúc vẫn xanh rườm rà, Người mang áo bào pha sương từ sa mạc phương Bắc mới về. Tiếng hài hòa trong phòng the cùng gảy cung đàn sắt. Kinh Thi : Thế tư hảo hợp như cố sắt cầm (Vợ con hòa hợp như gảy đàn sắt đàn cầm).  Lũ trẻ thơ bên thềm vui mừng níu áo cha. Kiếp phù sinh sao được như hươu nai thường tụ họp. Kẻ làm quan vụng về hệt như chim mỏi mệt bay. Vấp ngã bởi có tính lười cũng chẳng hại gì. Rượu say mời ánh trăng soi xuống bên cửa liếp.

 ĐI SỨ TRỞ VỀ ĐỀ THƠ Ở QUÊ NHÀ

Vườn xưa tùng cúc vẫn xanh tươi,

Áo sương Bắc sứ khách về rồi.

Phòng khuê cùng gãy cung đàn sắt,

Con trẻ đầu thềm núi áo vui.

Kiếp sống chẳng như nai tụ họp,

Làm quan mỏi mệt chim lưng trời,

Vấp ngã bởi lười thường chẳng hại,

Rượu say cửa liếp mời trăng soi.

SỨ HỒI ĐỀ SƠN GIA

Cố viên tùng cúc thúy  y y

Sóc mạc sương bào khách thủy quy.

Khê khổn hòa thanh tề cổ sắt,

Đình giai trĩ khí lạc khiên y .

Phù sinh na đắc mi thường tụ,

Chuyết hoạn hồn như điểu quyện phi.

Điên việt bất phương thành dưỡng lãn,

Túy yêu sơn nguyệt ánh sài phi.

            Tinh Sà Kỷ Hành của Phan Huy Ích  là tác phẩm thơ chữ Hán, hàng đầu trong kho tàng văn học nước ta. Hơn ngàn năm nước ta xây dựng nền văn học, giáo dục trên nền tảng chữ viết này. Kho tàng văn học chữ Hán của Việt Nam đồ sộ, nó không thuộc người Trung Quốc mà của người Việt Nam. Việc chuyển ngữ ra ngôn ngữ Việt  ngày nay là một việc làm cần thiết. Các nước Tây Phương văn hóa chữ Hy Lạp, chữ La Tinh, hay tiếng Pháp cổ họ vẫn phải chuyển ngữ ra ngôn ngữ hiện đại. Chữ Hán cổ người Trung Quốc đời nay đọc cũng phải mò mẫm, phỏng đoán, họ phải chuyển ra cách viết quan thoại đơn giản hiện đại mới  đọc được. Phủ nhận văn học chữ Hán Việt Nam là xóa bỏ cả một gia tài văn hóa to lớn của dân tộc. Việc chuyển ngữ ra ngôn ngữ hiện đại làm cho dân tộc trở nên giàu có. Là nối liền hiện đại với quá khứ văn hóa lịch sử, xác định  văn hóa nước Việt không phải chỉ hình thành từ khi có chữ quốc ngữ. Người Việt Nam ngày nay “mù chữ” trước gia tài bia đá, chuông đồng, câu đối, đình chùa, miếu, sách vở tổ tiên, di tích, di sản văn hóa Việt Nam.  Nước Nhật, Đại Hàn chương trình học họ học chữ Hán, không phải vì thế mà họ lệ thuộc Trung Quốc, không phải vì thế mà họ chậm tiến bộ. Trái lại họ khai thông giữa quá khứ và hiện tại và tương lai làm vững chắc thêm tinh thần văn hóa, sức mạnh dân tộc. Nước Việt ta từ khi cắt đứt với nền văn hóa lịch sử có tiến bộ và phát triển giàu mạnh hơn Nhật và Đại Hàn chăng ?

            Cuộc đi sứ năm 1790 vua Thanh, Càn Long ăn mừng lễ thọ tám mươi. Quang Trung . Phan Huy Ích cùng Vũ Huy Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn ba văn thần danh tiếng hộ vệ người trá hình vua Quang Trung vào mừng.  Kết quả cuộc hành trình này, không những làm vững thế hòa bình giữa hai nước mà còn làm người Thanh phải phục học thuật, tài ứng đối của người Việt. Tinh Sà Kỷ Hành là một tư liệu quý báu, bằng những dẫn chứng gọn gàng, những lời thơ ngắn gọn cô động súc tích tác giả đã cho ta biết được hành trình, và những sự việc xãy ra trên đường đi sứ.

Paris ngày  4-6-2017

PHẠM TRỌNG CHÁNH.

Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V Sorbonne

TÀI LIệU THAM KHẢO:

THƠ VĂN PHAN HUY ÍCH. Dụ Am Ngâm lục. tập I, II, III. Nxb Khoa Học Xã Hội. Hà Nội 1978.

Tinh Tuyển Văn học Việt Nam. tập 5 quyển I. Văn học thế kỷ XVIII. Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội. Hà Nội 2004

Hoàng Xuân Hãn. Chinh Phụ Ngâm bị Khảo. Minh Tân Paris 1952.

                                                                                                                                    a