"Quân lính cốt hòa-thuận, không cốt đông; cốt tinh-nhuệ, không cốt nhiều. Người khéo thắng là thắng ở chỗ rất mềm-dẻo, chứ không lấy mạnh đè yếu, nhiều hiếp ít." ** Quang-Trung **

 

Về Phụ Nữ Trong Xã Hội Việt Nam Đầu Thế Kỷ XX

 

PhuNuVNTheKy20 HVH

David Marr là một sĩ quan tình báo Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tại Việt nam (1962-1963) và một nghiên cứu sinh tiến sĩ ở Việt Nam (1967) trước khi trở thành một học giả nổi tiếng về lịch sử và văn hóa Việt Nam hiện đại.

Ông công bố sách “Chủ nghĩa chống thực dân Việt Nam 1885-1925” (“Vietnamese Anticolonialism 1885-1925, University of California Press 1971), và sau đó tham gia thành lập Indochina Resource Center một tổ chức phản chiến được đại sứ Mỹ cuối cùng kết tội là đã làm “mất Việt Nam”.

Cuốn sách của David Marr, " Xét xử Truyền thống Việt Nam, 1920-1945" (Vietnamese Traditions on Trial, 1925-1945) được xuất bản năm 1981 (University of California Press). Năm 1997, ông cho ra đời cuốn sách gần 500 trang nghiên cứu giai đoạn kế tiếp đầy biến cố: Vietnam 1945, The Quest For Power ( Việt Nam năm 1945, cuộc săn tìm quyển lực).

Sách “Xét xử truyền thống Việt Nam” nhấn mạnh tầm quan trọng của những thay đổi về văn hóa, xã hội và kinh tế ảnh hưởng đến cuộc xung đột chống thực dân Pháp và sau đó trong cuộc chiến tranh giữa người quốc gia và người cọng sản. Cho đến nay, bốn mươi năm sau khi đọc cuốn sách lúc vừa đến Mỹ để tìm hiểu “tại sao ta ở nơi đây”, tôi vẫn chưa tìm thấy một tác giả nào khác phân tích chi tiết và thú vị như vậy về giai đoạn này. Những sách vở của thời Việt Nam Cọng Hòa trước 1975 phần lớn lơ là các thành tựu về văn hóa, báo chí, văn học ( nói chung là "trí thức") của chính miền Nam nước Việt đầu thế kỷ thứ 20 và đặt trọng tâm vào vùng Hà Nội. Sau 1975, hầu như tất cả các biến chuyển lịch sử văn hóa cũng như chính trị đều được giải thích qua lăng kính chính trị của nhà nước cộng sản. Sách của Marr cung cấp một cái nhìn sâu rộng hơn về những gì xảy ra trong nửa đầu thế kỷ thứ 20.

Trong lời nói đầu, tác giả David Marr kể lại như sau (trang viii):
“Đến với Đại học Quốc gia Úc năm 1975, ban đầu tôi dự định nghiên cứu và viết tập thứ hai về chủ nghĩa chống thực dân của Việt Nam. Tuy nhiên, ý tưởng đó đã bị thay đổi khi tôi phát hiện ra nguồn tài liệu gốc (original sources) phong phú và đa dạng như thế nào trong giai đoạn 1920-1945. Chỉ tính riêng Thư viện Quốc gia (Paris) đã có gần 10.000 đầu sách bằng tiếng Việt được lưu giữ. Hàng trăm loạt bài báo (serials) bằng tiếng Việt và tiếng Pháp có sẵn tại Versailles hoặc có thể đặt hàng trên vi phim. Ít nhất tám mươi cá nhân đã xuất bản hồi ký về các hoạt động chính trị, quân sự và văn hóa của họ cho đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Kho lưu trữ d'Outre-Mer (Paris và Aix-en-Provence) có một số ấn phẩm bí mật của Việt Nam, và một số khác đã được các tạp chí học thuật ở Hà Nội tái bản. Mặc dù rõ ràng là không thể đọc hết tất cả những tài liệu này, nhưng tôi cảm thấy rằng không có tài liệu nào có thể bị loại bỏ trước vì không liên quan.
Những gì nổi lên một cách sống động nhất từ những nguồn tài liệu gốc là tâm trạng thử nghiệm, sự phong phú của những ý tưởng thú vị, những tương tác thân mật, những thất vọng sâu sắc, những lần xem xét lại đau đớn và sự chia rẽ cuối cùng của giới trí thức (intelligentsia) theo những đường lối quen thuộc với bất kỳ ai nghiên cứu về Việt Nam trong những thập kỷ sau đó. Mặc dù các học giả khác vẫn có thể mong muốn lập bảng so sánh giữa những người theo chủ nghĩa thực dân và những người chống thực dân, những người theo chủ nghĩa dân tộc và những người cộng sản, những người theo chủ nghĩa truyền thống và những người theo chủ nghĩa hiện đại, nhưng đối với tôi, việc cố gắng truyền đạt môi trường trí tuệ chung này, sự bùng nổ thực sự của óc tò mò và hội  thoại (conversation), đi theo sau đó là thử nghiệm và thực hiện tập trung hơn.”
“Cuốn sách kết quả về cơ bản bao gồm tám chương mang tính chủ đề, không có chương nào được định trước khi tôi bắt đầu khám phá các nguồn gốc. Phải thừa nhận rằng, trên cơ sở nghiên cứu về thế hệ học giả-quý tộc (scholar-gentry) Việt Nam trước đây, tôi không quá ngạc nhiên khi thấy thế hệ trí thức này tiếp tục quan tâm đến mối quan hệ giữa đạo đức và chính trị, với ý nghĩa của quá khứ, và với các vấn đề hài hòa xã hội và đấu tranh xã hội. Tôi cũng có linh cảm mạnh mẽ rằng vấn đề làm thế nào để liên hệ lý thuyết với thực tiễn và ngược lại sẽ rất quan trọng đối với những trí thức, những người do sự lựa chọn hoặc hoàn cảnh đã trở thành một phần của các phong trào chính trị có tổ chức. Mặt khác, tôi ngở ngàng trước vô số văn bản và bài báo về giáo dục đạo đức. Trước đó tôi cũng không ý thức được mức độ thảo luận về cải cách ngôn ngữ. Và cường độ tranh luận về vai trò đang thay đổi của phụ nữ Việt Nam khiến tôi cảm thấy mình không hề được chuẩn bị đầy đủ.”

Đoạn sau đây được trích từ sách “ Vietnamese Tradition on Trial 1920-1945” (1981), nói về các chuyển biến của trí thức Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ 20 liên quan đến các vấn đề phụ nữ, mà “cường độ tranh luận về vai trò đang thay đổi của phụ nữ” đã làm cho tác giả thấy giật mình và phân tích kỹ lưởng. Một số trích dẫn đã được Marr dịch sang tiếng Anh từ tiếng Việt, và trong bản dịch này tôi dịch trở lại qua tiếng Việt , cho nên có thể không chính xác so với nguyên bản gốc tiếng Việt.

Hồ Văn Hiền
Ngày 10 tháng 3 năm 2024

 

Vai trò đang thay đổi của phụ nữ Việt Nam đầu thế kỷ thứ 20, những bước đầu

Một thế hệ trí thức Việt Nam mới xuất hiện trong thập niên đầu thế kỷ XX, quyết tâm đấu tranh vì độc lập dân tộc và hiện đại hóa xã hội Việt Nam.
Lúc đầu một cách mờ nhạt, sau đó mạch lạc hơn, một số người trong số họ hiểu rằng bất kỳ cuộc nổi dậy văn hóa nghiêm trọng nào cũng cần phải tấn công vào thế phụ thuộc của phụ nữ, cũng như bất kỳ cuộc đấu tranh dân tộc nghiêm túc nào cũng có cơ hội thành công cao hơn nhiều nếu được phụ nữ tham gia tích cực. Ngoài ra, sự tức giận trước sự bóc lột của thực dân Pháp đối với người Việt Nam thường mở rộng tầm mắt của nam giới đối với các hình thức bóc lột khác, trong đó có hình thức bóc lột phụ nữ bởi đàn ông, cũng như phụ nữ thường nhìn thấy nhanh nhất và nhạy bén nhất tính chất cơ bản của mối quan hệ thuộc địa. Trong khi phụ nữ phải mất thêm hai thập kỷ nữa mới có được tiếng nói của riêng mình trước công chúng và bắt đầu tổ chức một cách hiệu quả, gần như chắc chắn rằng vào những năm 1905-10, những thái độ cũ đã bắt đầu thay đổi ở ít nhất một phần nhỏ của dân chúng.
Trong thời kỳ này, phụ nữ được công nhận là một phần của guồng máy quốc gia, ít nhất là trên lý thuyết. Các đề xuất cụ thể đã được đưa ra để mở rộng cơ hội giáo dục cho họ. Tại Đông Kinh Nghĩa Thục, tuy tồn tại trong thời gian ngắn nhưng có ảnh hưởng lớn, phụ nữ được khuyến khích tham dự các bài giảng cho công chúng về lịch sử, văn hóa và chính trị—vào thời điểm đó là một sự đổi mới căn bản. Các cuộc tụ họp lớn hơn, ít mang tính học thuật hơn được tổ chức bên ngoài, bao gồm các bài thuyết trình đầy kịch tính kể lại những truyền thuyết xung quanh Hai Bà Trưng anh hùng. Hai phụ nữ, là con gái có học thức của những gia đình chữ nghĩa, đã được vinh dự chưa từng có khi được tham gia trường này với tư cách là giáo viên dạy tiếng Trung Hoa và quốc ngữ. Tuy nhiên, nam giới lại chiếm giữ mọi vị trí lãnh đạo trong trường và chính những người đàn ông này bị Pháp tống vào tù khi xảy ra cuộc đàn áp không thể tránh khỏi.
Phan Bội Châu (1867-1940), người có vẻ quan tâm nhiều hơn hầu hết những người đàn ông cùng thời về địa vị của phụ nữ Việt Nam, đã viết một vở tuồng hấp dẫn về Hai Bà Trưng. Các nhân vật về cơ bản là những vai trò nguyên mẫu (archetype) về thực dân và người chống thực dân trong trang phục thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên. Hầu như là chắc chắn mục đích chính của cụ Phan là tập trung vào vai trò của phụ nữ Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân sắp tới. Ông đặt ra một tình huống trong đó hành động của phụ nữ xuất phát từ những nguyên tắc yêu nước đã thúc đẩy cha, chồng và anh em của họ nhiều hơn là từ sự tôn trọng các khái niệm Nho giáo về sự phục tòng và bổn phận của phụ nữ. Cụ thể, trong khi hầu hết các nhà văn tiếp tục bước qua thế kỷ 20 vẫn nhấn mạnh đến Trưng Trắc như là người vợ trung thành báo thù cho chồng bị thái thú nhà Hán giết, cụ Phan miêu tả đây chỉ là chất xúc tác tiếp thêm sinh lực cho tình yêu đất nước có sẳn từ trước của bà và ý muốn đánh đuổi giặc ngoại xâm. Và trong khi em gái của Trưng Trắc, Trưng Nhị, từ lâu đã được miêu tả là tham gia đấu tranh vì nghĩa vụ chị em, thì cụ Phan đặt động lực này đứng thứ hai sau lòng yêu nước.
Mặt khác, Phan Bội Châu vẫn vận dụng những đặc điểm nữ tính rập khuôn để khiến hai bà Trưng trở nên “thật” hơn với khán giả của mình. Trưng Trắc khóc thê thảm khi thi thể chồng được đưa về nhà. Trong nghịch cảnh sau đó, bà có lúc mất tinh thần, và người em gái phải thúc dục lòng can đảm của bà bằng lời kêu gọi: "Nào, chúng ta không thể nhường bước cho những cảm xúc tầm thường của nữ nhi. Chúng ta phải ra ngoài lo việc quân sự." Mười lăm năm sau khi Phan viết những dòng này, Trần Hữu Độ, một người có khuynh hướng chính trị tương tự, vẫn sử dụng phép ẩn dụ dùng hình ảnh phụ nữ để thể hiện một số thái độ tồi tệ nhất của con người cần phải đấu tranh, chẳng hạn như sự thụ động, sự yếu đuối về thể chất và tinh thần, chủ nghĩa nhục dục (sensualism), và đầu óc hẹp hòi. Trong quần thể lớn các anh hùng phương Tây đáng được noi theo của Trần Hữu Độ, chỉ có một người, Joan of Arc, là phụ nữ, trong khi trong số những nhân vật lịch sử vĩ đại của Việt Nam chỉ có hai Bà Trưng được xếp ngang hàng với nam giới. Điều tốt nhất có thể nói đối với Trần Hữu Độ về vấn đề này là ông đã không công kích những nỗ lực cố gắng khẳng định bản thân của phụ nữ Việt Nam, và đến cuối những năm 1930, ông đã thành công trong việc loại bỏ những định kiến tâm lý khỏi các tác phẩm của mình.
Người Pháp, sau khi đóng cửa Đông Kinh Nghĩa Thục vào đầu năm 1908 và sau đó bỏ tù hoặc vô hiệu hóa hầu hết các học giả Việt Nam có khuynh hướng chống thực dân, đã dần dần chuyển sang thúc đẩy các giải pháp thay thế dễ chấp nhận hơn về mặt chính trị. Quan trọng nhất từ góc độ trí thức, ít nhất là trong bảy hoặc tám năm sau khi nó được sáng lập tại Hà Nội vào tháng 7 năm 1917, là tờ nguyệt san Nam Phong , đã được thảo luận trước đây. Chủ bút Phạm Quỳnh (1892-1945), cảm thấy mình có đủ tư cách để bình luận về mọi khía cạnh của sự tồn tại của con người, bao gồm cả vai trò của phụ nữ trong các xã hội khác nhau Đông và Tây, cũ và mới. Trong một bài tiểu luận năm 1917 có tựa đề "Sự giáo dục đàn bà con gái", Phạm Quỳnh đã phác họa một quan điểm cải cách rất thận trọng mà trong khoảng thập kỷ sau đó đã thu hút được sự ủng hộ của tầng lớp thượng lưu và trung lưu ở cả hai giới trước khi bị tấn công dữ dội và phần lớn bị chối bỏ.
Rõ ràng, động cơ thúc đẩy bài viết của Phạm Quỳnh là mối lo ngại của ông rằng những tư tưởng mới lạ về “nam-nữ bình quyền” đang bắt đầu thẩm thấu vào Việt Nam trong lúc những chuẩn mực đạo đức cũ rỏ ràng đang suy thoái. Ông nói, nếu phụ nữ thực sự khao khát "tự trị" và “tự bào vệ”, họ sẽ cần một chế độ giáo dục cẩn thận, nếu không họ sẽ nhanh chóng rơi vào hố sâu mục nát và hoang tàn. Mặt khác, ông ta tấn công những người Việt Nam có "tâm lý thời trung cổ", những người cho rằng giải pháp duy nhất là giữ cho phụ nữ mù chữ và thiếu hiểu biết. Ông lập luận rằng tầm nhìn hạn chế như vậy sẽ chỉ dẫn đến sự mất tinh thần hơn nữa; ngoài ra, về lâu dài nó không thực tế. Vì vậy, Phạm Quỳnh được sự hậu thuẫn của các thành viên chính quyền thuộc địa Pháp, đã đề ra chính sách cực kỳ tiệm tiến để đối phó vớ các cơ hội hiện đại cho phụ nữ Việt Nam.

Điểm mấu chốt trong quan niệm của Phạm Quỳnh là sự phân hóa chương trình giảng dạy dành cho nữ giới theo giai cấp. Ông đã dành hơn một nửa bài luận văn của mình để mô tả cẩn thận một mặt là việc giáo dục phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu (bao gồm tư sản cao cấp /haut bourgeois) và nửa bài kia là cho việc giáo dục tầng lớp trung lưu. Không đề cập đến việc hướng dẫn phụ nữ thuộc tầng lớp thấp hơn, hoặc vì Phạm Quỳnh coi họ là không đáng kể hoặc vì ông biết rằng gia đình họ hiếm khi có thể miễn cho họ việc đồng áng và việc nội trợ. Đối với tầng lớp thượng lưu, ông đề xuất mở một học viện tư nhân đặc biệt dành cho phụ nữ, với một phần các lớp học tiêu chuẩn dành cho các thiếu nữ và phần thứ hai gồm các bài giảng và thảo luận dành cho những thiếu nữ trình độ cao hơn và phụ nữ trưởng thành. Phần lớn nội dung giảng dạy sẽ bằng tiếng Việt và nhấn mạnh vào văn học dân gian, bắt đầu với Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Lục Vân Tiên, và các tác phẩm khác “phù hợp với bản chất phụ nữ”. Một số sinh viên thông minh hơn có thể học một ít chữ Hán và thậm chí có thể học một ít văn học Pháp. Tuy nhiên, ông ta phán một cách rầu rỉ, các cô gái sẽ chỉ có một khoảng thời gian giới hạn trong đời để học tập, và sau đó sẽ đến lúc kết hôn - một cuộc sống hoàn toàn mới.
Đối với những cô gái trung lưu, Phạm Quỳnh cho rằng cần phải tìm kiếm những kết quả “thiết thực” hơn. Đối với ông, điều này có nghĩa là đặc biệt chú ý đến đức tính đầu tiên của phụ nữ truyền thống, “công”, khác biệt với “dung, ngôn, hạnh”. 'Công' có nghĩa là các lớp may, dệt và thêu, cộng với số học, để đáp ứng mối bận tâm được cho là của tầng lớp trung lưu với việc mua bán và duy trì sổ sách chi thu chính xác. Ngược lại, các cô gái thuộc tầng lớp thượng lưu được phép nghiên cứu các môn khoa học tự nhiên, vệ sinh, địa lý và lịch sử - mong rằng họ được tham gia vào các cuộc trò chuyện giao tiếp lịch sự khi trưởng thành. Và, trong khi tầng lớp thượng lưu có thể học văn học Trung Hoa hoặc Pháp, thì các cô gái thuộc tầng lớp trung lưu sẽ chỉ có một chút tiếng Pháp để có thể tham gia vào các mối quan hệ thương mại trực tiếp với người Pháp.
Trong những năm tiếp theo, Phạm Quỳnh viết hoặc dịch các bài viết khác có liên quan đến vấn đề phụ nữ. Sự binh vực nổi tiếng của ông đối với nhân vật gái điếm Thúy Kiều dựa khá nhiều vào chủ nghĩa lãng mạn, trữ tình (lyricism) và “văn hóa của sự tuyệt vọng” (“culture of despair” [mô tả hoàn cảnh tuyệt vọng, thờ ơ và phục tùng của con người trong một xã hội bất công]) của phương Tây, thực sự khác xa với cuộc thảo luận có định hướng chính sách của ông về đạo đức đúng đắn và tính thực tiễn xã hội trong giáo dục phụ nữ. Sau khi lý tưởng hóa sự đa cảm cá nhân và đời sống tình cảm đa dạng đến khó tin của Thúy Kiều, Phạm Quỳnh dường như thấy không có gì bất thường khi ông quay lưng lại và tố cáo lối nói đương thời về “tự do và bình đẳng”, đặc biệt là mong muốn của một số phụ nữ làm điều gì đó khác hơn là giúp cho gia đình mình hoạt động hiệu quả. Ở mức độ mà ông ấy chịu trao cho phụ nữ một vai trò trí thức hoặc chính trị hiện đại nào, đó là vai trò bà chủ nhà trong phòng khách (hostess of salon) sau khi họ đã giúp chồng xây dựng sự nghiệp, gia đình và tài trợ cho các hoạt động từ thiện thời thượng.
Trong số những người đóng góp cho Nam Phong nói chung, sự khác biệt về quan điểm liên quan đến phụ nữ thậm chí còn rõ ràng hơn. Ví dụ, khi Hoàng Ngọc Phách, một sinh viên ngành sư phạm sớm nổi tiếng là một tiểu thuyết gia tiên phong của Việt Nam, đã lên án Truyện Kiều và những tiểu thuyết lãng mạn mới hơn đã làm suy yếu tính hiệu quả của những quy định đạo đức Nho giáo lâu đời dành cho phụ nữ, làm cho họ dễ bị tổn thương hơn trước, ngay lập tức ông ta bị một số nữ độc giả thượng lưu công kích . Về cơ bản, họ nói với ông rằng phụ nữ không cần những người giám hộ đạo đức là nam giới để quyết định những gì họ nên hoặc không nên trải nghiệm.
Họ coi những nhận xét của Hoàng Ngọc Phách là cực kỳ trịch thượng và có tiêu chuẩn kép về tình dục (sexual double standard) —ít nhất là khi áp dụng vào văn học—hoàn toàn không phù hợp với thời đại.
Trong khi đó, Nguyễn Bá Học, một nhà văn nổi tiếng, tiếp tục không nao núng bảo vệ hôn nhân được sắp đặt và công khai chỉ trích Phạm Quỳnh vì đề nghị giáo dục hiện đại cho một thiểu số phụ nữ Việt Nam khi, ông nói, cả nước vẫn còn quá kém phát triển và thậm chí cả nam giới có học cũng không tìm được việc làm thích hợp. Ngoài ra, “Phụ nữ càng học cao thì càng hoang phí tiền thu nhập, ham muốn nhục dục càng bùng lên, và cuối cùng họ sẽ rơi vào cảnh bần cùng”. Phụ nữ sẽ mất hết ý thức về sự đoan trang nếu cư xử như đàn ông.Nguyễn Bá Học kết luận. Ngược lại, một ông quan cấp cao cọng tác với Pháp, Thân Trọng Huề, lại lập luận rằng những hướng dẫn cổ điển của Nho giáo về việc phụ nữ ở nhà chưa bao giờ được tuân thủ nghiêm nhặt ở Việt Nam, và chắc chắn không nên được phục hồi vào lúc này. Ông chỉ ra rằng từ lâu, việc phụ nữ Việt Nam làm việc đồng áng, chế tạo các đồ thủ công và ra chợ buôn bán món hàng dư dùng trong gia đình là điều khá bình thường. “Việc gì đàn ông làm được thì phụ nữ cũng làm được”, Thân Trọng Huề khẳng định, và điều này phải được ghi nhớ khi hoạch định chính sách của chính phủ hoặc tổ chức các nhóm công dân.
Sau này, báo Nam Phong đã thực hiện một lập trường bảo thủ hỗn hợp (hybrid), về cơ bản là kết hợp những bài thơ hoài cổ khác lạ ca ngợi tinh thần nữ tính “phương Đông” với những cuộc tấn công rõ rệt nguồn gốc châu Âu vào sự giải phóng phụ nữ. Vì vậy, một mặt, đã xuất hiện một bản dịch và bình luận lý tưởng hóa và lãng mạn hóa gồm mười ba phần về nhiều phụ nữ Trung Quốc thời xưa. Các biên tập viên thậm chí đã phải lùi lại hai thiên niên kỷ để hồi sinh và dịch một bộ hướng dẫn dành cho phụ nữ của triều đại nhà Hán. Mặt khác, các nhà văn phương Tây ít tên tuổi như Henri Marion, Gina Lombroso, Félix Pécaut được nhập khẩu và dịch để chứng minh rằng nhiều người trong “thế giới văn minh” cũng tiếp tục duy trì quan điểm lấy gia đình làm trung tâm cho phụ nữ và phản đối hôn nhân tự do, bình đẳng giới tính và các trường học dành cho cả nam và nữ.
Có lẽ hai mạch văn hóa này đã được kết hợp với nhau một cách khéo léo nhất trong bản dịch dài kỳ gồm năm phần của cuốn “Nhật ký sợ vợ”, thực ra là một bức tranh biếm họa tàn nhẫn về những người phụ nữ thành thị hiện đại hóa ở Trung Quốc đương đại.
Theo lệnh của Toàn quyền, năm 1918, Phạm Quỳnh đi Nam Kỳ và cố gắng khích động sự quan tâm của một số gia đình học giả lâu đời trong việc hợp tác chặt chẽ hơn với người Pháp. Ông đặc biệt quan tâm đến gia đình Nguyễn Đình Chiểu, tác giả Lục Vân Tiên, và ba mươi năm sau khi nhà thơ qua đời, ông vẫn là biểu tượng cho sự bướng bỉnh của miền nam từ chối chấp nhận việc “đồng hóa” dưới sự cai trị trực tiếp của chính phủ thuộc địa. Một số con cháu kiên quyết từ chối nhưng Sương Nguyệt Anh (1864-1921), người làm thơ chữ Hán và chữ Nôm đồng ý tham gia. Kết quả là tờ báo định kỳ đầu tiên của Việt Nam đặc biệt hướng đến phụ nữ, có tên Nữ Giới Chung xuất bản tại Sài Gòn vào thứ Sáu hàng tuần bằng chữ quốc ngữ , và được kiểm soát về mặt tài chính bởi Henri Blaquière, giám đốc báo Le Courrier Saigonnais. Trong số đầu tiên của Nữ Giới Chung, ngày 2 tháng 2 năm 1918, Sương Nguyệt Anh cảm ơn Toàn quyền đã quan tâm, bày tỏ sẵn sàng hợp tác trong chương trình cải cách giáo dục của ông, đặc biệt là mở rộng giáo dục quốc ngữ, và hứa sẽ tránh những “vấn đề chính trị”. Bà cho biết, tạp chí định kỳ của mình sẽ nhấn mạnh đến việc duy trì các tiêu chuẩn đạo đức, hướng dẫn các công việc hàng ngày, thúc đẩy thương mại và sản xuất thủ công cũng như "mở rộng mối liên hệ giữa mọi người" nói chung. Sương Nguyệt Anh có lẽ đã hy vọng Nữ Giới Chung sẽ trở thành tạp chí phụ nữ cho toàn quốc. Thơ của bà thường gợi lên hình ảnh đoàn kết của người Việt Nam Bắc, Trung, Nam. Tuy nhiên, vào năm 1918, số phụ nữ thành thạo quốc ngữ vẫn còn khá ít, và sự thận trọng tột độ của người biên tập đối với các vấn đề chính trị có lẽ còn làm giảm lượng độc giả hơn nữa. Tệ hơn nữa, một số người ghi tên mua báo đã không thanh toán được hóa đơn của mình. Cuối năm 1918, sau chưa đầy một năm xuất bản, tuần báo này đã chấm dứt hoạt động.
Sương Nguyệt Ánh về mọi mặt vẫn là người gìn giữ các giá trị truyền thống.
Thật vậy, việc sau khi chồng bà mất sớm, bà đã thề sẽ không bao giờ tái hôn và nêu giữ hình ảnh của người góa phụ cho mọi người chiêm ngưỡng , rõ ràng là một khía cạnh khác trong sức hấp dẫn của bà. Việc bà thường xuyên nhấn mạnh vai trò của con gái, người vợ và người mẹ trong gia đình Việt Nam mang một thông điệp có uy lực đặc biệt.
Đã có hơn một nhà văn ngưỡng mộ so sánh bà với hình tượng Kiều Nguyệt Nga được lý tưởng hóa trong tác phẩm kinh điển Lục Vân Tiên của thân phụ bà. Tuy nhiên, việc một phụ nữ đảm nhận vai trò biên tập một tạp chí định kỳ lớn, dù chỉ trong thời gian ngắn, đã tạo động lực cụ thể cho những bà vợ thuộc tầng lớp thượng lưu khác muốn mạo hiểm vượt ra ngoài phạm vi gia đình.
Mười lăm năm sau, Phan Văn Hùm, trí thức theo chủ nghĩa Trotsky, vẫn còn cố gắng giải thích cho chính mình và độc giả của mình tại sao một người phụ nữ có khuynh hướng truyền thống lại có thể truyền cảm hứng cho rất nhiều hành vi phi truyền thống. Câu trả lời của ông, hầu như không thỏa đáng, nhưng cũng không phải không có ý nghĩa văn hóa, đó là Sương Nguyệt Anh, mặc dù rất khắt khe với bản thân nhưng lại có xu hướng khá khoan dung với người khác. Cụ thể, mặc dù tỏ ra không quan tâm đến những ảnh hưởng trên bản thân của việc chế ngự tình dục, bà vẫn nhạy cảm với vấn đề này đối với người khác và không bao giờ yêu cầu tất cả các góa phụ phải tránh tái hôn. Ở mức độ mà điều này có thể đúng, những người đàn ông theo chủ nghĩa truyền thống đã cảm nhận được mối đe dọa và bắt đầu đưa ra những phản bác ngay cả trước khi báo Nữ Giới Chung phải đóng cửa.

Hồ văn Hiền dịch và giới thiệu
Ngày 9 tháng 3 năm 2024