"Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông." ** Nguyễn Bá Học **

Đọc Hội Họa

ThieuNuBenHoaHue

"Thiếu nữ bên hoa huệ"

     Mỗi lần Tết đến, trong trí óc non nớt của tôi thời xa xưa, ngòai những vật dụng trong nhà được trang hoàng xanh đỏ vui mắt, điều anh em tôi thích nhất là được xem những bức tranh treo tường mà mẹ tôi mua treo ba ngày Tết. Những tấm tranh có dạng như những bức câu đối, kể lại chuyện cổ tích bằng tranh. Anh em tôi mỗi đứa thích một loại tranh. Em tôi thích các câu chuyện như Trương Chi thổi sáo cho Mỵ Nương nghe, hoặc tranh gà lợn Đông Hồ. Còn tôi thì bất kể đề tài gì cũng được miễn là được vẽ dưới tay của họa sĩ Lê Trung.
      Mãi tận bây giờ đối với tôi, tranh của Lê Trung nổi bật do yếu tố duy nhất là chi tiết ông miêu tả hình ảnh các cô gái. Những cô gái trong tranh ông vẽ đều giống nhau ở nét chính với đặc tính rất rõ ràng theo tiêu chuẩn: Ngực nở, eo thon, mông vạm vỡ cùng mái tóc dày gợi cảm! Các cô gái này sống động và hổn hển thở trong tranh Lê Trung, khiến người xem tranh nhanh chóng cảm nhận nét thanh xuân cùng sức sống ngồn ngộn trong từng nét vẽ của người nghệ sĩ. Cảm nghiệm cái đẹp từ người nữ đã đến với tôi như thế và tôi tin rằng nhiều người cùng thế hệ tôi cũng có kinh nghiệm như vậy.
      Một điều lạ rất ít họa sĩ nổi tiếng của Việt Nam vẽ theo motif Lê Trung. Hình ảnh người nữ trong tranh của họ thường được biểu hiện dưới phong cách “liễu yếu đào tơ” đôi khi đến qúa mức. Người nữ không khoe nét đẹp của thân thể theo khuynh hướng trào lưu mỹ thuật, hoặc thậm chí còn cố tránh những nét đẹp tròn trịa, gợi cảm theo tiêu chuẩn vàng của hội hoạ. Có lẽ những bài học luân lý kinh điển đã làm nét cọ của họ chững lại trước những bức bối của nét thanh xuân từ cơ thể của người ngồi làm mẫu. Ít nhiều gì thì sự cấm kỵ bất thành văn này đã ngự trị thời gian khá dài trên khung vải, trong khuôn viên các trường mỹ thuật Việt Nam, còn lan toả ra hầu hết tại các gallery lớn nhỏ bên ngoài xã hội.
      Dĩ nhiên cũng có họa sĩ cố thoát ra cái rào cản đó. khi hội hoạ VN tiếp cận ngày càng sâu với nền mỹ thuật thế giới. Một trong vài họa sĩ thành công trong cách diễn đạt cơ thể phụ nữ qua cách nhìn khác với đồng nghiệp, là họa sĩ Nguyễn Thị Hợp. Người mẫu trong tranh của bà toát ra nét thanh thoát của cơ bắp của sức sống, cùng sự đầy đặn của cơ thể. Tính nữ trong tranh của bà không nhấn mạnh đến cái “liễu yếu” nữa, mà bằng những thanh tú đầy đặn qua nét nhìn chân phương của người hoạ sĩ. Nhân vật nữ trong những họa phẩm“Mẹ Con”,“Nằm Võng”,“Hái Hoa”…với các bắp thịt ẩn dấu phía sau tà aó, đã chứng tỏ suy cảm ngùn ngụt sức sống của hoạ sĩ. Các bắp thịt bụng của người nữ trong tranh Nguyễn Thị Hợp toát lên sinh khí của vũ vũ trụ và khi nhìn vào, người xem cảm nhận ra ngay nỗi khát khao loan truyền nòi giống hơn là ám ảnh về dục tính mà nhiều họa sĩ khác cố gắng thể hiện, nhưng thất bại. Người nữ trong tranh cuồn cuộn nỗi khát khao âm ỉ khơi gợi mầm sống, đưa nét đẹp của toàn thân tới điểm cao nhất của thẫm mỹ.
Motif người nữ của Lê Trung trước đây và Nguyễn Thị Hợp sau này thật ra đã xuất hiện khá lâu trước đó.

StandingWoman

Standing Woman (1932)

     Gaston Lachaise (1882-1935) điêu khắc gia bậc thầy người Pháp đã dẫn dắt khuynh hướng của giới thưởng ngoạn Tây phương trong một thời gian dài qua các tác phẩm của ông thực hiện bằng gỗ và đồng đỏ (bronze).
“Người đàn bà đứng” (Standing Woman) là một tuyệt tác của ông. Bức tượng miêu tả thiếu nữ khỏa thân với những đường cong có sức khuyến rũ kỳ lạ. Nét gợi cảm của ngực và bụng được phô diễn với tất cả tinh tế của nhà họa sĩ điêu khắc tài hoa. Chất lượng đồng làm tăng vẻ gợi cảm, mặc dù có thể gây lạnh cho người xem ở các đường cong rắn rỏi. Chiếc eo thon đến độ không còn thon hơn được nữa là nét nổi bậc nhất của tác phẩm.

TheBirthOfVenus

Boticelli, "The Birth of Venus"

     Trong nghệ thuật tạo hình, danh từ Vệ Nữ (Venus) được sử dụng làm tựa cho nhiều danh phẩm trên thế giới từ thời kỳ Thiên Chúa kéo dài đến kỳ Phục Hưng.“Venus” được hiểu là cách diễn tả cái đẹp, cái tính nữ trong tác phẩm nghệ thuật. Danh tài Praxiteles của Hy Lạp là người sáng tác và đặt tên tác phẩm Venus đầu tiên của nhân loại.“Aphrodite of Cnidos” là tác phẩm miêu tả về nữ thần Aphrodite, tượng trưng cho sắc đẹp, quyến rũ mê hoặc. Nữ thần trong tranh là đại diện của biển cả, của sự tốt giống (fertility). Đây có lẽ là tác phẩm gía trị nhất của Praxiteles qua mọi thời đại. Ông lấy cảm hứng và khắc họa từ vẻ đẹp huyền ảo của một mỹ nữ Phryne tại thành phố Athen (như Gheisa của Nhật Bản), được huấn luyện kiến thức và tài năng để phục vụ giới thượng lưu Hy Lạp bấy giờ. Nữ thần“Aphrodite of Cnidos” sau đó được các triều vua Knos tác tạo lại bằng cẩm thạch, để trong đền thờ. Và khi xuất hiện lần đầu tiên, công chúng thật sự bị nghẹt thở vì vẻ đẹp tuyệt trần của nó. Với kích thước của người thật, nhìn từ bất cứ góc cạnh nào, bức tượng khỏa thân này cũng toát lên vẻ đẹp cân đối. Và ngay sau đó, chuẩn mực của nét đẹp này được thừa nhận như tiêu chuẩn vàng cho các tác phẩm sau đó. Đây chính là nguồn cảm hứng cho hoạ sĩ Phục Hưng Sandro Botticelli để tạo ra tác phẩm “The Birth of Venus”, và đi thẳng vào lịch sử hội họa thế giới. Nữ thần sắc đẹp đứng trên con sò nổi trên mặt biển, một tay che ngực một tay che phần kín của cơ thể. Bức tranh cho thấy nét thanh xuân của Venus lồng lộng trong gió biển, tượng trưng cái bao la vũ trụ. Và trong bao la đó, sắc đẹp chính là cái đẹp muôn thuở giúp con người vượt thoát lên mọi thử thách của taọ hoá. Con sò dưới chân của Venus ẩn dụ cho sinh thực khí của người nữ, là một trong những nét đẹp của bức tranh, là triết lý thẩm mỹ của cái đẹp trên cơ thể phụ nữ, kéo dài đến thơì kỳ Phục Hưng. Tuy nhiên xét về giải phẩu học thì “The Birth of Venus” không hiện rõ tiêu chuẩn của Leonardo da Vinci hay Raphael sau này. Tác phẩm đã tự đưa ra một tiêu chuẩn riêng: Gợi cảm và quyến rũ. Hai tiêu chuẩn vàng này khó thể hiện thành công trong các tác phẩm khỏa thân nếu họa sĩ không đủ tài năng để nâng da thịt trở thành bệ phóng cho những suy tưởng thẩm mỹ.

VenusWithMirror

"Venus with a mirror"

      Cho tới khi tác phẩm “Venus With a Mirror” của Titan ra đời vào năm 1555, cuối thời kỳ Phục Hưng, thì cái đẹp của Venus đã dần dần bước sang một khuynh hướng mới. Cơ thể của Venus không còn thon thả theo tiêu chuẩn của Raphael nữa, mà có da có thịt. Ngực người nữ trong tranh Titan đậm chất biểu cảm hơn. Khuynh hướng này, có thời kỳ bị các Giáo Hoàng lên án và cho rằng thấm đẫm sắc dục. Titan vẫn không nhường bước, bức tranh được ông cất giữ trong một thời gian dài mãi đến khi ông mất và nó được phát hiện sau đó.
      Khuynh hướng thẩm mỹ không dừng lại mỗi khi một Venus khác xuất hiện thổi vào nền mỹ thuật đương đại. Năm 1908 “Venus of Willedorf” được phát hiện bởi nhà khảo cổ Josef Szombathy. Bức tượng nhỏ bằng lòng bàn tay nhưng ý nghiã của nó thật lớn lao. Niên đại bức tượng được xác nhận là hơn 25 ngàn năm trước Thiên Chúa Gíang Sinh, mô tả một phụ nữ khỏa thân tại vùng thuộc nước Áo. Nó mô tả “vẻ đẹp” của người phụ nữ một cách khác thường: ngực lớn quá khổ, cơ bụng lớn nhiều nếp gấp. Hai đùi thật lớn phía trên và nhỏ dần phía dưới. Cơ quan sinh dục rất chi tiết, các nhà nhân chủng học cho rằng đó là phản ảnh ước vọng của người sáng tạo ra nó trong thời ấy.

VenusIOfWillendorf

Venus of Willendorf

     Mốc thời gian chỉ định bức tượng đươc khai sinh trong thời kỳ con người mải mê săn bắn kiếm sống. Và do đó người phụ nữ trong thời kỳ này khó lòng“phốp pháp” cho được. Có lẽ quá quen thuộc với những phụ nữ ốm yếu chung quanh, người đàn ông cổ đại nung nấu ước vọng người đàn bà của mình sẽ có một cơ thể khác với thường nhật nhàm chán. Động lực này thúc đẩy người nghệ sĩ tạo nên một hình ảnh phụ nữ có sinh lý vững mạnh, khả năng sinh sản cao để lưu giống về sau…những ý tưởng đã hình thành“Venus of Willendorf”.Tuy chưa sác định về gía trị thẩm mỹ, nhưng người ta có thể tin rằng đây là khuynh hướng thẩm mỹ của người hang động. Và biết đâu khuynh hướng này, trong tiềm thức con người, sống dai đến nỗi trong các trường mỹ thuật ngày nay, có những người mẫu có thân hình không thua bao nhiêu so với “Venus of Willendorf”.
Ngày nay nhìn lại những danh tác cổ kim chợt nảy sinh ra lắm điều lạ lẫm. Đẹp mạnh mẽ như các cô gái trong tranh Lê Trung, hiền hòa đầy đặn như người mẫu trong tranh Nguyễn Thị Hợp hay sắc sảo quyến rũ như nữ thấn Phryne, và ít lắm cũng là nữ thần sắc đẹp “The Birth of Venus” thì mới đáng gọi là đẹp. Chứ phốp pháp, dữ dội và quá khổ như “Venus of Willendorf” mà cũng gọi là Venus thì khó tưởng tượng đối với hầu hết người Việt. Nhưng xét cho cùng, nghệ thuật là bước đường khám phá vô tận. Nét đẹp qua từng thời kỳ phải khác nhau. Ngày nay người mẫu gầy như que tăm mới mong lọt vào mắt xanh của các tay tổ Fashion design. Thế nhưng biết đâu chỉ vài thập niên sau, khi quân số của phụ nữ qúa khổ trên thế giới tăng vượt hơn con số 50% so với 27% hiện nay thì khi ấy việc lựa chọn người mập mạp, đầy đặn như “Venus of Willendorf” để làm mẫu thì đâu có gì đáng phải ngạc nhiên.

Trung Đạo