"Đem đại-nghĩa để thắng hung-tàn. Lấy chí-nhân mà thay cường-bạo." ** Bình Ngô Đại-Cáo **

 

Điểm SAT, ACT, Chỉ số IQ,
và Đường Vào Đại học Mỹ

Sau mùa lễ cuối năm là lúc các bậc phụ huynh lo lắng về con đường đại học của con cháu mình. Những con số điểm, những chữ viết tắc như GPA (điểm tốt nghiệp trung học của mỗi trường); SAT (Scholastic Aptitude Test, trắc nghiệm khả năng học hỏi cho toàn quốc Mỹ); và ACT (American College Test, “trắc nghiệm cho đại học Hoa Kỳ”) sẽ làm phụ huynh nhức đầu và chúng ta sẽ bàn lại về vài trò các điểm này và nhất là tương quan giữa SAT và IQ trong khung cảnh của các thay đổi gần đây ở Mỹ.

Năm ngoái, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ quyết định cấm dùng màu da, nguồn gốc sắc tộc để quyết định tuyển chọn một ứng viên, từ chối không cho Đại học Harvard thực hành “tác dụng khẳng định” (affirmative action) để tăng sĩ số da màu không được đại diện đúng mức so với tỷ lệ trong dân số nói chung (underrepresented minorities).
Một trong những biện pháp được dùng để giảm bớt sĩ số dân Á Châu là gạt bỏ kết quả kỳ thi SAT hoặc giảm bớt tầm quan trọng của SAT , vì người gốc Á Châu có điểm SAT cao hơn nhiều so với các sắc dân khác.
Theo một bài báo trên The New York Times gần đây (8 tháng 1, 2024), “trong thời kỳ đại dịch COVID, hàng chục trường đại học đã bỏ yêu cầu ứng viên phải thi SAT hoặc ACT. Mặc dù các nhà quản lý đại học thường mô tả hành động này là tạm thời, nhưng hầu hết các trường đại học kể từ đó vẫn tuân theo chính sách không bắt buộc phải thi.
Nhưng việc không có điểm SAT và ACT đã trở thành một vấn đề. Nếu không có điểm thi, các nhân viên tuyển sinh đôi khi gặp khó khăn trong việc phân biệt giữa những ứng viên có khả năng phát triển mạnh ở các trường đại học chọn lọc và những ứng viên có khả năng gặp khó khăn. Tại sao? Bởi vì điểm tốt nghiệp trung học (GPA) không phải lúc nào cũng cung cấp đủ thông tin, đặc biệt là do lạm phát điểm số trong những năm gần đây.”
Trái với mấy năm trước đây, lúc người ta nhao nhao đòi bải bỏ SAT vì nó thiên vị người giàu, nhiều phương tiện thì nay những khảo cứu mới lại cho rằng các “điểm khảo nghiệm được chuẩn hóa” (standardized-test scores; chuẩn hóa có nghĩa mọi người đều thi một đề thi giống nhau)) như SAT, ACT có khả năng tiên đoán điểm đạt được ở đại học tốt hơn là điểm tốt nghiệp trung học GPA)[1]. Tuy nhiên, theo Christina Paxson, hiệu trưởng Đại học Brown, nếu đòi hỏi điểm SAT nhiều ứng viên thiểu số sẽ không nộp đơn theo học vì điểm họ thấp, và như thế trường Brown sẽ mất cơ hội xét những ứng viên mà họ cho là cần thiết để có một dân số sinh viên đa dạng về màu da (racially diverse) và tài năng.[2]

GPA và điểm trắc nghiệm SAT, ACT

Điểm trung bình (GPA. grade point average) là tổng cọng của tất cả các điểm khóa học trong suốt quá trình học trung học (high school) của học sinh chia cho tổng số tín chỉ (credits). Hầu hết các trường trung học (và cao đẳng) đều báo cáo điểm theo thang điểm 4.0. Điểm cao nhất, A, bằng 4,0.
Khác với giáo dục ở Việt Nam, chính phủ liên bang ( Washington DC) và tiểu bang không kiểm soát giáo dục công ở các địa phương. Các học sinh có trải nghiệm giáo dục rất đa dạng, từ trường công cho đến trường tư, trường bán công ( charter school do công quỹ đài thọ nhưng hoạt động độc lập); trường học khu giàu được phụ huynh giàu có đóng thuế địa ốc cao đài thọ, giúp đỡ, kiểm soát cho đến trường những khu nghèo, phụ huynh thất học, học sinh nghỉ học kinh niên; rất đông trẻ học tại nhà ( homeschooling), trình độ rất khó xác định. Cho nên thang điểm GPA không có một ý nghĩa phổ quát như trong một nền giáo dục tập trung được điều khiển từ trung ương như ở Việt Nam.
Sau dịch COVID-19 kéo dài mấy năm, do các trường học đóng cửa, trẻ em mất thói quen đi học trường lớp, học từ xa qua internet (Zoom) không hiệu nghiệm mấy, trình độ nói chung giảm sút nhiều.

SAT là kỳ thi tuyển sinh được hầu hết các trường cao đẳng và đại học sử dụng để đưa ra quyết định tuyển sinh. SAT dùng trắc nghiệm bằng bút chì và giấy do College Board tạo ra và thực hiện.
Mục đích của SAT là đánh giá mức độ sẵn sàng vào đại học của học sinh trung học và cung cấp cho các trường cao đẳng một điểm dữ liệu chung có thể được sử dụng để so sánh tất cả các ứng viên. Các viên chức tuyển sinh đại học sẽ xem xét điểm kiểm tra tiêu chuẩn cùng với điểm trung bình GPA của ứng viên, các lớp học ở trường trung học, thư giới thiệu từ giáo viên hoặc người cố vấn, hoạt động ngoại khóa, phỏng vấn tuyển sinh và bài tiểu luận cá nhân. Mức độ quan trọng của điểm SAT trong quá trình nộp đơn vào đại học ở mỗi trường là khác nhau. (Theo Princeton Review)
Thang điểm cho SAT dao động từ 400 đến 1600, với hai phần: Toán và Đọc và Viết dựa trên bằng chứng (EBRW/ Evidence-based Reading and Writing). Mỗi phần sử dụng thang điểm từ 200-800 với mức tăng 10 điểm. Tổng điểm SAT là tổng điểm của hai phần (400-1600).
Điểm SAT thế nào là “tốt” có thể khác nhau tùy theo vào trường đại học. Các trường ít chọn lọc hơn tiếp nhận những ứng viên có điểm SAT gần với điểm trung bình quốc gia hơn (National Median=1028 cho năm 2023), trong khi các trường đại học có tính chọn lọc cao thường ưu tiên điểm trong khoảng 1400-1600.

SAT1 HVH

Hình 1: Kết quả SAT theo giới tính và chủng tộc, riêng cho những người điểm SAT cao hơn 1200 (cao hơn mức trung vị/median là chừng 1028) năm 2022. Nam giới cao hơn nữ giới (28% vs 23%). Amerindian=người gốc Da Đỏ; Asian: gốc Châu Á (58% gần gấp đôi người da trắng); African: gốc Châu Phi; Hispanic: gốc Châu Mỹ Latinh; European: gốc Châu Âu (“Da Trắng”). Tổng quát: 26% của người dự thi có điểm cao hơn 1200. (Nguồn : Wikipedia)

Bài thi trắc nghiệm ACT bao gồm bốn lĩnh vực kỹ năng học thuật:
1. Tiếng Anh
2. Toán học
3. Đọc
4. Khoa học

Bài kiểm tra cũng bao gồm phần viết tùy chọn, đánh giá kỹ năng viết được dạy trong các lớp tiếng Anh ở trường trung học và các khóa học viết luận ở trình độ đầu vào đại học.
Bài thi ACT được chấm theo thang điểm từ 1 đến 36, với điểm tổng hợp là điểm trung bình của bốn điểm phần thi.
Hầu hết các trường cao đẳng và đại học đều chấp nhận điểm của ACT hoặc SAT mà không ưu tiên cho test nào. Nhìn chung, điểm SAT và/hoặc ACT của càng cao thì ứng viên càng có nhiều lựa chọn để theo học và trả tiền học đại học. Riêng đối với những học sinh từ những trường trung học không có tiếng tăm, từ những vùng thiếu phương tiện giáo dục, và điểm GPA của họ không được tin cậy cho lắm vì “lạm phát” điểm phổ biến, một điểm thật cao trong trắc nghiệm SAT hay ACT là một dấu chỉ không thiên vị chứng minh cho khả năng hay tiềm năng xuất sắc, xuất chúng của họ và giúp cho họ được vào các đại học danh tiếng, ưu tú dễ dàng hơn.
25 tiểu bang bắt buộc học sinh lớp 11 thi SAT hay ACT và một số tiểu bang như South Dakota định noi theo.

SAT, ACT và trí “ thông minh “

Có một số khảo cứu cho rằng điểm SAT tương ứng với chỉ số thông minh và tiên đoán thành công sau này trong đường đời của người thiếu niên đó. Cơ quan tổ chức thi The College Board, thì cho biết rằng đây chỉ là một cách đo lường khả năng học hành cho sinh viên khi vào năm đầu đại học mà thôi. Tuy nhiên, dù muốn dù không ảnh hưởng của SAT cũng như thứ hạng trong kỳ thi Tú tài ngày xưa của chúng ta như là một dấu tích của trí thông minh không ít thì nhiều sẽ vẫn còn "vương vấn " mãi, có khi mấy chục năm sau. Cũng vậy, những thước đo khác có tham vọng đo lường trí thông minh có thể sẽ ảnh hưởng lâu dài hơn là những năm mài đũng quần trên ghế nhà trường. Cũng nên nhận xét ở đây rằng ở Mỹ hiện nay, nói về “trí thông minh” hay “IQ” là một đề tài rất nhạy cảm, rất không PC (Politically Correct; không “phải đạo” về chính trị) nhất là khi so sánh IQ giữa những sắc dân khác nhau và tìm cách giải thích những sự khác biệt đó.
Chúng ta sẽ tìm hiểu sau đây nguồn gốc và giá trị, ý nghĩa của những việc đo lường như thế, nhất là chỉ số thông minh, thường gọi là IQ.

Điểm SAT đang có khuynh hướng tụt dần trong những năm vừa qua trong mọi sắc dân ở Hoa Kỳ. Ngoại lệ duy nhất là dân "Asians" nhưng đúng hơn là Đông Á, như gốc Hoa, Nhật, Đại Hàn, Việt Nam, thuộc vùng văn hoá gọi là "Khổng học". Nhóm này điểm SAT cao hơn 41 điểm so với mức trung bình cả nước.
Hiện nay sinh viên Á châu chiếm trên dưới một phần ba số sinh viên các đại học hàng đầu Mỹ mặc dù người Châu Á chỉ chiếm có 5% các học sinh trung học trên toàn nước Mỹ. Riêng ở hệ thống đại học công California, sinh viên Á châu đã thành đa số. Vào mùa thu năm 2023, sinh viên châu Á chiếm 50,5% tổng số sinh viên đại học mới vào của UC Berkeley (so với 43% năm 2013), tương đương với 3.374 sinh viên; trong lúc người da trắng chiếm 28.3%. Chừng 3% sinh viên ở Berkeley là gốc Việt Nam.

Vài nét lịch sử phát triển trắc nghiệm trí thông minh

Cuối thế kỷ thứ 19, các nhà khảo cứu về tâm lý bắt đầu nghiên cứu những phương pháp đo đạc khả năng trí tuệ của con người, trong môn học gọi là anthropometry, tạm dịch là nhân trắc học. Ví dụ:
     ● Người ta đo khả năng đứa trẻ ghi nhớ, lập lại sau khi nghe một loạt con số (digit span); càng lớn tuổi hơn thì nhớ được nhiều số hơn.
     ● Khả năng liên hệ một con số với một mẫu tự (substitution)(ví dụ chữ a được quy định thay thế bằng số 1, chữ r bằng số 2, chữ t bằng số 3, thỉ đứa trẻ thấy số "123" sẽ nhận ra từ "art").
    ● Một số câu hỏi thăm dò khả năng hiểu và dùng các từ (lúc đầu, một trong những khoa học gia tiên phong là Alfred Binet [1857-1911] dùng tiếng Pháp để khảo cứu trí thông minh các học sinh Pháp), định nghĩa một số từ trừu tượng, định nghĩa, so sánh một số đồ vật trong trí nhớ
Độ khó khăn của bài toán được giải đúng tương ứng với một mức tuổi nào đó của đa số trẻ tìm được câu trả lời đúng cho câu hỏi đó.Từ đó người ta lập nên những nấc thang gọi là "mental age" (viết tắc là MA, tiếng Pháp là âge mental), tạm dịch là "tuổi tâm trí". Ví dụ một đứa bé 10 tuổi đời mà giải được các câu hỏi dành cho đứa bé 12 tuổi (trung bình), thì tuổi tâm trí (MA) của nó là 12.
IQ viết tắt từ chữ Intelligence Quotient trong tiếng Anh. Nguồn gốc của nó là tiếng Đức vì William Stern, người Đức , năm 1912 đề ra phương pháp tính trí thông minh bằng một thương số (quotient) như sau: IQ=100 x MA/CA, áp dụng suốt đời, không lệ thuộc vào tuổi tác.
MA là “mental age”, “tuổi tâm trí”, là tuổi của mức trưởng thành tâm trí, CA là chronological age, tuổi đời tính theo năm sinh. Ví dụ, đứa bé 10 tuổi lúc test thì đạt mức phát triển tâm trí MA là 12 tuổi, IQ của trẻ đó tính ra là IQ=100 x 12/10=120. Trong lý thuyết, thì người trung bình sẽ có IQ là 100, nghĩa là theo định nghĩa, đứa trẻ trung bình đạt được MA ngang với tuổi đời của nó. Lewis Terman, một nhà tâm lý Mỹ ở Đại học Stanford, áp dụng ý tưởng này và cải tiến những phương pháp đo trí thông minh từ thời Binet. Một trong những test loại này là Stanford-Binet Intelligence Scales, được gọi tên như vậy do phương pháp của Binet (Pháp) được dịch qua tiếng Anh, bổ túc và ứng dụng ở Đại học Stanford (California , Mỹ)
Hiện nay thì người ta không dùng công thức trên để tính IQ nữa vì những giới hạn của phương pháp này: khó áp dụng cho người đã trưởng thành, vì sau một tuổi nào đó , chúng ta không thể giả định là mức phát triển của tâm trí có tăng với thời gian hay không (ví dụ cùng một người, lúc 30 tuổi người đó có “khôn “ hơn lúc mình 25 tuổi hay không, hoặc là lúc 60 tuổi mình có khôn hơn lúc mình 40 tuổi hay không). Ngoài ra, phương pháp cũ cũng cho quá nhiều những kết quả IQ cao quá đáng có thể không hợp với thực tế.
Những phương pháp trắc nghiệm mới (ví dụ Wechsler Adult Intelligence Scale or Wechsler-Bellevue Intelligence Test [1939] ; Wechsler Intelligence Scale for Children [WISC, 1949]) có lối tính phức tạp hơn và cho một chỉ số tuy vẫn gọi là IQ nhưng không dùng thương số (quotient) tuổi tâm trí chia cho tuổi đời (MA/CA) như vừa nói mà dùng chỉ số đo độ lệch (deviation score) của một thí sinh so với trị số trung bình và độ lệch chuẩn cho mỗi nấc tuổi (“a method that calculated IQ by converting the sum of subtest scores into a standard score, using the mean and standard deviation at each age level” (Boake)).
David “Wex” Wechsler (1896-1981) là một nhà tâm lý Mỹ phụ trách về các trắc nghiệm tâm trí được thực hiện rộng rãi trong quân đội Mỹ trong thế chiến thứ nhất, sau này trở thành trưởng khoa tâm lý của bịnh viện Bellevue ở New York. Ông có công thiết kế loại test mới thay thế cho những test của Binet, hầu áp dụng thích hợp hơn cho người lớn, và ít trông cậy hơn vào khả năng ngôn ngữ của thí sinh. Những “performance test” ("trắc nghiệm thực hành") cho phép đo khả năng của thí sinh không nói tiếng Anh (hoặc Pháp) và đo những khả năng ngoài khả năng về ngôn ngữ.

Chỉ số IQ hiện nay

Hiện nay , IQ là một chỉ số có tính cách so sánh thành quả test của một cá nhân với điểm trung bình (median score) của những cá nhân khác với những đặc điểm tương tự, và xếp hạng xem cá nhân đó ở phần trăm nào (percentile) hoặc ở bao nhiêu độ lệch chuẩn [standard deviation] (SD) (thường là 15) trên hay dưới điểm trung bình đó. Ví dụ nếu IQ mình là 100, thì số người có IQ cao hơn IQ mình bằng số người IQ thấp hơn mình. Nếu IQ 120, thì trong 100 người IQ mình cao hơn chừng 90 người (chừng 90 percentile). Trong 100 người có một người có IQ 137, và IQ 150 thì hiếm hoi (1/000), và cở IQ 190 thì 75-100 triệu người mới có một người (ví dụ cả nước VN hy vọng có một người IQ cở 190)). Trên một biểu đồ phân phối tỷ lệ số người theo IQ từ thấp đến cao thì cho đường biểu diễn giống hình cái chuông, với có chóp, đỉnh ở giữa, bè ra hai bên. Do đó trong tiếng Anh “The Bell Curve” thường dùng để chỉ biểu đồ của IQ trong một tập thể nào đó.

Trong quá khứ, SAT được phát triển từ các test thông minh cho quân đội Mỹ, và hiện nay có những dấu hiệu cho thấy SAT có tác dụng tương tự như các test đo IQ. [3]
Trong y khoa thường IQ được dùng để đánh giá các trẻ gặp vấn đề về học vấn cũng như những trẻ chậm phát triển về tâm trí. Ví dụ một trẻ học kém ở lớp, ngày xưa thầy cô than phiền là “học dốt’. Một số trường hợp học kém , nếu cháu test có IQ mức trung bình hoặc đôi lúc cao hơn trung bình, nhưng cháu học kém trong lớp vì cháu không đọc được các mặt chữ một cách bình thường (dyslexia, ví dụ đọc ngược “top” thành “pot”, “left” thành “felt”, “lawn mower” thành “mawn lower”), hoặc cháu bị bịnh thiếu chú ý (attention deficit), hay quá năng động (hyperactivity), hoặc bị chứng trầm cảm (depression), thì sẽ cần những biện pháp đặc biệt để chữa trị những bịnh đó.
Trẻ có thể học dốt vì khả năng tâm trí (cognitive abilities) về tính toán, về ngôn ngữ (verbal skills), về trí nhớ (memory), về suy luận (reasoning). Trường hợp này trẻ có thể có IQ thấp, các chuyên gia tâm lý phụ trách về trắc nghiệm tâm lý test sẽ cho thấy những vùng yếu kém (như toán, hoặc ngôn ngữ) của đứa trẻ và người ta sẽ cho cháu học những lớp đặc biệt để nâng đỡ cháu về những mặt khiếm khuyết.

 SAT2 HVH

Hình 2: Biểu đồ phân phối hình chuông (bell curve) của IQ. 68% dân số có IQ từ 85-115. Trong 100 người chỉ có dưới 2 người (less than 2%) có IQ trên 130.

(Credit: Charles Stangor, in “Introduction to Psychology”) http://catalog.flatworldknowledge.com/bookhub/reader/127?e=stangor-ch09_s02

Những yếu tố có thể giúp IQ cao hơn:

1. Cho con bú sữa mẹ. Trong 90 % các trường hợp, sữa mẹ có một chất enzyme giúp tạo ra chất DHA và AA cần thiết cho não bộ (long-chain polyunsaturated fatty acids (LC-PUFAs): docosahexaenoic acid (DHA) and arachidonic acid (AA or ARA). Do đó bé nhờ bú sữa mẹ có thể có IQ cao hơn chừng 7 điểm [4]. Gần đây, một số formula có cho thêm chất DHA và AA với hy vọng lấy được lợi thế này của sữa mẹ.
Năm 2013 một khảo cứu của Bịnh Viện Trẻ em Boston công bố mới đây cho thấy các trẻ em được cho bú sữa mẹ có IQ cao hơn các trẻ khác 4 điểm, và sự khác biệt nảy độc lập với trí thông minh (IQ) của người mẹ. Điều này cũng hỗ trợ cho khuyến cáo của American Academy of Pediatrics khuyên các bà mẹ cho em bé bú sữa mẹ thôi (exclusive breastfeeding) cho đến 6 tháng và sau đó tiếp tục cho bú mẹ cọng với các thức ăn khác ít lắm là lúc bé 12 tháng tuổi; sau đó tiếp tục cho bú đến lúc mẹ con muốn ngưng. [5] 2. Cải thiện môi trường gia đình và xã hội: môi trường phong phú thuận lợi cho phát triển tâm trí của em bé.
3. Môi trường càng nghèo nàn thì tiềm năng di truyền trên IQ càng khó bộc lộ ra. Cho nên , đối với trẻ nhỏ ảnh hưởng của môi trường trên IQ rất lớn, nhất là ở các xứ đang phát triển, ở đó môi trường sống của các em còn rất nhiều mặt chưa đạt tiêu chuẩn thế giới, sau đó khi đến tuổi trưởng thành thì yếu tố di truyền quan trọng hơn cả.
4. Như cách ngôn xưa : “ Một trí óc minh mẫn trong một cơ thể tráng kiện”. Điều này đã được khoa học chứng minh. Những vận đông cơ thể loại aerobic exercise (chạy nhảy, chạy bộ, chạy trên máy chạy tại chỗ treadmill) làm tăng IQ của các em cũng như tăng khả năng giải quyết bài toán của các thú vật thí nghiệm.[6] Các thú vật này có bộ óc to hơn và khi thi test thử trí thông minh của chúng, chúng giỏi hơn các con thú “ăn không ngồi rồi”. Trong một công bố của Đại học Illinois ở Urbana- Champaign, [7] người ta cho trẻ em 9-10 tuổi chạy treadmill và theo dõi óc của chúng bằng MRI và test khả năng trí óc của chúng. Kết quả cho thấy một số bộ phận ở đáy não (basal ganglia) lớn hơn và khả năng về thần kinh và tâm trí các trẻ này gia tăng, các em chú ý giỏi hơn, phối hợp tư tưởng và hành động tốt hơn (executive control). Đây là một trong những khám phá quan trọng , nhấn mạnh đến vai trò của vận động để giữ cho cơ thể khỏe, tráng kiện (fitness) đối với sức khỏe tâm trí của các em. Hiện nay, điều này lại khẩn thiết hơn, vì càng ngày các em càng ăn uống quá nhiều, quá mập, ít vận động cơ thể mà phụ huynh thì có thể muốn nhồi nhét mọi thứ vào đầu các em , không dành thì giờ cho các em chạy nhảy, vui đùa và giữ cho cơ thể các em khỏe (tráng kiện).
5. Liên hệ IQ trẻ em và IQ lúc già, bề dày vỏ não và bịnh lẫn người già.
Khảo cứu này cho thấy những người IQ cao từ nhỏ ít bị bịnh lẫn (dementia) của tuổi già hơn, nếu bị bịnh bịnh bắt đầu trễ hơn, và nếu bị bịnh cũng bị nhẹ hơn những người IQ thấp.(8)
6. Cuối cùng , vài điều về song ngữ và IQ.
• Một số trẻ em tiếng mẹ đẻ không phải là Anh ngữ , nếu thi test IQ, phần về ngôn ngữ của chúng có thể rất thấp và chúng có thể bị dán lên cái nhãn “ mentally retarded” một cách sai lầm.
• Vì vậy một số nơi, người gốc Mỹ la-tinh đòi hỏi con cái họ được test IQ bằng tiếng Spanish (tuy nhiên dù có dịch ra tiếng mẹ đẻ của thí sinh, như tiếng Việt chẳng hạn, còn nhiều vấn đề khác, ví dụ test bằng tiếng Việt, thì bản dịch tiếng Việt có chuẩn hay không, dùng tiếng Việt nào, tiếng Việt ở VN, hay tiếng Việt ở Mỹ..)
• Điểm thứ hai, các giáo viên của một số em có IQ thấp có thể không cho em học thêm tiếng nước ngoài vì sợ nhiều quá, em kham không nổi, tuy nhiên, thực tế cho thấy không có gì trở ngại mà còn giúp các em mở rộng chân trời hiểu biết, ngôn ngữ của mình.
• Có những nghiên cứu cho thấy những người song ngữ (bilingual) (được học hành đàng hoàng) thi test IQ có điểm cao hơn (có thể do họ có hai, ba từ cho mỗi đồ vật hoặc ý niệm , và do đó có khả năng suy nghĩ đa dạng hơn (heterogeneous set of abilities), sáng tạo hơn, uyển chuyển (flexibility) hơn là người ràng buộc trong một thứ tiếng). Trẻ chưa biết nói nhưng tiếp xúc với nhiều ngôn ngữ có vẻ “lanh lợi” (executive control, khả năng kiểm soát động thái) hơn các bé khác.

Kết luận
Tóm lại, trong những năm vừa qua, ở Mỹ có khuynh hướng công kích và phê phán giá trị các trắc nghiệm chuẩn hóa (standardized tests) như SAT và ACT trong việc đánh giá các ứng viên vào đại học vì dân gốc Châu Á và nguời Da Trắng có điểm cao hơn các nhóm da màu khác và người ta tìm cách giải thích rằng sự khác biệt này do bất công xã hội gây ra, do đó người ta suy luận rằng dùng các trắc nghiệm này cho việc nhập học sẽ lập lại sự bất công xã hội thêm một lần nữa.
Tuy nhiên, gần đây, có những biến chuyển quan trọng: Tối Cao Pháp Viện cấm áp dụng các hành động khẳng định căn cứ trên màu da; cuộc chiến văn hóa ( cultural war) hiện nay đang rầm rộ ở Mỹ giữa phe bảo thủ (conservative) và phe cấp tiến (progressive, liberal); những nghiên cứu mới cho thấy giá trị của các test như SAT trong việc tiên đoán khả năng học hỏi của sinh viên sau khi vào đại học; cũng như có những bằng chứng cho thấy trường đại học cũng có thể có được một tổng thể sinh viên đa dạng lúc đòi hỏi ứng viên phải có điểm SAT hay ACT ( mà không cần kỳ thị người châu Á).
Do các diễn biến nêu trên, có vẻ thái độ các đại học đang thay đổi. Mặc dù những người chủ trương dùng các trắc nghiệm này vẫn bị chê là không “PC” ( không đúng đường lối chính trị cấp tiến/ politically correct)[9], có vẻ giới xét đơn vào đại học đến lúc phải trở lại dùng các trắc nghiệm này nhiều hơn trước.

Hồ Văn Hiền
Ngày 14 tháng 1 năm 2024

[1] https://www.forbes.com/sites/jonathanwai/2024/01/08/the-misguided-war-on-standardized-tests-used-for-admission/amp/
[2]Bài của Hiệu Trưởng ĐH Brown viết trước khi có phán quyết của Tối Cao Pháp Viện HK chống “affirmative action” về chủng tộc.
To Test or Not to Test A letter from the President By Christina Paxson / June–August 2023 https://www.brownalumnimagazine.com/articles/2023-06-20/to-test-or-not-to-test?campaign_id=9&emc=edit_nn_20240108&instance_id=111970&nl=the-morning&regi_id=115079344&segment_id=154552&te=1&user_id=fab298ffc1549a8c6318d79630b14f4a
[3] Boake C. From the Binet-Simon to the Wechsler-Bellevue: Tracing the History of Intelligence Testing.Journal of Clinical and Experimental Neuropsychology.2002, Vol. 24, No. 3, pp. 383±405 http://www.peekassociates.com/SMU/Projects/binetsimontowechslerbellevue.pdf
[4] Caspi A. Moderation of breastfeeding effects on the IQ by genetic variation in fatty acid metabolism (http://www.pnas.org/content/104/47/18860.long
[5] Mandy B. Belfort et al., Infant Feeding and Childhood Cognition at Ages 3 and 7 YearsEffects of Breastfeeding Duration and Exclusivity. JAMA Pediatrics 2013. [6]http://well.blogs.nytimes.com/2010/09/15/phys-ed-can-exercise-make-kids-smarter/?scp=1&sq=aerobic%20xercise%20IQ&st=cse
[7] Basal ganglia volume is associated with aerobic fitness in preadolescent children. Chaddock L, Erickson KI, Prakash RS, VanPatter M, Voss MW, Pontifex MB, Raine LB, Hillman CH, Kramer AF.
Department of Psychology, Beckman Institute for Advanced Science and Technology, University of Illinois at Urbana-Champaign, Urbana, IL 61801, USA.\
[8] Kamara S. Childhood cognitive ability accounts for associations between cognitive ability and brain cortical thickness in old age. http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/23732878
[9]https://www.foxnews.com/media/sat-defended-misguided-attacks-test-increasingly-becomes-optional-students.amp