"Biết lỗi, không khó; đổi lỗi mới khó. Nói điều thiện không khó, làm điều thiện mới khó." ** Hà Phủ - triều Lê Nhân Tôn **

Suy Tĩnh Mạch Mạn Tính

(Chronic venous Insufficiency)

Xin cho tôi được hỏi như sau:

Cách đây 1 năm, ba tôi bị sưng phù bàn chân. Bệnh viện chẩn đoán suy giãn tĩnh mạch. Ðiều trị không hết. Sau đó ba tôi điều trị ở Bệnh viện Ðại học Y Dược Sài Gòn vẫn không hết. Hiện tại chân vẫn phù và cứng từ ống quyển xuống bàn chân.

Rất mong được sự giúp đỡ của quý ban, một lần nữa xin chân thành cảm ơn quý ban đã có chương trình này.

Trần T P

Trả lời

Tôi xin trả lời một cách tổng quát về một số điểm lý thuyết, thực dụng có thể có ích cho quý vị thính giả muốn tìm hiểu thêm. Bịnh nhân cần tham khảo với bác sĩ riêng của mình trong mỗi trường hợp cá biệt để được chữa trị theo mỗi trường hợp.

Bịnh nhân phù cứng ở hạ chi có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong trường hợp này tôi chỉ xin nhận xét về trường hợp phù do các tĩnh mạch không làm việc đúng mức, tức suy tĩnh mạch một cách mạn tính (kinh niên).

Cơ thể và sinh lý học:

 

15chvhien --- stm1

Fig 1: Các van trong tĩnh mạch giúp cho máu lúc chảy về hướng tim không tuột xuống. Lúc van hở, máu chạy ngược lại phía dưới.

Hệ tuần hoàn gồm những mạch máu đem máu được bơm từ tim đến các bộ phận tiếp nhận máu đó (như óc, cơ bắp, da). Sau đó máu phải được dẫn về tim ở lưu lượng tương tự, nếu không các dịch trong máu sẽ ứ đọng tại chỗ. Trong hai hạ chi (lower extremities), lúc máu từ các động mạch xuống thì đi dễ dàng nhờ sức tim bóp và bơm, cọng thêm trọng lực kéo máu đi xuống (gravity). Máu trờ về phức tạp hơn, máu nằm trong các tĩnh mạch (“tĩnh” trái với “động”), một hệ thống tĩnh mạch nằm dưới da (mà bình thường chúng ta thấy nổi lên "gân xanh" ở những người ốm/gầy; superficial veins)), một hệ thống nằm trong sâu (deep veins) và các tĩnh mạch nối liền hai hệ thống đó (perforating veins).

Máu trong tĩnh mạch (fig 1)

1) không có sức đẩy của trái tim,

2) đi ngược với trọng lượng (sức hút của quả đất, gravity)

3) phải phụ thuộc vào tone (khả năng co và cương ) của vách ống tĩnh mạch,

4) các van 2 lá (valve) trong tĩnh mạch không cho cột máu tuột xuống,

5) và trông cậy vào các co bóp của các bắp cơ lớn của cẳng chân, tác dụng như những cái bơm ( “veno-muscular pump”) bằng sức ép vào các tĩnh mạch lúc co giãn (lúc đi nhanh, chạy).

15chvhien --- stm2

Fig 2: Các co bóp của bắp cơ lớn của cẳng chân (calf muscle), tác dụng như cái bơm ( “veno-muscular pump”) bằng sức ép vào các tĩnh mạch lúc co giãn (lúc đi nhanh, chạy) (Source: Singapore Medical Clinic)

Nếu một hoặc nhiều cơ chế trên bị thiếu, máu có thể ứ đọng trong tĩnh mạch chân và làm sưng chân. Do máu ứ đọng, thanh dịch rỉ ra khỏi các mạch mao quản (capillaries), vào các mô liên kết ở bàn chân, cẳng chân tuỳ theo độ nặng nhẹ. Nếu nặng hơn, các protein trong máu cũng ra theo, làm da sưng cứng. Tệ hơn nữa, hồng cầu cũng lọt ra ngoải các mô, lúc hồng cầu chết đi làm da đổi qua màu đỏ tím, nâu ( viêm da do ứ máu tĩnh mạch, venous stasis dermatitis).

Nước nhiều quá   làm phù thủng (edema) vùng đó, bịnh nhân có thể cảm giác vùng đó nặng nề hơn, tê (paresthesia), hay ê (numb), da có thể dày , sưng và căng cứng.

15chvhien --- stm3

Fig 3: Các giai đoạn khác nhau: giãn nở tĩnh mạch (varicose veins), sưng chân, da thay đổi, rồi loét (ulcer).

Thường chỉ một trong hai chân bị phù do suy tĩnh mạch , nếu cả hai bên đều bị, bác sĩ cần tìm hiểu xem có nguyên nhân nào khác ảnh hưởng toàn thân hay không, ví dụ suy tim (heart failure), hay protein trong máu thấp (hypoproteinemia) cũng có thể làm phù hai chân.

Định bịnh:

Ngoài định bịnh trên lâm sàng căn cứ trên triệu chứng đã kể, bác sĩ sẽ xem xét những nguyên nhân khác có thể làm các tĩnh mạch giãn nở (varices), đo áp huyết mạch ở chân để so sánh với áp huyết trên cánh tay, xem máu động mạch đến chân có tốt hay không. Bác sĩ cũng cần loại bỏ khả năng các bịnh có thể gây phù, sưng da như suy tuyến giáp (hypothyroidism), suy tim (heart failure), suy dinh dưỡng (malnutrition), thiếu protein trong máu.

Bác sĩ có thể dùng siêu âm (duplex ultrasound test), nếu cần chích thuốc vào tĩnh mạch và chụp hình tĩnh mạch (venogram).

Chữa trị:

1) Giảm tác động của trọng lượng:

  • Mang vớ đặc biệt gây sức ép, bó vào đùi, cẳng chân (dễ chịu hơn là vớ cao hơn. Có loại vớ có áp suất giảm dần từ cỗ chân lên đến đầu 15chvhien --- stm4gối, để giữ máu lưu thông về phía trên (phía tim) mà không bị tuột xuống (graduated compression stocking, gradient stocking).

  • Mỗi ngày ít lắm là 3 lần, nằm cho hai chân cao lên quá mức trái tim trong 30 phút.

  • Đi bộ nhanh (không phải đi từ từ) để các cơ chân bơm máu tốt hơn.

2) Bổ túc các van tĩnh mạch (venous valves) bị yếu và tone của tĩnh mạch.

Mang băng co dãn (đàn hồi, elastic bandage) cho đến lúc bớt sưng, lành loét da. Sau đó, mang vớ có tác dụng bóp vào (compression stocking), hay vớ có điều chỉnh sức ép (graduated compression stocking)(từ dưới lên trên, sức ép mạnh nhất ở đoạn cỗ chân, giảm từ từ lên đến gần đầu gối, có tác dụng đẩy máu tĩnh mạch về phía thân mình). Những vớ với áp suất thấp (dưới 20mmHg [ thuỷ ngân]) có thể bịnh nhân tự mua, các vớ với áp suất cao (30-60mmHg), bó chặt hơn, hoặc sai biệt áp suất giữa cỗ chân và đầu gối (higher pressure gradient) có khả năng đè lên động mạch nuôi chân làm trở ngại lưu thông máu, cần phải có bác sĩ hay chuyên gia chuyên môn biên toa mua và theo dõi.

Nên nhớ mới sáng thức giậy là phải mang vớ vào rồi, đừng đợi đến lúc chân sưng sau khi đi đứng.

3) Người ta có thể dùng vật lý trị liệu tập các cơ "bắp chuối' (calf) và bàn chân, nhưng kết quả không cao.

4) Một số thuốc uống , thoa với mục đích làm cho tĩnh mạch hoạt động tốt hơn, được dùng ở Châu Âu và một số nước khác, nhưng không được FDA Mỹ chấp thuận vì cho là không hiệu quả.

5) Cần săn sóc da cẩn thận. Chữa các vết loét nếu có (Unna boot [with Zinc Oxide], Unna boot; băng gạt gòn có tẩm oxyt zinc, quấn vào chân đến đầu gối, có khả năng bó chân lại, che chở da và sát trùng, một tuần thay 1-2 lần. DuoDERM (with aluminum chloride).

6) Ăn lạt , giảm bớt muối trong thức ăn, giảm nước mắm, xì dầu chấm, vv

Phẫu thuật:

Dưới 10% bịnh nhân cần phẫu thuật:

1) Sclerotherapy: chích thuốc hoá học vào đoạn tĩnh mạch cho nó xơ, rút teo lại.

2) Ablation: cho ống catheter vào tĩnh mạch, ở đầu có điện cực (electrode) đốt lòng vách tĩnh mạch

3) Vein stripping: cột hai đầu một tĩnh mạch và rút ra.

4) Bypass: lấy khúc tĩnh mạch nối hai tĩnh mạch với nhau, nơi máu khó đi qua

5) Sửa chữa van tĩnh mạch bị hở

6) Angioplasty: dùng stent nông tĩnh mạch bị nghẽn sau khi bị viêm tĩnh mạch.

Phòng ngừa

Chủ yếu là làm giảm cơ nguy làm cho máu ứ đọng trong các tĩnh mạch (venous stasis) dưới chân quá lâu:

15chvhien --- stm5

Fig 5: Tập bàn chân, ngón chân, mát xa bắp chuối lúc ngồi máy bay (from JAL)

1) Viêm tĩnh mạch sâu (DVT) là một trong những nguyên nhân gây nghẽn đường lưu thông máu trong hệ thống tĩnh mạch và dẫn tới suy tĩnh mạch. Một nguyên nhân thường được nhắc đến là đi du lịch ngồi máy bay lâu (3-8 tiếng hoặc hơn) dễ bị viêm tĩnh mạch sâu, trong một số trường hợp dẫn đến hiện tượng cục máu đông chạy (venous thromboembolism, VTE) ngược lên tim làm tắc nghẽn động mạch phổi rất nguy hiểm (pulmonary emboli). Phòng ngừa VTE cho những người high risk (như trên 40 tuổi, mập, uống thuốc ngừa thai, bị ung thư, mới phẫu thuật, mới sanh, đang có bầu) bằng cách ngồi bên đường đi, đi lại thường xuyên , tập thể thao bàn chân, cẳng chân ("bắp chuối", calf muscle exercise) (Fig 5), những vớ đặc biệt bó chân lại theo từng nấc, dưới đầu gối (under-knee graduated compression stocking).

2) Tránh đừng quá mập

3) Vận động thường xuyên, tránh bất động kéo dài

4) Tránh rượu và thuốc lá.

Chúc bịnh nhân may mắn.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Tất cả các nhận xét trên chỉ có tinh cách thông tin, người bịnh cần được bác sĩ của mình khám và săn sóc, theo dõi.

Ngày 5 tháng 1 năm 2014

(Edited for Langhue.org 9/12/2015)