Tôi Làm Rể Gia Long
Quý vị đừng tưởng tôi nói dối. Thực ra muốn làm rể Gia Long cũng trầy vi tróc vẩy chứ không phải chơi!
Số là… tôi thuộc loại "văn dở chữ xấu", nhưng cũng học đòi lãng mạng. Không biết PhạmThiên Thư đã say mê bóng hồng nào mà sáng tác bài thơ "Ngày xưa Hoàng Thị", lại được nhạc sĩ đại tài Phạm Duy phổ thành nhạc, hay không còn lời nào để khen thêm được. Với tuổi hai mươi, dù chưa có người yêu mà tim tôi cũng tê tái mỗi khi nghe Thái Thanh cất giọng hát và cứ tưởng như chuyện của mình được viết thành thơ.
Rồi tôi mơ mộng, vẽ vời hình ảnh người tình lý tưởng -một người con gái dáng gầy gầy, mái tóc thề óng ả, tay ôm nghiêng tập vỡ, bước chậm trong những chiều tan học. Tôi sẽ lẽo đẽo theo nàng, rồi đến một ngày nào đó nàng sẽ quay lại mỉm cười và… tôi sẽ bước tới. Không biết lúc đó tôi sẽ làm gì nhỉ? Trao cho em một cành hoa hái vội đâu đó?. Hay là làm sẵn một bài thơ (không ổn! làm thơ thì tôi chịu thua). Thôi thì chép một bài thơ của Nguyên Sa. Thế là tuyệt diệu nhất. Có thể là bài "Cần thiết":
Không có anh lấy ai đưa em đi học về
Ai viết thư cho em mang vào lớp học
Ai cầm tay cho đỏ má hồng em.
Khi về nhà, đọc bài thơ nầy, tim nàng sẽ đập rộn ràng khi áp trang giấy mỏng vào má… rồi chuyện gì sẽ xảy ra sau đó? Ôi thôi, chỉ nghĩ đến mà hồn tôi lâng lâng khó tả. Tôi quyết chí phải tìm cho được "Ngọ" của tôi.
Chiều nào tan học tôi cũng cong lưng đạp xe từ Phú Thọ ra Saigon, hết Phan Thanh Giản lại đến Bà Huyện Thanh Quan mà không gặp được cô nào đi một mình. Nếu có thì "xí" quá, không có mái tóc dài như tôi mơ ước. Tôi thấy mình giống Nguyên Sa, chỉ khác là đi ngược đường thôi.
Anh vẫn đạp xe từ Saigon ra trường đua Phú Thọ
Hết cả tiền uống ly nước mía
Mà cũng không gặp em
Nên khát đắng linh hồn...
Nhưng trời cũng không phụ kẻ có lòng như tôi, nên định mệnh đã bắt đầu vào buổi trưa nhạt nắng. Hôm ấy, tôi đang đạp xe trên đường Lê văn Duyệt thì bất ngờ thấy một cô nàng có mái tóc dài, ôm cặp nghiêng nghiêng, dáng thon gầy trong chiếc áo dài màu trắng đang đi phía trước. Tôi ghì xe chầm chậm để nhìn cho kỹ từ phía sau với hy vọng là khuôn mặt sẽ đẹp não nùng. Choáng váng với dáng dấp mỹ miều, tôi vội chạy nhanh ra phía trước rồi quay lại để nhìn mặt nàng. Bất chợt nàng mỉm cười -một nụ cười mà cho đến hôm nay tôi vẫn nghĩ là đẹp nhất thế gian. Nụ cười duyên dáng với má lúm đồng tiền trên khuôn mặt xinh xắn làm tôi sững sờ, bối rối tay chân, làm chiếc xe lảo đảo suýt ngã và cũng không kịp cười đáp lại vì chưa hề sẵn sàng -Mãi đến mười năm sau tôi mới vỡ lẽ, hôm đó nàng không hề cười với tôi mà với cô bạn đi xe Honda chạy ngang qua. Dù sao thì sự hiểu lầm nầy cũng đã giúp tôi có đủ niềm tin để theo nàng hàng ngày, ròng rã hơn sáu tháng.
Quý vị có biết tại sao không? Tôi biết rõ mình không bảnh trai mà có phần hơi tệ là đằng khác. Nước da không sáng sủa, thêm cái mũi cà chua. Tóc không chịu nằm im mà dựng ngược. Đã vậy, khuôn mặt còn điểm thêm năm mười hạt mụn "dậy thì" trễ, nhìn vào gương thấy phát ghét. Chưa bao giờ nghe ai khen tôi, trừ một lần lâu lắm mà tôi nhớ hoài và cố tin là sự thật. Đó là lần người chị họ nói:
-Em có miệng cười duyên lắm, nhờ cái răng khểnh.
Tôi chạy vội về nhà, đứng trước gương, nhe răng cười xem có duyên chỗ nào, nhưng chỉ thấy hàm răng mất trật tự, trông nản quá! Bởi vậy, hai mươi tuổi, vào đại học rồi mà chưa có người yêu. Chính vì thế mà khi được người đẹp ban cho một nụ cười làm sao tôi không bối rối. “Quân sư” của tôi có nói, khi một cô gái lạ nhìn mình cười, có nghĩa là chịu đèn rồi đó. Tôi liền xuống xe dẫn bộ, lẽo đẽo theo sau nàng mà nghe tim đập thình thịch. Hình nhưng nàng không biết có người theo nên thong thả quẹo vào cổng đình Phú Thạnh, quanh co vài lối và bước vào căn nhà có cửa màu xanh mất hút. Thế là suốt buổi chiều hôm ấy, tôi đạp xe qua lại mấy lượt trước căn nhà màu xanh, cố tìm lại nụ cười đã làm mình xao xuyến, bâng khuâng. Tôi chợt nhớ đến những câu thơ của thi sĩ Nguyên Sa -mà tôi nghĩ là ông đã viết hộ cho tôi.
Anh nhớ nhà em có cửa xanh xanh
Có một hàng rào, có thầy có mẹ
Có ngựa chạy trong trường đua
Có người đi ngoài ngõ
Nên đạp xe đi rồi đạp xe về
Mà chẳng có đôi ta
Lân la hỏi thăm mấy đứa trẻ trong xóm, mới biết tên của nàng là Dần. Nghe tên Dần tôi hơi chột dạ. Tiếc quá, sao nàng không có cái tên thơ mộng như Quỳnh Như, Kiều Hạnh. Nhưng nghĩ lại… mình tên Tý nghe cũng chẳng thanh tao gì. Đã vậy, ở nhà còn bị gọi là Cu Tý, mặc dù năm nay tôi đã là sinh viên đại học. Vì ba mẹ, anh chị của tôi, ai cũng nói “quen miệng rồi”. Nhớ năm rồi cũng vì cái tên "CuTý" nầy làm tôi quê chết được.
Số là tôi có quen một cô nàng khá xinh trong dịp đi chơi sở thú. Tôi giới thiệu tên tôi là Trung. Một hôm, cô nàng tìm đến nhà trong lúc tôi đang học bài trên gác. Từ dưới nhà vọng lên, tiếng chị Tư rõ mồm một:
-Chắc em lộn địa chỉ rồi, ở nhà nầy không có ai tên Trung cả!
Có tiếng con gái phân bua:
-Sao lạ vậy, chị xem, ảnh viết cho em rõ ràng số nhà đây nè!
-Ô! đúng là chữ cuả thằng Cu Tý!
Rồi chị cất tiếng gọi to:
-Cu Tý ơi! Cu Tý à! có cô nào kiếm em nè.
Tôi ngồi trên gác nín khe mà nghe "tan nát cõi lòng" và trốn luôn không dám xuống. Thế là từ đó không dám sửa tên nữa, cứ là Tý cho đỡ trớ trêu. Thôi thì… dù Dần hay là Hợi cũng không sao, miễn nàng đẹp là được. Tôi nhớ lại, tên Ngọ đã đi vào nhạc sử tình tứ với Phạm ThiênThư. Còn tênTý của tôi cũng trùng với nhạc sĩ nổi danh Nguyễn văn Tý. Biết đâu sau nầy, Tý Dần sẽ viết nên trang tình sử lừng danh thiên hạ.
Biết nàng học trường Gia long, gần nhà nên đi bộ mỗi ngày, tôi đến chờ ở cổng trường và đi theo sau, âm thầm đưa nàng về. Lần lựa sáu tháng trôi qua mà chưa có cơ hội hay đúng ra là chưa dám đến gần làm quen. Tôi bắt đầu làm thơ vì những đêm nhớ nhung vời vợi. Nắn nót từng chữ để ngày nào đó trao vội cho nàng những bài thơ mà tôi cho là hay tuyệt cú mèo. Đây là bài thơ đắc ý nhất và tôi đã phục mình sát đất (nhưng sau nầy đọc lại, mắc cỡ gần chết).
Đêm qua mơ thấy dáng Dần
Ngồi bên cửa sổ mặt trắng ngần
Hồn Tý rung động sầu lâng lâng
Thoảng tiếng tiêu buồn vọng ngoài sân
Cũng may là chưa bao giờ những bài thơ nầy đến tay nàng. Sáu tháng trôi qua, ngày nghỉ hè đã gần kề, hàng hoa phượng trong trường Gia Long đã nở rộ làm cho tôi quýnh quáng. Làm sao tỏ được mối tình câm lặng ngày đêm vẫn rộn ràng trong tim tôi? Tôi quyết định trưa thứ sáu sẽ đón nàng tại ngã tư Phan Thanh Giản và Lê văn Duyệt để thổ lộ mối tình thắm thiết của tôi. Một tuần lễ ở nhà, tôi lục lọi biết bao nhiêu là sách báo để tìm câu tỏ tình hay nhất. Cuối cùng tôi có kế hoạch tỏ tình như thế nầy: tôi sẽ đợi Dần gần cổng trường, khi nàng đi tới, tôi bước ra trước mặt nàng, mỉm cười, cúi nhẹ đầu chào và nói:
"Xin lỗi, tôi muốn nói với Dần một chuyện thật quan trọng được không?" Dần sẽ dừng lại, nhìn tôi ngạc nhiên- có thể nàng biết tôi nói gì nên hai má ửng hồng, bối rối, nhỏ nhẹ trả lời:
"Dạ, anh cần chi?"
Nàng cười e thẹn má lúm đồng tiền, duyên ôi là duyên! Tôi sẽ từ tốn rót vào tai nàng lời êm ái nhất:
"Dần có biết là Dần đẹp lắm không? Từ sáu tháng nay, Tý đã đi theo dáng hồng tha thướt và chợt biết rằng Tý đã yêu Dần".
Dần càng bối rối e thẹn, tay mân mê tập vỡ. Tôi sẽ bước tới trao cho nàng những bài thơ do chính tôi sáng tác. Sau đó thì... Ôi! nói làm sao hết nỗi sung sướng.
Tôi chép thơ trên những tờ giấy mỏng màu xanh lơ và tập đi,tập lại từng điệu bộ, o bế lại mái tóc, nôn nao chờ đợi. Trưa thứ sáu, diện bộ đồ "kẻng" nhất, và không quên thoa một chút "brillantine "cho mái tóc khó ưa nằm ngay ngắn, tôi chạy xe đạp đến chỗ "hẹn" lòng hân hoan như mở hội. Dựng xe vào bên lề, khóa cẩn thận, mắt tôi đăm đăm nhìn về hướng trường Gia Long, chờ những tà áo trắng đổ túa ra trong giờ tan học, trong đó có Dần của tôi. Tôi đi tới đi lui, lẩm nhẩm lại câu tỏ tình "tuyệt diệu” với lòng đầy tự tin.
Ô kìa ! Dần đang thong thả bước đi vô tư giữa những tà áo trắng. Tôi sửa bộ điệu, nhìn quanh xem có ai đứng gần đó không? May quá, chỉ một mình tôi. Lẩm nhẩm lại câu nói và hồi hộp lạ khi nàng càng đến gần. Hai “mét" rồi một "mét". Hai bàn tay tôi luống cuống, chân muốn sụm xuống, tim đập thình thịch. Khi nàng bước tới ngã rẽ, tôi bước ra. Thoáng giật mình vì có người cản đường, Dần đứng lại nhìn tôi -lúc đó lỗ tai tôi lùng bùng, không còn biết nói gì như đã sắp đặt trước, đưa tay gải đầu, miệng lắp bắp:
-Dần… Dần… đi học về hả? Dần… không đi xe… đi… đi bộ hả?
Nàng liếc xéo tôi:
-Hỏi vô duyên!!!
Rồi bước sang một bên, đi thẳng. Tôi cảm thấy hai tai nóng bừng, mắt mờ đi và loáng thoáng tà áo dài trắng nhởn nhơ xa dần. Tôi vừa xấu hổ, vừa tức tối muốn độn thổ.
Thế là hết! tất cả ước mơ đã sụp đổ tan tành trong phút chốc. Tôi muốn tát vào mặt mình -cái mặt vô duyên đáng ghét- mấy cái cho đỡ tức. Rồi sẽ không bao giờ có dịp để trao vội cho nàng những bài thơ viết bằng nỗi tương tư, thao thức. Tôi xé tan nát những trang thơ mang màu xanh hy vọng, lên xe, đạp một mạch về nhà, buồn bực không nguôi. Tôi biết rằng mình sẽ không bao giờ có can đảm tỏ tình lần thứ hai. Dẫu có chờ đợi trước cổng trường, có chạy hàng trăm lần ngang căn nhà màu xanh cũng vô ích. Hôm đó, tôi nhớ rõ là 12 giờ 30, ngày 25 tháng 5, một ngàn chín trăm bảy mươi. Năm tháng sau, tôi quyết định “trả lại em yêu khung trời muà hạ, ngọn đèn thủ đô tưng bừng phố xá"
Tháng 10-1970
Sau lần tỏ tình bị thất bại não nề, Cu Tý nhà ta quê một cục vì câu “mắng nhiếc” của nàng như tát nước vào mặt “Hỏi vô duyên”. Mộng ước vỡ tan, với trái tim tan nát, tôi không còn thiết tha gì đến chuyện học hành nữa, nên quyết định rời bỏ thành phố muôn màu lên đường tòng quân nhập ngũ và tôi đã trúng tuyển vào trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt. Suốt một năm thao luyện, nhọc nhằn trong kỹ luật thép của quân trường, trái tim rướm máu của tôi hình như đã tạm ổn định. Cái lạnh của Đà Lạt mùa đông với những buổi sáng sương mù, trộn lẫn mồ hôi của đoạn đường chiến binh trên triền dốc cũng làm tan biến mấy dãy mụn trên làn da xanh xao của Saigon ngày nào. Khi nhìn vào gương tôi thấy mình oai phong lẫm liệt chi lạ với bộ lễ phục uy nghi.
Một buổi trưa Chúa nhật không đủ tiền ăn phở, nên Cu Tý tôi vào trong nhà Thủy Tạ một mình, vừa ngắm trời trăng mây nước, vừa nhắm nháp ly càfé đen, thả khói bâng quơ cho đỡ đói. Thỉnh thoảng lại nhìn đồng hồ làm ra vẻ như “Em đã hẹn sao em không đến…”, chứ thật ra có con ma nào hẹn hò đâu! Khi tiếng nhạc trong quán im lặng, tôi chợt nghe vài giọng cười khúc khích vang lên. Nhìn ngoái về hướng có tiếng cười, tôi bắt gặp bốn cô gái khá xinh đang chỉ chỏ về phía tôi có vẻ trêu chọc. Tôi cố lắng nghe những mẩu đối thoại mà hai mươi lăm năm rồi tôi còn nhớ rõ mồn một:
-Ê! nhỏ Khánh, có khi nào cho kép leo cây không?
-Còn Phượng, bồ còn nhớ câu thơ gì mà… ”Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé… không?”
-Nhớ chứ sao không? ủa con nhỏ Ngọc Thanh, bộ tương tư ai sao mà ngồi ngẩn ngơ vậy kìa?
Lắng nghe những mẩu đối thoại tôi biết bốn cô này học Chính Trị Kinh Doanh, ở ký túc xá Kim Ái bên trong Viện Đại học Đà Lạt. Biết mình là đối tượng cho các cô trêu chọc, tôi cảm thấy ngượng nghịu, tay chân dư thừa và hai tai nóng ran. Tuy vậy, vẫn cố ngồi bình chân như vại, coi như không chuyện gì xảy ra.
Sau lần bị chọc quê đó, tinh thần tôi phấn khởi lạ thường. Vì tôi nghĩ rằng mình cũng thuộc loại tuấn tú, đẹp trai nên mới được các cô để ý chọc ghẹo. Và cứ thế vào những chiều cuối tuần tôi thường vào ngồi trong quán cà phê thả hồn theo những giọt nắng vàng rơi nhẹ xuống bên kia đồi, xa xa tháp chuông Viện Đại học in rõ lên nền trời xám đục và những dãy mây trắng bồng bềnh như tóc ai bay mà mơ mộng.
Tóc em anh sẽ gọi là mây
Ngày sau hai đứa mình xa cách
Anh vẫn được nhìn mây trắng bay
Tiếng hát Thái Thanh thánh thót, trau chuốt từng cung bậc âm thanh véo von trong bầu không khí quạnh quẽ, đơn độc làm tôi chợt nhớ đến Dần - mái tóc thề óng ả - có phải như làn mây hờ hững phía chân trời? Gần hai năm rồi tôi xa thành phố, không biết giờ này nàng có còn đi học một mình? Có lẽ, bây giờ Dần không còn là nữ sinh Gia Long nữa mà đã là sinh viên của trường đại học nào đó. Biết đâu nàng lại có mặt trong nhóm nữ sinh viên của ký túc xá Bình Minh? Hay Kim Ái ở gần đây. Nhất định lần này về phép thế nào tôi cũng đến tìm nàng.
Thế rồi ngày phép cũng đến. Về tới Saigon, chỉ kịp tắm rửa, thăm hỏi gia đình qua loa, tôi thay vội bộ quân phục mùa hè lên Honda chạy một lèo đến Phan Đình Phùng. Tôi ngừng xe trước cửa Đình Phú Thạnh. Đây là lối vào nhà nàng, nơi ngày xưa tôi lẽo đẽo theo nàng hàng bữa, sao giờ đây ngại bước làm sao. Không biết Dần có nhận ra tôi không? Và biết nói gì với nàng đây hỡi trời? Lỡ nàng lại cho tiếp một câu “cái mặt vô duyên” thì làm sao?. Tôi không dám làm thêm một cuộc phiêu lưu nữa. Mới năm nào còn ngượng nghịu trước mặt nàng để trái tim phải một lần tan nát, liệu bây giờ có khá hơn không?
Tôi quay đầu xe, chạy một mạch về nhà thầm nghĩ “thôi ở nhà nói chuyện với má chắc khỏe hơn”. Hú hồn!
Thôi nhé Dần, đành xem như chúng mình không duyên, không nợ.
Sau kỳ nghỉ phép, tôi lại chém vè thêm vài ngày nữa, nên khi trở lên trường bị phạt tám ngày trọng cấm, không được phép ra phố cuối tuần suốt mấy tuần lễ dài. Cái cảnh ăn không, ngồi rồi khi bị giam lỏng trong doanh trại buồn chết được. Giá mà có ai để nhận và viết thư tình cũng đỡ buồn trong lúc này.
Một ngày kia, sau mấy tiếng đồng hồ đọc sách miệt mài ở thư viện, trước khi ra về, tôi ghé qua phòng đọc báo, ngồi vào bàn có tờ báo Công Luận đang mở sẵn trang văn nghệ. Tôi liếc mắt đọc một bài tùy bút với dòng văn nhẹ nhàng lãng mạng, kể chuyện tình người con gái có người yêu là lính trấn biên cương của một cây bút học trò với cái tên thật mỹ miều, dễ thương Nguyệt Diễm. Cuối trang văn nghệ là phần nhắn tin cho một người bạn thơ đã mất liên lạc với địa chỉ rõ ràng. Bỗng dưng tôi nảy ra ý định - Tại sao không viết thư cho cô nàng để làm quen? - Nhưng ý nghĩ khác lại đến - Lỡ cô nàng xấu như ma thì sao? Không hề gì, chỉ viết thư chứ có gặp mặt đâu mà sợ. Thế là định mệnh dong ruỗi từ đó.
Một buổi chiều, sau khi đi bãi tập quân sự về, tôi nhận được hồi âm của Nguyệt Diễm. Còn nỗi vui mừng nào hơn khi chợt nghĩ rằng, trong những ngày sắp tới tôi sẽ không còn cô đơn, không còn thèm thuồng nhìn bạn bè nhận thư tình mà âm thầm ao ước. Thư qua, thư lại, hết trời trăng, mây nước đến chuyện học hành, chuyện quá khứ tương lai. Từ một trang lên bốn trang. Giấy viết thư từ màu trắng, ngã sang màu xanh, rồi màu hồng. Tôi phải vận dụng hết khả năng dỡ tệ về tả tình, tả cảnh hồi còn đi học để lấp đầy những trang giấy gửi cho Diễm. Hàng chục lá thư dễ thương ngọt ngào của nàng đã làm tôi cảm mến lúc nào không hay dù chưa hề biết dung nhan của nàng rực rỡ hay điêu tàn như mùa lá đổ? Nhất định tôi phải gặp mặt Diễm - dù một lần rồi vĩnh biệt cũng cam.
Một buổi trưa đẹp trời, tôi được đi phép thường niên. Rời Đà Lạt trên chuyến bay Hàng Không Việt Nam với mười hai nụ hồng nhung và mảnh gỗ thông xinh xắn với hàng tên Nguyệt Diễm “rồng bay phượng múa” trên tay, trực chỉ Sàigòn. Tìm đến nhà Diễm trong khu cư xá, tôi được mẹ nàng đón tiếp niềm nở và cho biết Diễm sắp về. Trong lúc thấp thỏm ngồi chờ, không biết làm gì, tôi nhìn quanh quẩn khắp nơi trong phòng khách để hình dung ra dáng nàng. Đây là chiếc ghế màu vàng đậm hẳn là nơi nàng ngồi xem TV hàng ngày. Kia, chiếc bàn học xinh xắn với một bình hoa tím nhỏ dễ thương, có phải nơi nàng ngồi nắn nót viết thư cho tôi mỗi tối? Và, tôi hồi hộp lạ thường khi nhìn thấy bức ảnh dựng sát góc bàn. Tôi nhổm dậy, nhìn vội vào bức ảnh, một cô gái khoảng mười tám tuổi đứng dưới một tàng cây lớn, mái tóc dài ngang vai, nụ cười tươi tắn trên khuôn mặt ngoan hiền. Sao khuôn mặt nầy giống một người nào đó.Tôi tự hỏi hay là mình đã có gặp ở đâu rồi? Nhớ mãi vẫn không ra. Nhưng dầu sao tôi vẫn cảm thấy trong lòng mình dấy lên một niềm vui bất chợt. Tôi vui vì Diễm của tôi không phải là cháu của bà “Chung Vô Diệm”!.
Khoảng nửa giờ sau Diễm về đến. Không thể nào diễn tả được nỗi ngạc nhiên đến tột cùng khi tôi đối diện với nàng. Bởi vì Diễm giống Dần lạ lùng. Tuy mái tóc ngắn hơn, nhưng hai đồng tiền nhỏ trên má khi cười thì như khuôn đúc. Phần Diễm, có lẽ nàng cũng bối rối không kém vì sự hiện diện bất ngờ của tôi. Tôi trao nàng bó hoa hồng đã héo bởi cái nắng Saigon. Tay nàng run run, hai má ửng hồng vì e thẹn. Mãi một lúc sau nàng mới ngước nhìn tôi, giọng êm ái:
-Anh về hồi nào sao không cho em hay trước?
Tôi cười:
-Cho hay trước để Diễm dán trước cổng nhà tấm bảng “không tiếp khách” phải không?
Diễm liếc nhẹ tôi với nụ cười thật dễ thương:
-Chưa chi mà anh đã nghĩ xấu cho người ta rồi!
Suốt một tiếng đồng hồ của buổi gặp gỡ ban đầu chúng tôi chỉ nói chuyện bâng quơ, nhưng dường như khoảng không gian bao quanh nồng nàn, ấm áp vô cùng. Tôi mải mê nhìn đôi môi xinh xắn trên nét mặt ngây thơ duyên dáng, nhất là nét mặt ấy trông thật giống Dần.
Một tuần sau, trước khi trở lên Đà Lạt, tôi mời Diễm đi chơi vào buổi tối. Chúng tôi ngồi bên nhau giữa tiếng nhạc êm ái, dìu dặt của quán kem nơi Công Trường Chiến Sĩ, nhìn phía bên kia đường là trường Đại học Luật Khoa nơi nàng đang theo học. Nàng liếng thoắng kể cho tôi những mẩu chuyện vui buồn trong tuổi học trò. Tôi lắng nghe một cách thích thú và không quên trêu nàng:
-Vậy, sau mỗi buổi tan trường có bao nhiêu anh chàng theo sau để hộ tống Diễm về nhà?
Diễm chợt đổi giọng, hóm hỉnh kể cho tôi nghe lúc còn học ở Gia Long, hôm nào đi bộ về cũng có một cây si lẽo đẽo theo sau. Cây si đó có đón đường một lần, hỏi một câu lãng xẹt rồi biến mất luôn. Tim tôi đập liên hồi trong câu hỏi:
-Diễm còn nhớ mặt anh chàng đó không?
Diễm cười ngặt nghẽo:
-Em không nhìn kỹ nên không nhớ rõ, cũng không biết tên, chỉ biết là hơi cù lần nên thấy cũng tội nghiệp.
Tự nhiên tôi cảm thấy “quê quê”. Sao giống mình quá vậy, không lẽ??? nên lảng sang chuyện khác, không dám để nàng bình luận thêm về cái “dung nhan cù lần” nào đó.
-Nhà xa quá sao Diễm đi bộ được?
-À! Lúc đó nhà em ở đường Lê Văn Duyệt.
Tôi hỏi thêm để có câu trả lời chắc chắn cho nỗi nghi ngờ của mình:
-Có phải nhà ở phía sau Đình Phú Thạnh, có cửa sổ màu xanh không?
Diễm tròn mắt ngạc nhiên:
-Đúng rồi. Sao anh biết?
Tim tôi lúc đó muốn bay ra khỏi lồng ngực. Đúng là Dần của tôi. Dần của Cu Tý đây rồi. Dần lấy tên Nguyệt Diễm để viết báo, nên tôi đâu ngờ! Có phải là một sự sắp đặt kỳ diệu của định mệnh để chúng tôi tìm đến nhau?.
Tôi vui mừng nắm lấy hai bàn tay Diễm xiết nhẹ. Cùng lúc đó, như có một động lực vô hình thúc đẩy từ trái tim đang rung động tột cùng, môi tôi phát ra tiếng nói mà tôi không làm sao kềm chế, kiểm soát được bởi nỗi lòng hân hoan vì một hạnh phúc bất ngờ.
-Nguyệt Diễm, anh yêu em!
Câu nói vừa dứt thì mồ hôi tôi cũng tuôn ra. Tôi nín thở chờ đợi. Chờ đợi một câu nói phũ phàng như ngày xưa nàng đã tàn nhẫn tặng cho tôi mà không hề biết rằng mình đã vô tình bóp nát một trái tim. Tim tôi đập thình thịch. Tay tôi run rẩy. Tôi tự nhủ thầm - hãy cố gắng bình tĩnh dù nàng có nói “sao anh vô duyên quá vậy?”. Diễm nhìn tôi sững sờ. Còn tôi… hồi hộp trong từng hơi thở. Nếu bàn tay nàng rút khỏi tay tôi, thì có thể tôi sẽ ăn một cái tát. Nhưng không, bàn tay nàng vẫn để yên trong tay tôi, hai gò má ửng hồng, im lặng trong một thoáng bồi hồi, rồi dịu dàng hỏi:
-Mà sao anh biết rõ nhà em ở sau đình Phú Thạnh?
Tôi khép nhẹ đôi mắt, cố giữ hơi thở cho thật đều, lòng tràn ngập niềm vui vì biết rằng, lần này chắc mẫm là mình đã “tóm được người trong mộng” rồi. Thừa thắng xông lên, tôi cúi xuống hôn lên bàn tay nàng trìu mến:
-Bí mật, nếu đúng là duyên nợ thì vào ngày đám cưới anh sẽ kể cho em nghe.
Nàng rút tay về và nũng nịu nói:
-Xí! biết người ta có chịu không mà làm đám cưới.
Tôi trêu nàng:
-Phải rồi, anh biết em chỉ chờ cây si cù lần lẽo đẽo theo em khi xưa thôi.
Đó là buổi tối tuyệt với nhất trong cuộc tình của chúng tôi. Không điệu nhạc du dương, không có những nụ hôn đắm đuối, chỉ có ánh mắt nồng nàn và tay trong tay mà tình yêu chúng tôi chan hòa, ngào ngạt cả vũ trụ.
Tôi trở về Đà Lạt, suốt cả tháng sau vẫn còn say sưa trong niềm hạnh phúc tưởng chừng sẽ không có được bao giờ. Rồi tôi tốt nghiệp và đáo nhậm đơn vị trong vùng tuyến đầu lửa đạn. Tôi đã đi trong chiến tranh hoang tàn, với nỗi dằn vặt giữa con tim và lý trí. Yêu Dần. Nhưng làm sao mang đến hạnh phúc cho nàng khi cuộc đời lính chiến cứ bôn ba, biết ngày về có toàn vẹn?. Mỗi năm, chúng tôi gặp nhau một lần, đi chơi vài ba buổi trong những dịp phép thường niên, rồi lại chia tay trong nghẹn ngào nước mắt. Nàng vẫn ở đó, trong cư xá đìu hiu (theo lời thư nàng viết) lặng lẽ, mỏi mòn trong mong nhớ với mơ ước bình thường, được ngồi bên người yêu hay cùng nắm tay đi dạo một vòng phố tưng bừng vào những ngày cuối tuần mà cũng không có được. Tôi vẫn biền biệt giữa chiến chinh chất ngất. Ai biết được sẽ ra sau ngày sao?
30-4-1975
Cuốn theo vận nước, mối tình của chúng tôi đã đầy xót xa lại càng thêm hụt hẫng. Hai mươi lăm tuổi, tôi bước vào trại tù cải tạo để bị thiêu rụi tất cả mộng ước đong đầy cho tình yêu và tương lai. Tôi không muốn liên lạc để Dần yên tâm mà bước đi. Khoảng hơn một năm sau, tôi được tin nàng đã gắng sức tìm gia đình tôi. Vì yêu thương, nàng đã dẹp bỏ tự ái, thành kiến để đến thăm mẹ tôi dù chưa một lần nào biết nhau. Dần cũng xin gia đình đến thăm tôi trong trại tù cải tạo với lời hứa sắt son sẽ chờ đợi tôi dù cho từng mùa xuân có phai tàn trên mái tóc và phải sống trong mỏi mòn tuyệt vọng.
Dần đến thăm tôi hai lần, lần nào cũng như con mèo bị ướt mưa. Tội nghiệp làm sao. Cứ mỗi lần nhìn người yêu lủi thủi ra về tim tôi như thắt nghẹn. Và lần sau cùng tại trại Vườn Đào, tôi trao cho nàng một lá thư trước khi chia tay, trong đó nói rõ quyết định sinh tử của tôi là sẽ trốn thoát khỏi trại, chắc chắn lành ít dữ nhiều. Tôi sẽ đi về bên kia biên giới hoặc vùng rừng núi cao nguyên để tìm quân kháng chiến. Tôi xin nàng hãy chấm dứt mọi liên lạc và cố mà bước đi đừng quay lại (sau này Dần kể lại nàng đã khóc như chưa bao giờ khóc như thế khi đọc lá thư đoạn truờng này. Đôi khi, để bớt đau lòng nàng còn cố nghĩ rằng tôi không yêu nàng nên mới có quyết định như thế.)
Đến Tết năm 1979, tôi cùng ba người bạn đã trốn trại một cách thật liều lĩnh và nguy hiểm với cơ hội vượt thoát an toàn rất mong manh. Theo kế hoạch, sẽ có người đón chúng tôi từ Mỹ Tho ra Vũng Tàu và sẽ nằm chờ ở đó để được đưa vào rừng kháng chiến. Trên đường đi ngang qua Sài Gòn, tôi đã ghé vào nhà Dần để thăm nàng như đã hứa trong đoạn thư bí mật chuyển ra từ tháng trước. Chỉ mười phút ngắn ngủi lặng lẽ nhìn nhau không nói được một câu trọn ý nghĩ.
Vừa ngỡ ngàng như giấc mơ, vừa hoang mang, không biết nên hy vọng hay tuyệt vọng trong niềm đau hay trong hạnh phúc. Nàng- người con gái yếu đuối với tình yêu bất hạnh. Tôi- người trốn tù biệt xứ hôm nay rồi sẽ đi về đâu? Tất cả những cảm giác ngổn ngang đó đã làm chúng tôi lặng yên như khối đá, tay nắm tay không nói được một lời. Nước mắt chưa kịp rơi, tôi đã chào giã biệt mà nghe lòng tê tái khôn cùng.
Em lặng nhìn rất vội lúc chia phôi,
Tôi mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ.
Chỉ hai câu thơ nầy mới diễn tả hết tâm trạng chúng tôi. Lòng đau buốt đến xót xa, tôi quay trở lại sau vài bước đi. Nàng vẫn đứng nhìn theo bên cánh cửa, mắt nhòa lệ, tôi xiết chặt tay nàng nói khẽ: “Anh tin rằng chúng mình sẽ gặp lại”, rồi quay lưng vội vã bước đi không dám nhìn lại!...
Qua biết bao nhiêu gian truân kể từ lần chia tay tưởng chừng vĩnh biệt, không thể kể hết ở đây, vậy mà hai mươi hai năm qua Dần là mẹ của hai đứa con tôi.
Sau tuần trăng mật, tôi đọc cho Dần nghe bài thơ tôi có ghi ở trên. Nghe xong, Dần ôm bụng cười nắc nẻ:
-Nếu em biết anh làm thơ dở như vậy thì em không ưng anh đâu.
Tôi trêu ghẹo:
-Bây giờ vẫn chưa muộn, em có thể ôm gói về nhà được.
Nàng liếc yêu tôi và nói:
-Xí! sức mấy… đừng ham!
Sau hai mươi mấy năm sống trong tình nghĩa vợ chồng, tôi mới khám phá ra và khẳng định rằng: “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở… Đời mất vui khi đã vẹn câu thề” là sai bét! Dĩ nhiên, trong mỗi giai đoạn, tình yêu có những nét đẹp riêng không thể phủ nhận, không thể so sánh được. Bởi vì, những ngày theo nhau lẽo đẽo thì tình yêu chỉ là thỏa mãn những cảm xúc, còn tình yêu hôn nhân đầy những thương yêu, săn sóc, lo lắng cho nhau bằng trọn vẹn ý nghĩa của hai chữ “hy sinh”.
Nói như thế không có nghĩa là trong hai mươi hai năm mặn nồng tình ái, con thuyền tình lúc nào cũng êm như mơ. Vẫn có những cơn sóng vỗ chập chùng vì những lý do không đâu. Dần của tôi tuổi "con cọp" nên đôi khi cũng "cắn" chút đỉnh. Nàng dễ nỗi giận vì tính tôi cẩu thả, hay vứt giày, dép, bóp, chìa khóa bừa bãi. Thế là cãi nhau. Nàng đổ tội cho tôi không ngăn nắp. Tôi đổ tội cho nàng khó như bà già! Đôi khi, nàng nhờ tôi ghé chợ mua dùm mấy trái chanh, tôi rất vui lòng, nhưng khi ra đến chợ gặp người quen nói dăm ba câu chuyện lại quên mất, nên thay vì mua chanh tôi lại mua dưa leo. Thế là bị càu nhàu và giận nhau.
Có một tối, hai đứa nằm trong phòng nghe nhạc. Có lẽ, vì âm hưởng du dương, nàng mơ màng nhắc lại kỷ niệm thời son trẻ, những hẹn hò nơi công trường Duy Tân, bến Bạch Đằng… Nàng nhớ vanh vách những con đường, những quán cà phê, những phim hai đứa xem ở Rex, Eden. Tiếng Dần êm ái dìu dịu… “Anh còn nhớ không anh….”. Đang say sưa nhắc nhở kỷ niệm, quay lại thấy tôi ngáy khò khò, nàng nổi tam bành, dựng tôi dậy để cãi nhau. Không nói chuyện hai ngày đêm. Từ đó, tôi có hai câu thơ sửa lại như thế nầy:
Giấc Nam Kha chợt bất bình
Bừng con mắt dậy thấy mình cãi nhau
Ngoài những chuyện vặt vãnh đó, Dần là một người đàn bà tuyệt vời. Một nàng dâu thảo, một người vợ đảm đang, một bà mẹ hiền. Nhất là từ ngày sinh hoạt Hội Gia Long đến giờ, nàng càng tỏ ra khả năng giao tế, lanh lẹ. Từ đó, tôi được phong làm “rể Gia Long” và cũng bị cuốn hút theo những ngày làm rể. Số là mỗi khi hội họp, Dần thường lôi tôi theo. Không phải để “sai biểu” mà để bày thức ăn ngon cho đám anh rể ngồi nhậu nhẹt tán dóc, đôi khi còn có bộ bài để "binh" thả ga. Thật ra, chẳng phải các nàng “cựu nữ sinh Gia Long” tử tế gì mà chỉ vì không muốn mang tiếng lo họp hành bỏ đói chồng và cũng vì các nàng nói nhiều quá nên không có cuộc họp nào dưới tám tiếng.
Thôi thì phận rể cũng không cần biết lý do, miễn là được ăn nhậu, được chơi xả láng không bị ai càu nhàu là vui vẻ cả làng. Ngoài chuyện nói nhiều, các nàng còn "ăn hàng " hết biết, y như thời con gái. Nếu không, thì sao bỗng nhiên dáng dấp thon thả của nàng biến mất, thay vào đó là một thân hình "tròn trịa". Nhưng, dù nét xưa đã phai tàn vì những hy sinh, vất vả trong cuộc đời làm vợ và làm mẹ tôi cũng vẫn yêu Dần tha thiết. Với tôi, Dần vẫn mãi mãi là" nàng tiên kiều diễm".
Xin mượn bốn câu thơ của nhà thơ Thảo Nguyên để kết thúc nơi đây như chút tâm tình của tôi dành cho người con gái Gia Long đang hiện diện và gắn bó không thể thiếu trong cuộc đời tôi:
Xin một phút giây trong dĩ vãng
Để nhìn mái tóc mượt nhung xưa
Xin viết ngàn câu thơ lãng mạn
Để thương mái tóc bạc bây giờ.
Đặng Hiếu Sinh