"Tôi là một người trong tay không lấy một tấc sắt, trên mặt đất không có chỗ nào dừng chân. Chẳng qua mình là một thằng tay không, chân trắng, sức yếu, tài hèn lại đòi vật lộn với hùm beo có nanh dài, vuốt nhọn. Dù sao mặc lòng, tôi vẫn cứ hăng-hái đi tới. Tôi vẫn muốn đổ máu ra mua Tự-Do "

** Phan Bội Châu **

Federico Garcia Lorca: Cơ Cấu và Tác Phẩm.

Ngữ lực trong thơ ca vừa là phương tiện vừa là dữ liệu để xây dựng một bài thơ. Khác với một tác phẩm kiến trúc, thường có kế hoạch, bản vẽ, dàn dựng trước khi bắt tay sáng tác. Cơ cấu của một bài thơ thành hình một cách tự nhiên.

Cho dù là những trường thi hoặc kịch thơ, những dàn dựng trước thông thường sẽ bị thay đổi tùy vào sáng tạo và hứng khởi. Khi tác phẩm thành hình, đa số vóc dáng và nội dung khác với hình ảnh lúc ban đầu. Một bài thơ thông thường sẽ do sáng tạo và ngẫu hứng dẫn đưa để tạo ra cấu trúc. Vì vậy, cấu trúc, ngữ lực và sáng tạo, gọi chung là cơ cấu, sẽ là bề mặt và bề sâu của văn bản để tìm hiểu thơ. Nói nôm na là đọc thơ với ý thức đọc thơ.

Cơ cấu của một bài thơ là chữ nghĩa, hình thể bên ngoài và ý tứ, thần hồn bên trong và cách sinh hoạt của toàn thể. Sinh hoạt là do sáng tạo làm nên sáng tác.

Cơ cấu của một bài thơ bắt đầu bằng phần xương thịt của ngôn ngữ và ảnh tượng của tứ thơ. Ngôn ngữ và tứ thơ xây dựng thành cấu trúc của bài thơ. Ý nghĩa và tình tự nằm trong cấu trúc của bài thơ và phần cảm nhận từ hoặc ngoài văn bản là liên tưởng, tưởng tượng và trực giác.

Khi đọc xong một bài thơ, cảm nhận như thế nào là do trình độ và kinh nghiệm đọc thơ. Nếu một bài thơ khiến cho người đọc phải đọc lại. Mỗi lần đọc có cảm nhận khác hơn, sâu rộng hơn, bài thơ đó đã cho người đọc một tín hiệu là bài thơ có giá trị. Ít nhất là giá trị đối với người đang đọc.

Tại sao chỉ đọc một lần? Tại sao lại đọc nhiều lần? Tại sao đọc xong thấy khoan khoái, cảm nhận thích thú?

Câu hỏi đầu tiên có câu trả lời: Bài thơ đó bình thường. Đọc xong hiểu hết. Cảm súc liền tay. Một lần là đủ. Có đọc lại, cũng chỉ hiểu và cảm như vậy thôi. Giá trị của THƯỜNG nằm trong nghệ thuật diễn đạt thơ. Đa phần, người đọc bắt gặp loại thơ này trong dạng phổ thông.

Câu hỏi thứ hai có câu trả lời: Giá trị của THẤM. Đọc một lần, cảm nhận mù mờ. Biết mình chưa rõ. Đọc thêm, đọc ngẫm nghĩ. Có khi đọc tra cứu. Mỗi lần sẽ làm bài thơ sáng hơn, rõ hơn và ý nghĩa hơn.

Câu hỏi thứ ba có câu trả lời thuộc về giá trị của THẤU. Câu thơ thấu, bài thơ thấu là nghệ thuật dễ bị xem thường nếu chỉ diễn đạt những kinh nghiệm và trực giác bình dân. Những câu thơ thấu, bài thơ thấu đúng nghĩa sẽ làm cho người đọc bàng hoàng, không thể chối cải cái ý nghĩa, cái tình tự, cái tâm sự mà họ cũng có, đã kinh qua, đã chứng kiến, đã hiểu biết mà không thể diễn đạt một cách thơ như vậy.

Thơ của Federico Garcia Lorca từ tác phẩm Poeta En Nueva York trở đi, cần có một hướng nhìn toàn thể theo Cơ Cấu Cảm (qua cơ cấu mà cảm nhận), mới có thể tận hưởng giá trị và tinh túy của thơ Lorca. Cơ cấu cảm khác với cơ cấu luận ở chỗ: LUẬN như con đò đưa độc giả qua bên kia bờ. CẢM là hưởng thụ trời mây mưa nắng đang khi trên đò qua sông. Và đàng nào, cũng đến bên kia.

Cơ cấu chính của thơ Lorca biểu hiện qua sự phát triển từ tượng trưng đến đỉnh cao của siêu thực rồi tiến vào cõi hòa đồng với chính bản gốc dân tộc và bản sắc của ông.

Hầu như toàn bộ thi ca của Lorca đều dập dìu với nhạc điệu. Ông sử dụng những thể thơ cổ truyền cho dù không tôn trọng hoàn toàn những qui tắc. Ông sử dụng những điệu đàng, những thể hát bình dân. Từ bản chất này, người đọc cảm được tính dân tộc của ông len lỏi và liên kết những điều ông viết.

Hiện rõ nhất là trong tập thơ Poeta en Nueva York, ông đã để lối viết "tự động" dẫn đưa câu cú tạo ra hình thể và nội dung thơ của bài thơ Siêu Thực. Tập thơ Poeta en Nueva York chứa đựng những bài thơ mà ông phát huy nhiệt huyết cũng như khả năng siêu thực qua những kỹ thuật của phái Siêu Thực đang thịnh hành lúc đương thời.

Mời đọc một đoạn thơ Lorca trong bài Danza de la Muerte, Nhảy Múa với Nỗi Chết, trong tập thơ Poet en Nueva York:

Mặt nạ. Hãy nhìn xem, làm sao mặt nạ

từ Phi Châu tìm đến New York.

Đã biến mất, hàng cây Hồ Tiêu,

những nụ hoa phốt-pho nhỏ bé (1).

Đã biến mất, những lạc đà tàn tạ,

và lũng sáng nơi thiên nga ngẩng mỏ cao.

Thời khô hạn,

bông lúa mọc trong mắt, con mèo bị cán mỏng,

thời đại khủng hoảng, những chiếc cầu rét rỉ

và niềm chết lặng của nút chai.

Thú vật chết bầy bầy chất đống

bởi ánh sáng như lưỡi gươm đâm qua.

Niềm vui vô tận đàn hà mã với chân hai móng đầy tro

và đàn linh dương có hoa cúc trường sinh mọc trong cổ.

Trong héo úa, cô đơn im lìm,

chiếc mặt nạ méo mó nhảy múa.

Một nửa địa cầu là cát

một nửa kia thủy ngân và nắng tiềm tàng.

Mặt nạ. Hãy nhìn thẳng mặt nạ!

Cát, cá sấu, và sợ hãi trên thành phố New York.

.....................

Người đọc thấy ngay sự đổi thay của Lorca trong cách diễn đạt thơ so với những tập thơ trước. Với những bức xúc về đời sống máy móc văn minh, chứng kiến cảnh thảm hại sau khi thị trường chứng khoán ở New York sụp đổ, thế thái nhân tình phức tạp đó dồn dập cảm xúc của ông nên những dòng chữ cứ tuôn ra phăng phăng, những bài thơ dài ngoằn khó hiểu, hầu như không thể hiểu một cách tự nhiên.

Thi sĩ đi tìm thơ nhưng thơ đến bất chợt. Thi sĩ chờ đợi thơ vì thơ xuất hiện không hẹn trước. Nghệ thuật căn bản của phái Siêu Thực là Viết-tự-động. Thế nào là Viết-tự-động?

Nói khác hơn là Sáng tác tự động. Khi giải thích theo lối khoa bảng, thường chú trọng đến cụm từ giấc mơ và vô thức. Chẳng có ai viết từ giấc mơ. Họ đang ngủ. Thức dậy đa số giấc mơ đều bị lãng quên. Những giấc mơ cạn, tức là mơ lúc gần thức tỉnh, là những giấc mơ còn sót lại trong trí nhớ. Những diễn biến vô lý luận, vô thực tế, những ý nghĩa biến hóa phi lý và vô nghĩa trong giấc mơ là kỹ thuật được sử dụng trong phái Siêu Thực. Nhưng rốt ráo chính là giá trị của giấc mơ đã được những nhà nội tâm học phân tích lý giải. Tâm lý học của Sigmun Freud và phân tâm học của Carl Jung đã cho người nghệ sĩ của thời đại đó một cái nhìn xuyên qua hiện thực, đi sâu vào hiện hữu để cảm được thế giới vô hình sau lưng đời sống hàng ngày. Cõi đó gọi là vô thức.

Đi đâu gặp vô thức? Bằng cách nào? Thôi miên chăng? Nếu chỉ viết bằng vô thức thì chắc chắc sẽ toàn là những câu cú loạn xạ, ý tứ hỗn độn. Cho dù bước vào cảnh giới thiền, cũng có cái "vô luận lý" của thiền. Vậy thì sáng tác tự động là sáng tác ra sao?

Cõi ý thức và cõi vô thức tiếp giáp với nhau trong con người như thế nào không ai rõ nhưng con người biết rằng có. Xuất thần là một trạng thái từ ý thức đi vào vô thức. Xuất thần nếu không theo nghĩa đạo giáo, thì chẳng có ai có thể xuất thần lâu cả. Nếu xuất thần dài hạn, không chừng là những người mất trí. Có lẽ nên dùng một cụm từ khác để bổ nghĩa cho xuất thần, đó là say mê cao độ, không còn để ý đến xung quanh, quên không gian quên cả thời gian.

Sáng tác tự động là sáng tác vào lúc tác giả say mê, chập chờn giữa thức và mơ. Lúc ra lúc vào trong chìm ngập hình ảnh chữ nghĩa ý tưởng cảm xúc. Lúc vào cơn say cạn, lúc vào cơn say sâu. Trạng thái chập chờn cho phép ý thức đóng một vai trò "thông dịch" những hỗn loạn, phi lý, vô nghĩa từ vô thức đưa ra trong những lúc chìm vào chiêm bao mà vẫn thức.

Những gì từ vô thức chuyển ra được ý thức thông dịch vào câu cú. Thông dịch có nghĩa là làm cho tác giả hiểu được mà không sai ý, trật nghĩa của vô thức. Dù thông dịch giỏi cách mấy cũng vô phương diễn đạt những điều "thần bí" của vô thức. Do đó, văn chương Siêu Thực rất khó hiểu, khó cảm nhưng không phải là hoàn toàn không thể hiểu, không thể cảm.

Trong những lối sáng tác khác, thông thường ý thức giữa vai trò chủ yếu. Ý thức hướng dẫn và dàn dựng. Cho dù cảm xúc tuông trào, chữ nghĩa vẫn theo một lề lối sẵn có. Nhất là hình ảnh, ý tứ được ý thức trình bày để tác giả tự nhận thức được. Từ đó viết ra và người đọc sẽ hiểu được và sẽ cảm được.

Trong Siêu Thực, ý thức đóng vai phụ nhưng phải có. Một phần tỉnh ba phần mê, ý thức chỉ ghi lại những hình ảnh, ý tứ, tư tưởng, ngôn ngữ từ vô thức theo cảm xúc và theo cách "thông dịch" riêng. Sự phối hợp này tự động tạo ra câu cú, cấu trúc và hình thể bài thơ. Đối với người đọc, bài thơ càng nặng phần vô thức càng khó hiểu. Nhiều khi không cần phải hiểu vẫn cảm được. Nhưng cảm đôi lúc khó ngờ vì có thể cảm tháp Eiffel thành Kim tự tháp. Nhưng cũng chẳng sao, miễn là tháp. Đừng lầm với sông.

Thơ Lorca khi nhập vào Siêu Thực trong giai đoạn sống ở New York là thời kỳ đen tối trong tâm tình và tư tưởng. Khi trở về lại Tây Ban Nha và sáng tác những tập thơ tiếp theo như Diván del Tamarit, Trường Kỷ ở Tamarit và Llanto por Ignacio Sánchez Mejías, Điếu Ca cho Ignacio Sanchez Mejias, sự bùng nổ của siêu thực dịu lại nhưng phần sâu thẳm của tâm linh lại gia tăng. Cho dù những bài thơ trong Trường Kỷ ở Tamarit là những bài thơ có âm điệu của thể thơ cổ truyền nhưng ngôn ngữ và ý tứ vẫn là siêu thực. Thêm vào, vì thể thơ có qui tắc, điều luật nên thơ siêu thực của ông cô đọng hơn tạo ra nhiều lớp bề sâu, tăng thêm phần khó hiểu. Như:

Casida: Bồ câu Đen

Qua tàng cây Nguyệt Quế

thấy đôi bồ câu đen.

Một con là mặt trời

một con là mặt trăng.

Tôi hỏi, này hàng xóm

mộ phần tôi ở đâu?

Trời nói, mộ chôn ở sau đuôi.

Trăng nói, mộ chôn ở trong cổ.

Tôi đang đi

đeo trần gian quanh thắt lưng

thấy đôi diều hâu trắng tuyết

và thiếu nữ trần truồng.

Chim này là chim kia

thiếu nữ không giống chim nào.

Tôi hỏi, diều hâu nhỏ

mộ phần tôi ở đâu?

Trời nói, mộ chôn ở sau đuôi.

Trăng nói, mộ chôn ở trong cổ.

Qua tàng cây Nguyệt Quế

đôi bồ câu trần truồng.

Chim này là chim kia

cả hai đều không phải. (4)

Và một bài thơ trong tuyển tập Sonetos del Amor Oscuro, Tiểu Khúc Tình Yêu U Uất:

Thương Tích Tình

Sáng lòa lửa đốt thiêu anh

cảnh nhìn ảm đạm chung quanh như người

tương tư ám ảnh sầu đời

khổ đau từ đất lên trời theo thời gian.

Máu buồn ta thán cung đàn

trên cây Cầm Điểu lặng câm gợi tình

biển sôi động vỗ trong mình

con bò cạp cắn vô hình trong tim.

Vòng hoa, người bệnh nm im

mơ trong thao thức em tìm đến thăm

vào tan nát giữa thâm tâm.

Cho dù cố tránh lỡ lầm

tim em độc dược thâm trầm lũng sâu

làm mê thần trí khổ sầu. (5)

Trong cơ cấu của một bài thơ, ngôn ngữ, thể thơ, ý tứ, cấu trúc từ văn bản, người đọc có thể nắm bắt được, cho dù là tương đối. Phần khó nhất, phức tạp vô cùng là phần sinh hoạt của thế giới thơ trong một bài thơ. Khả năng sáng tạo và cảm xúc của tác giả đã tạo ra sự sinh hoạt của các chi tiết và toàn thể bài thơ. Sinh hoạt này mạnh hay yếu, cao hay thấp, sôi động hay thâm trầm, nhanh hay chậm, tự lập hoặc bắc chước, xuất sắc hay bình thường, lập dị hay mới lạ...v..v... chính là bản lãnh và tài năng của thi sĩ.

Sinh hoạt trong thế giới thơ là một loại sinh hoạt của chất trắng trong bộ óc, có nhiệm vụ cơ cấu hóa chất xám làm việc với thần kinh, năng lượng, cơ bắp và tâm tình trong thế giới con người. Nhưng nhìn qua góc độ của tâm lý, sinh hoạt hàng ngày của con người bị sự chi phối vô hình nhưng đầy hiệu năng của vô thức. Đây cũng là điểm mấu chốt trong sáng tác thơ bằng ý thức hoặc bằng vô thức.

Những cấu trúc liên hệ chằng chịt hàng ngang và liên hệ phức tạp hàng dọc của ngôn ngữ, ý tứ, cảm xúc trong một bài thơ là do những chi tiết đó sinh hoạt với nhau, tạo thành, dưới quyền sáng tạo "thượng đế" của ý thức và vô thức. Sinh hoạt trong thế giới thơ có thiên hình vạn trạng. Sinh hoạt thơ trong một bài thơ là sinh hoạt riêng tư của một thi sĩ trong một thời-gian-thơ đặc thù về một động cơ cảm xúc nào đó.

Sinh hoạt này mang những quan sát, nhìn thấy từ hiện thực vào trong tâm tư để tạo ra thế giới riêng của một bài thơ. Một ví dụ cụ thể, đó là phim hoạt họa Disney về Aladin và cây đèn thần. Nhân vật nổi tiếng được giới trẻ hâm mộ trong giới bóng rổ là Shaquille O'Neal, đã được đưa vào một truyền thuyết cây đèn thần. Ông thần đèn chính là hình ảnh và tiếng nói trầm trầm của O'Neal. Ông thần đèn từ một nhân vật hiện thực nhưng sống trong thế giới ảo của cổ tích Ba Tư. Hãy theo dõi đoạn thơ dưới đây của Lorca.

Vài sinh hoạt tuyển chọn trong thơ Federico Garcia Lorca:

Tan, tan

Quién es?

El Otono otra vez,

Qué quiere de mí?

El frescor de tu sien.

No te lo quiero dar.

Yo te lo quitaré.

Tan, tan.

Quién es?

El Ontono otra vez.

(Trích Dos Normas)

Cốc, cốc.

Ai vậy?

Mùa thu trở lại đây.

Ngươi muốn gì?

Vầng trán đẹp của anh.

Không được đâu.

Tôi sẽ lấy đó.

Cốc, cốc.

Ai vậy?

Mùa thu trở lại đây.

Lorca đã cho thơ sinh hoạt trong một trò chơi đối thoại của con trẻ, quen thuộc với hầu hết người Tây Phương: Knock, Knock. / Who's there? / ....Gần giống như trò chơi đồng dao của con trẻ Việt: Rồng rắn lên mây có cây lúc lắc. / Hỏi thăm thầy thuốc có nhà hay không? .... Cả hai trò chơi này đều có thể kéo dài lập đi lập lại, không nhất thiết phải bị giới hạn bởi thời gian, nhất là thể thơ. Ông bắt đầu và chấm dứt đoạn thơ bằng cốc, cốc / ai đó? Cho thấy sự kéo dài vô định của mùa thu trở lại. Bao lâu còn mặt đất, bấy lâu còn mùa thu. Tại sao là mùa thu? Thu là thời gian chuyển tiếp những phút huy hoàng của cây lá rồi chợt tắt khi sang đông. Thu là thời gian đất trời hấp hối. Tạo sao là vầng trán? Không chọn cánh tay hoặc đôi mắt? Trán là tiêu biểu cho trí tuệ, cho sự sống. Trong một đoạn thơ ngắn, Lorca đã mượn xác trò chơi để gửi đến lời gọi của cõi chết. Chết sẽ gõ cửa hỏi thăm con người thường xuyên và một hôm sẽ lấy mất mạng sống cho dù con người không muốn: Ngươi muốn gì? / Vầng trán đẹp của anh. / Không được đâu. / Tôi sẽ lấy đó .....Và khi nào mùa thu còn trở lại là mạng sống còn mong manh. Một hôm mùa thu đi luôn, mang theo linh hồn của vầng trán.

Một kiểu sinh hoạt khác thường thấy trong thơ ông, nhất là những bài thơ về cuối đời. Một lối sinh hoạt sâu thẳm, mang đầy nỗi niềm và tài hoa.

Con una cuchara
arrancaba los ojos a los cocodrilos
y golpeaba el trasero de los monos.
Con una cuchara.
.............................

Với chiếc muỗng gỗ

ông múc mắt con cá sấu,

rồi đánh bầy khỉ vào mông.

Với chiếc muỗng gỗ.

Ông mở đầu bài thơ Oda rey de Harlem, Ông Vua Harlem, bằng những đời sống từ hiện thực như Ông vua, cá sấu, bầy khỉ. Những thứ rời rạc, không mấy liên hệ với nhau, cùng đi vào thế giới của khu sống nổi tiếng tội ác và bần cùng: phố Harlem. Bỗng dưng người đọc thấy được sự sinh hoạt của xã hội nơi cá sáu hung dữ, giết người chớp mắt và một bầy khỉ phá phách vô tội vạ. Ông vua trong một xã hội như vậy, sẽ phải làm gì? Móc mắt cá sấu cho chúng không còn thấy người để rượt cắn. Đánh nhẹ vào mông bầy khỉ cho chúng đừng phá rối. Hoặc bán thuốc bên đường để hòa đồng với đời sống nhiễu nhương:

Es por el silencio sapientísimo
cuando los camareros y los cocineros y los que limpian con la lengua
las heridas de los millonarios
buscan al rey por las calles o en los ángulos del salitre.

Trong nỗi im lặng uyên bác,,

đầu bếp, hầu bàn le lưỡi liếm sạch

vết thương của nhà triệu phú

đang tìm ông vua đứng đường hay ở góc phố bán thuốc Diêm Tiêu. (6)

Nhiều hình ảnh hoạt động chồng lên nhau thành nhiều lớp tứ thơ khiến cho ý nghĩa thành sâu sắc. Sáng tạo sinh hoạt trong bài thơ này hết sức cô đọng cho dù bài thơ dài và câu thơ dài. Những tứ thơ san sát bên nhau, chồng chất lên nhau, hòa tấu náo loạn, dữ dằn ghi nhận phố Harlem nơi gốc rễ của bạo loạn màu da. Đến kết luận là những nhóm người không đầu, những sát thủ, những tội ác từ trong huyết mạch để Harlem không còn lối thoát. Ông vua với niềm tuyệt vọng mang bộ râu dài ra tới đại dương. Tại sao lại râu dài ra tới đại dương?Trong lề lối thế giới thơ của Lorca sinh hoạt, luôn luôn có điều gì âm u, bí mật chờ thời gian thấm thía.

Một trong những cách xây dựng cơ cấu bài thơ rất thành công của Lorca trong thời điểm 1925-1935 là cách kể chuyện bằng thơ, rất phổ thông tại Tây Ban Nha. Dỉ nhiên ông đã hiện đại hóa cấu trúc, câu cú và từ ngữ. Ví dụ như bài Ballad cho Người Tử Tù, Romance del Emplazado. Tứ thơ và nội dung ghi lại một xã hội rối loạn và một thời nhiễu nhương của chính trị. Cấu trúc là tâm trạng người tù chờ đợi giờ hành quyết. Ông xây dựng cấu trúc theo lối cổ điển. Có mở, có khai triển và có kết như một bình rượu cũ để ông đổ rượu mới vào.

Ông mở đầu tâm trạng cô đơn chờ đợi của người tử tù, bằng hình ảnh đôi mắt con ngựa thao thức chung với mắt người. Nhấn mạnh tâm lý của người khắc khoải mang bản án tử hình.

Ôi cô đơn ray rứt!

Đôi mắt nhỏ của tôi

đôi mắt lớn của ngựa,

thao thức đăm đăm suốt đêm dài

không nhìn nơi nào khác

nơi lặng lẽ biến mất

giấc mơ của 13 chiếc thuyền.

Thay vì, thức khuya canh giữ,

là thức hết lòng và quyết tâm.

Ông khai triển bằng cổ bói bài định mệnh, liệu có một phép lạ nào có thể cứu sống kẻ tử tù: " ...chờ thỉnh thị cổ bói bài lạnh lẽo..." Tâm lý của kẻ chờ chết thường là nhớ lại những quảng đời quá khứ. Một thời niên thiếu vui chơi: .."..lũ thiếu niên đang tắm dưới trăng..", một thời phiêu bồng khắp nơi, đêm ngày trên lưng ngựa: "...những kỵ mã mất ngủ...(trên lưng)..những con ngựa mất ngủ..." Chỉ dùng cặp từ " mất ngủ " nhân đôi là đủ thấy phong độ giang hồ của kỵ mã. Rồi ngày đó đã đến, 25 tháng 8, kẻ tử tù đã được nhắc nhở ngày hành hình. Không có phép lạ nào. Để chấp nhận cái chết từ từ đến và đến đúng ngày, không phải là dễ. Tập chắp tay để cầu nguyện hoặc để cho ấm, làm quen hơi lạnh dưới lòng đất. tập cho quen bóng tối. Tập cho quen gai rễ đâm xuyên qua thân xác. Những ý tưởng đó dù chỉ là vô hình, vẫn là nỗi sợ hãi khôn nguôi: .."..Học cách chắp hai tay / cho quen dần hơi lạnh / của kim loại và đá / vì chỉ hai tháng thôi / anh sẽ nằm im trong tang liệm.."

Mắt tôi nhìn phương bắc

tìm kiếm kim loại và đá tảng

nơi bất động hình hài

chờ thỉnh thị cổ bói bài lạnh lẽo.

Đám trâu nước ồ ạt tấn công

lũ thiếu niên đang tắm dưới trăng

với dãy sừng rẻ sóng.

Những búa gõ ca hát

trên bầy đe mộng du

những kỵ mã mất ngủ

những con ngựa mất ngủ.

Ngày 25 tháng 6

họ nói với El Amargo:

" Bây giờ, nếu muốn, anh có thể cắt

bụi Trúc Đào trong sân.

Vẽ thánh giá trên cửa

viết tên anh phía dưới,

cho gai và cây độc

mọc ra từ bên hông

những mũi nhọn của gai chanh ẩm ướt

sẽ đâm thủng qua giày của anh.

Sẽ là đêm đen, giữa tối tăm,

trong gò đống đầy hấp lực

nơi bầy trâu chiêm bao

uống nước trong bãi sậy.

Hỏi xin ánh sáng và tiếng chuông.

Học cách cách chắp tay

cho quen dần hơi lạnh

của kim loại và đá

vì chỉ hai tháng thôi

anh sẽ nằm dài trong tang liệm."

Lorca dùng hình ảnh dãy sương mù như lưỡi gươm chặt vào gió như một lệnh hành quyết với bóng dáng tử thần lảng vảng. Ngày 25 tháng 8, giờ tử hình đã điểm.

Sương mù trên thành Santiago

di động như gươm chặt vào gió.

Tử thân bay ngang bầu trời

oằn đè xuống đôi vai.

Ngày 25 tháng 6

Amargo còn mở mắt

ngày 25 tháng 8

Anh nhắm mắt xuôi tay.

Ông đưa vào đoạn kết tứ thơ nhẹ nhàng nhưng rung rung như âm thanh đàn hồi, ngân ngân dù kẻ tử tù đã chết: .."..cho nỗi cô đơn được an nghỉ.." Nỗi cô đơn mà khởi đầu đã đăm đăm chờ đợi phút cuối cùng. Đôi mắt nhỏ của người nhắm lại. Còn đôi mắt to của ngựa thì sao? Con ngựa đã trở thành một thú chứng (nhân chứng).

Người ta kéo nhau ra đường

đi xem người tù bị xử tử

kẻ đã đứng dựa vách tường

cho nỗi cô đơn được an nghỉ. (7)

Cấu trúc bài thơ thì cổ điển. Thể thơ Ballad theo truyền thống. Lorca đã hiện đại bài thơ bằng những tứ thơ và ngôn ngữ đan nhiều lớp chiều sâu. Ai đâu ngờ, cái bi kịch của tử tù trong cuộc chiến, trong xã hội suy đồi, trong chính trị bất ổn lại bi kịch của chính ông. Chỉ khác ở chỗ, ông không được báo trước ngày bị hành quyết.

Ông thành danh bằng tài năng thật sự của thi sĩ chân chính, hết một đời cho nghệ thuật: thi ca và kịch nghệ. Người ta đã lầm lẫn thảm sát Lorca như đã từng thảm sát biết bao nhiêu nghệ sĩ tài danh bằng nhiều cách khác nhau. Phải chăng mỗi thi sĩ đều có một số mệnh đen tối? Một số mệnh đen tối như mọi người khác nhưng là vùng đất trù phú để nở hoa?

Đọc lại toàn bộ thơ Lorca, hưởng dụng điều hay, lẽ đẹp của thi ca từ một thi sĩ lớn trong thế kỷ 20, đã đành; Khâm phục và ngưỡng mộ tài năng, chắc chắn; nhưng hơn tất cả là sự ngậm ngùi. Đã đành, chữ tài liền với chữ tai. Nhưng sao kẻ không có tài cũng gánh nhiều tai biến?

Từ khi viên đạn rời nòng súng xuyên qua người của ông, Federico Garcia Lorca đã trở thành bất tử.

GHI:

(1) Fosforo: Phosphorus, một loại hoá học thuộc nhóm Nitrogen. Có màu trắng hoặc màu đỏ.

(2) Guano: Một loại dừa gần giống dừa Mỹ. Nghĩa khác là phân chim.

(3) Danza de la Muerte

El mascarón. ¡Mirad el mascarón!              
¡Cómo viene del África a New York!


Se fueron los árboles de la pimienta,               
los pequeños botones de fósforo.
Se fueron los camellos de carne desgarrada
y los valles de luz que el cisne levantaba con el pico.
              
Era el momento de las cosas secas,
de la espiga en el ojo y el gato laminado,
del óxido de hierro de los grandes puentes               
y el definitivo silencio del corcho.

Era la gran reunión de los animales muertos,
traspasados por las espadas de la luz;               
la alegría eterna del hipopótamo con las pezuñas de ceniza
y de la gacela con una siempreviva en la garganta.               

En la marchita soledad sin honda
el abollado mascarón danzaba.              
Medio lado del mundo era de arena,
mercurio y sol dormido el otro medio.               

El mascarón. ¡Mirad el mascarón!
!Arena, caimán y miedo sobre Nueva York!

..............................................

Dance of Death.

Bd: Greg Simon và Steven F. White.

The mask! Look how the mask
comes from Africa to New York.

They are gone, the pepper trees,
the tiny buds of phosphorus.
They are gone, the camels with torn flesh,
and the valleys of light the swan lifted in its beak.

It was the time of parched things,
the wheat spear in the eye, the laminated cat,
the time of tremendous, rusting bridges
and the deathly silence of cork.

It was the great gathering of dead animals
pierced by the swords of light.
The endless joy of the hippopotamus with cloven feet of ash
and of the gazelle with an immortelle in its throat.

In the withered, waveless solitude,
the dented mask was dancing.
Half the world was sand,
the other half mercury and dormant sunlight.

The mask. Look at the mask!
Sand, crocodile, and fear above New York.

(4) Casida de las palomas oscuras, trong phần thơ Trường Kỷ ở Tamarit.

(5) Llagas de amor, trong phần thơ Tiểu Khúc Tình Yêu U Uất.

(6) Xem phần thơ Thi sĩ trong thành phố New York.

(7)

Romance del Emplazado



¡Mi soledad sin descanso!
Ojos chicos de mi cuerpo
y grandes de mi caballo,
no se cierran por la noche
ni miran al otro lado
donde se aleja tranquilo
un sueño de trece barcos.
Sino que limpios y duros
escuderos desvelados,
mis ojos miran un norte
de metales y peñascos
donde mi cuerpo sin venas
consulta naipes helados.

Los densos bueyes del agua
embisten a los muchachos
que se bañan en las lunas
de sus cuernos ondulados.
Y los martillos cantaban
sobre los yunques sonámbulos,
el insomnio del jinete
y el insomnio del caballo.

El veinticinco de junio
le dijeron a el Amargo:
Ya puedes cortar si gustas
las adelfas de tu patio.
Pinta una cruz en la puerta
y pon tu nombre debajo,
porque cicutas y ortigas
nacerán en tu costado,
y agujas de cal mojada
te morderán los zapatos.
Será de noche, en lo oscuro,
por los montes imantados,
donde los bueyes del agua
beben los juncos soñando.
Pide luces y campanas.
Aprende a cruzar las manos,
y gusta los aires fríos
de metales y peñascos.
Porque dentro de dos meses
yacerás amortajado.

Espadón de nebulosa
mueve en el aire Santiago.
Grave silencio, de espalda,
manaba el cielo combado.

El veinticinco de junio
abrió sus ojos Amargo,
y el veinticinco de agosto
se tendió para cerrarlos.
Hombres bajaban la calle
para ver al emplazado,
que fijaba sobre el muro
su soledad con descanso.





Ballad of The Doomed Man

Bd: Zachary Jean Chartkoff


My fretting solitude!
The small eyes of my body
and the great eyes of my mare
do not shut out the night;
do not gaze faraway to see
a dream of 13 boats
toddle along peacefully.
Instead, as squires at vigil,
are clean and hard.
My eyes look toward the north
to the precipices and metals
where my body of no arteries
consults a frozen deck of cards.

Massive water oxen
charge at the schoolboys
bathing in the moons
of their fermenting horns.
Hammers were singing
on hypnotic anvils
insomnia of rider,
insomnia of horse.

On the 25th of June
they told El Amargo:
"The time has come to cut down
the oleanders out in your yard.
Paint a cross up on your door,
put your name beneath
for nettles and hemlock
will sprout from your haunch,
and needles of dewy lime
will gall through your boots.
When at night, in darkness,
over magnetic hillocks
where the water oxen
dreamily drink up the reeds.
Ask for the candles and bells.
Learn how to cross your hands
and taste the numbing winds
of precipices and metals:
for in two months from now
you will lie under a shroud."

Santiago swings his sword,
astral, stellar, across the sky.
Dismal silence flows
out of an arching heaven.

On the 25th of June
El Amargo opened his eyes,
on the 25th of August
he lay down and closed them tight.
Men were bustling about the street
to see the man who was to die,
who fixed against the wall
his solitude, now feckless.

Ballard of One Doomed to Die

Bd: Landston Hughes

Loneliness without rest!

The little eyes of my body

and the big eyes of my horse

never close at night

nor look that other way

where quiet disappears

a dream of thirteen boats.

Instead, clean and hard,

squires of wakefulness,

my eyes look for a north

of metals and of cliffs

where my veinless body

consults frozen playing cards.

Heavy water-oxen charge

boys who bathe in the moons

of their rippling horns.

And the hammers sing

on the somnambulous anvils

the insomnia of the rider

and the insomnia of the horse.

On the twenty fifth of June

they said to Amargo:

- Now, you may cut, if you wish,

the oleanders in your courtyard.

Paint a cross on your door

and put your name beneath it,

for hemlock and nettle

shall take root in your side

and needles of wet lime

will bite into your shoes.

It will be night, in the dark,

in the magnetic mountains

where water-oxen drink

in the reeds, dreaming.

Ask for lights and bells.

Learn to cross your hands,

to taste the cold air

of metals and of cliffs

because within two months

you'll lie down shrouded.

Santiago moved his misty

sword in the air.

Dead silence flows over

the shoulder of the curved sky.

On the twenty-fifth of June

Amargo opened his eyes,

and the twenty fifth of August

he lay down to close them.

Men came down the street

to look upon the doomed one

who cast on the wall his shadow

of loneliness at rest.

And the impeccable sheet

with its hard Roman accent

gave death a certain poise

by the rectitude of its folds.

Ngu Yên