Gỉải Nobel Văn Chương
(Chuyển Ngữ)
Marie Arana, một nhà văn, nhà xuất bản và nhà báo Mỹ gốc Peru, cho rằng giải Nobel Văn Chương ngày nay không còn uy tín giá trị gì nữa. Bà đưa ra lý luận nên hủy bỏ giải này.
Giải thưởng đã có lịch sử hơn một thế kỷ. Nhưng những gì xảy ra mấy năm gần đây cho thấy đến lúc cần phải vứt bỏ nó.
Tháng Mười/2008, Horace Engdahl, thư ký thường trực Viện Hàn Lâm Thụy Điển đã tuyên bố: “Người Mỹ quá biệt lập và thiển cận để có thể tham gia vào cuộc đối thoại lớn của nền văn học thế giới. Và thái độ thờ ơ của họ đã ngăn trở sự phát triển của nền văn học nước này”.
Nhiều năm qua, người ta rỉ tai nhau: Thụy Điển xem Mỹ là một nền văn học tỉnh lẻ hoang vu, lõm bõm trong sông ngòi, chưa ra đến biển. Thành kiến này đưa đến cách đối xử sai lạc, đầy thành kiến của uỷ ban Nobel đối với giới văn học Mỹ. Trước đây, tôi chưa bao giờ có thành kiến về giải thưởng Nobel Văn Chương. Nay tôi bắt buộc phải có tiếng nói, vì Viện Hàn Lâm đã xem nền văn học Mỹ là “ngu dốt và trì trệ”. Từ khi Alfred Nobel, nhà khoa học phát minh ra thuốc nổ, sáng lập giải thưởng danh tiếng, thì Nobel văn học đã thể hiện khuynh hướng tôn vinh những tài năng văn học vừa phải, nhưng có tương lai. Từ giải thưởng đầu tiên đến mới nhất sau này, từ những tên tuổi không xuất sắc lắm “có thể quên được” như Sully Prudhomme (1901) cho tới cây bút chập choạng J.M.G. Le Clézio (2008). Sự chọn lựa suốt chiều dài lịch sử đã tỏ ra thiếu đầu óc nhận định, phê bình đứng đắn, nhưng lại thừa mứa sự sốt sắng về mặt chính trị.
Làm thế nào những vị giám khảo tự xưng am hiểu văn chương lại có thể lờ đi những tên tuổi như Tolstoy, James Joyce, Proust, Kafka hoặc Henry James ? Nếu mục đích của họ là tôn vinh những người có công “đóng góp lớn lao cho lợi ích nhân loại” thì tại sao họ lại tán tụng nhà văn khiêu dâm như Elfriede Jelinek, hoặc ca ngợi những sản phẩm không xứng đáng của các cây bút vốn dĩ từng là thành viên Viện Hàn Lâm như Eyvind Johnson và Harry Martinson ?
Thông thường, Viện Hàn Lâm có khuynh hướng đề cao một số nhà văn cánh tả như Sinclair Lewis, Gunter Grass, Pablo Neruda hoặc Jean-Paul Sartre. Và những nhà văn Mỹ, từng giành giật được giải thưởng này, là nhóm người khá phức tạp như tác giả chống tư bản John Steinbeck cho đến nhà văn hạng trung bình Pearl S. Buck.
Sau thế chiến thứ II, Viện Hàn Lâm đã chọn một số gương mặt xứng đáng như Herman Hesse, Andre Gide, T.S. Eliot và William Faulkner. Nhưng còn Joseph Conrad, Graham Greene và Jorges Borges thì sao? Hoặc là những E.M.Foster, Mikhail Bulgakov và Willa Cather ? Theo tính toán của tôi, chỉ khoảng 15 trong số 105 người được trao giải được gọi là xứng đáng. Vì vậy, không thể xem đây là giải văn học công bình đúng nghĩa, biết ghi nhận đầy đủ những tài năng của thế giới.
Trên thực tế, vỏn vẹn khoảng mười ba tác giả Nobel được thế giới biết đến như Tagore (Ấn Độ, lãnh giải 1913), Anatole France (Pháp,1921), Pearl S. Buck (Mỹ,1938), Herman Hesse (Đức,1946), André Gide (Pháp,1947), William Faulkner (Mỹ,1949), Hemingway (Mỹ,1954), Albert Camus (Pháp,1957), Boris Pasternak (Nga,1958), Ivo Andrich (NamTư,1961), John Steinbeck (Mỹ,1962), J.P. Sartre (Pháp,1964), Sholokhov (Nga, 1970). Còn lại khoảng 90 tác giả được giải Nobel không được nghe nói đến vì tài năng không tương xứng. Sự thật, đánh gía một tác phẩm văn chương, nghệ thuật hay hoặc dở chỉ là tương đối, tùy thuộc vào trình độ văn hoá, thưởng thức của mỗi cá nhân. Người Á Đông phần lớn ưa thích phim Tàu hơn phim Tây, thích đọc truyện Kim Dung hay truyện cổ Thuỷ Hử, Tam Quốc…và ngược lại người Tây phương không đọc truyện của Phương Đông vì không hợp với tư tưởng, nếp sống văn hóa của họ.
Nói là tương đối nhưng sự tương đối cũng có giới hạn của nó. Một cuốn phim đặc sắc thì luôn được mọi người đánh gía cao như “Rashomon” của Nhật (1951) hoặc cuốn truyện nhiều người tán thưởng như “Giờ Thứ Hai Mươi Lăm” của nhà văn Lỗ Ma Ni C.V.Gheorghiu xuất bản năm 1950. Nhưng các vị chấm giải rất đáng chê trách, đã bỏ sót một số nhà văn tên tuổi như Tolstoi, Proust, Kafska…Đúng vậy, các ông Hàn uyên bác chắc chắn phải biết Léon Tolstoi là ai với tác phẩm vĩ đại “Chiến Tranh Và Hòa Bình” (năm 1869), đã có 30 bản dịch bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Tolstoi là tác gỉa vĩ đại của Âu Châu. Năm 1901 bắt đầu có giải Nobel và mãi cho tới 1910 Tolstoi mới qua đời. Trong suốt gần một thập niên làm sao các vị Hàn Lâm không biết Tolstoi là ai? Những cuốn tiểu thuyết vĩ đại của đại văn hào đã được thế giới tôn vinh là công trình trước tác văn hoá của nhân loại sau này.
Tiếp đó, thập niên 50, các vị Hàn Lâm cũng không thể không biết đến tác giả Constantin Virgil Gheorghiu với tuyệt phẩm “ Giờ Thứ hai Mươi Lăm”. Cuốn sách bán chạy nhất Âu Châu sau Thế chiến thứ hai. Sách bán trên 600 ngàn cuốn (thời đó) trong vài tuần lễ, và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Sự việc gạt bỏ tác gỉa Gheorghiu đã khiến Nobel Văn Học mất đi tính cách khách quan và giá trị của giải.
Ngoài ra trên văn đàn thế giới còn những tác gỉa với các tác phẩm nổi tiếng xứng đáng như Erich Maria Remarque, người Đức gốc Do Thái (1898-1970) với hai tác phẩm nổi tiếng đã được dựng thành phim: Mặt Trân Miền Tây Yên Tĩnh (À l’ouest rien de nouveau,1929) và Một Thời Để Yêu, Một Thời Để Chết (1954). Tác gỉa thứ hai là Gunther Konsalik (1921-1999), người Đức, cũng có hai tác phẩm dựng thành phim là Tiểu Đoàn Trừng Giới và Y Sĩ Thành Stalingrad (1956). Ông này đã viết tất cả 130 tác phẩm, được dịch ra 36 thứ tiếng, phát hành tổng cộng 72 triệu cuốn trên thế giới. Tác gỉa Lâm Ngữ Đường (Trung Hoa) được Tây phương hâm mộ với triết lý nhân sinh gía trị trong cuốn tiểu thuyết lớn Moment in Peking viết năm 1939, dài hơn một nghìn trang, được xem tương đương với Chiến Tranh Và Hòa Bình của Tolstoi. Cũng có thể kể thêm tác gỉa Margaret Michell với Cuốn Theo Chiều Gió viết năm 1936, truyện này qúa nổi tiếng khỏi phải bàn cãi thêm.
Tiện đây, chúng tôi xin so sánh sự khác biệt giữa giải Nobel văn chương và giải thưởng Điện ảnh Quốc tế, hai môn nghệ thuật anh em. Trên thế giới, nhiều tổ chức Đại hội điện ảnh hàng năm, nhằm phát giải cho các phim hay của nhiều nước tham dự, mục đích khuyến khích phát huy nghệ thuật thứ bẩy. Con số đại hội loại này khá nhiều nhưng có ba đại hội uy tín nhất là Đại hội Venice Ý sáng lập năm 1932 với giải Sư Tử vàng (Lion d’or), Đại hội điện ảnh Cannes (1946) với Nhành Dương Liễu Vàng ( Paime d’or), và Đại hội điện ảnh Bá Linh (1951) với giải Gấu Vàng ( Ours d’or).
Về giải Nobel Văn Chương, các thành viên tham dự trên thế giới khó có cơ hội được trao giải thưởng công bằng, đứng đắn so với Giải thưởng điện ảnh quốc tế. Lý do các nhà văn không được mời trực tiếp để có thể gửi tác phẩm tham dự. Ngoài ra, đa số các ông Hàn chỉ biết tiếng Tây, Anh, Mỹ…mà không đọc được tiếng Tàu, Nhật, Nga,…Do đó nhiều tác phẩm tuyệt tác khó lọt vào vòng trong. Hoặc tất cả được dịch ra tiếng Anh, Pháp…cũng khó đoạt giải vì các ông Hàn gần gũi với văn hoá Tây phương hơn những nền văn hóa như Tàu, Ấn, Nam Mỹ, Trung Đông…
Nếu nhìn vào danh sách 108 giải thưởng văn chương Nobel từ 1901, sẽ thấy rằng đa số những tác giả đoạt giải xuất phát từ Âu Mỹ, Pháp, Thụy Điển , Đan Mạch, Na Uy, Anh, Tây Ban Nha…Tuy họ cũng cố gắng cấp phát một ít giải cho Ấn Độ (một giải), Nhật (hai giải), Châu Phi hai giải ( Ai Cập 1988, Nigeria 1986). Trung Đông Ả Rập không có giải nào.
Trung Hoa, Pháp, Nga là ba nước có nền văn chương giầu nhất thế giới. Từ 1901 đến nay Pháp được 13 giải, Nga được 4 giải, Trung Hoa được 2 giải: Cao Hành Kiện, Pháp gốc Tàu, năm 2000, và Mặc Ngôn, năm nay 2012, giải trị giá 1.2 triệu Mỹ kim.
Mặc Ngôn (Guan Moye) sinh năm 1955 ở Gaomi, TQ, trong một gia đình nông dân. Một cuốn phim, dựa trên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của ông là “Cao Lương Đỏ” (Red Shorgun) do Trương Nghệ Mưu đạo diễn, Củng Lợi thủ vai chính, được hàng triệu người tán thưởng. Đường lối sáng tác của ông chuyên về lịch sử và đương đại, dân gian. Trung Hoa có nền văn hóa lâu đời về văn chương nghệ thuật, những áng thơ phú tuyệt tác, những cuốn tiểu thuyết bất hủ cách đây hàng ngàn năm, không lẽ tại TQ, Nhật Bản, Hàn Quốc…lại không có thêm một số nhân tài đủ khả năng lãnh giải Nobel văn chương như Châu Âu ?
Như thế phải nói rằng giải Nobel này chỉ dành cho lãnh địa Tây phương thì đúng hơn là giải thưởng của thế giới. Còn giải thưởng Điện Ảnh Quốc Tế thì đúng với danh xưng. bao trùm khắp năm châu, vượt khỏi biên giới của nền văn hoá khu vực.
Đến năm 1964 giải Nobel Văn Chương biến thành một “scandal”. Ông Jean Paul Sartre, nhà văn, triết gia lừng danh của Pháp, đã gởi thư từ chối nhận giải, nhưng bức thư này vì lý do gì đó không được mở ra đúng ngày! Ngày 22 tháng 10 Viện Hàn Lâm bầu xong và chọn ông! Ông Sartre nêu ra hai lý do cá nhân, năm 1945, ông được trao tặng Bắc Đẩu bội tinh mà ông đã từ chối, mặc dù ông có nhiều thiện cảm với xã hội chủ nghĩa.
Lý do thứ hai tại sao ông từ chối giải Nobel ? Sartre trả lời vì ông còn sống. Dưới nhãn quan của nhà triết học: Một nghệ sĩ, nhà văn còn sống không nên được phát giải, vì họ vẫn còn trên đà sáng tác. Ví dụ nhà văn được giải, sau đó lại thụt lùi, trong khi một nhà văn khác, chưa được giải, có thể ngày càng tiến bộ. Vậy ai xứng đáng hơn ?
Hành động từ chối giải chẳng khác gì gáo nước lạnh dội vào mặt ban giám khảo. Đối với Sartre, người đã có điạ vị văn chương, nhà triết học danh tiếng lẫy lừng, thì giải Nobel Văn chương chẳng tô điểm gì thêm cho sự nghiệp của ông.
Năm sau đó (1965), Hàn Lâm viện phát giải thưởng cho nhà văn Nga Sholokhov với hai tác phẩm bất hủ: “Vỡ Đất Hoang” và “Sông Don Thanh Bình”. Một giải thưởng xứng đáng. Sholokhov là nhà văn Nga duy nhất được nhà nước Liên Xô cho phép đi lãnh giải Nobel Văn Chương trong tổng số ba người Nga được giải trước đó. Tác phẩm của ông được cả hai phía Đông và Tây cùng ca ngợi, đã giữ được truyền thống vĩ đại của văn chương Nga. “Sông Don Thanh Bình” (Quiet Flows The Don) là một thiên anh hùng ca về cuộc nổi dậy kiêu hùng của dân tộc Cô Dắc vùng sông Don, dành quyền độc lập từ tay chính quyền Bolshevik. Sách bán ra hơn ba chục triệu cuốn, được dịch ra hơn ba mươi thứ tiếng, một siêu phẩm ngang hàng với “Chiến Tranh và Hòa Bình”.
Nửa thế kỷ trước, khi khoa học kỹ thuật chưa tiến bộ, văn chương được nhiều người hâm mộ. Ca nhạc, điện ảnh, văn chương ngày càng được số đông quần chúng tham gia. Các siêu sao âm nhạc, tài tử điện ảnh, những nhà đạo diễn nổi danh…được ca ngợi, đón nhận nồng nhiệt khắp nơi.
Ngày nay, trước sự cạnh tranh và lớn mạnh của các ngành nghệ thuật khác, văn chương ngày càng bị thu hẹp phạm vi sinh hoạt, số độc gỉa ngày một giảm, đời sống ngày càng văn minh sung túc, soi mòn nguồn cảm hứng của tác gỉa sáng tác. Các giải thưởng văn chương luôn có mục đích khuyến khích phát huy tài năng sáng kiến, nhưng khó hy vọng cứu vãn đươc tình trạng ngày một suy tàn thấy rõ với hàng loạt tiệm sách lớn nhỏ phá sản hoặc thu hẹp như Borders, Barnes&Noble, Book stars, Warner Books...
Trung Đạo