"Tôi là một người trong tay không lấy một tấc sắt, trên mặt đất không có chỗ nào dừng chân. Chẳng qua mình là một thằng tay không, chân trắng, sức yếu, tài hèn lại đòi vật lộn với hùm beo có nanh dài, vuốt nhọn. Dù sao mặc lòng, tôi vẫn cứ hăng-hái đi tới. Tôi vẫn muốn đổ máu ra mua Tự-Do "

** Phan Bội Châu **

ĐI THEO HÀNH TRÌNH

NGUYỄN DU BẮC HÀNH TẠP LỤC : THƠ ĐI SỨ NĂM 1813 VÀ

NHỮNG BÀI THƠ ĐÃ ĐƯỢC SÁNG TÁC TRONG THỜI ĐI GIANG HỒ (1787-1790)


             

Đọc Bắc Hành Tạp Lục nhiều nhà nghiên cứu có cảm giác Nguyễn Du rất cô đơn trước cảnh sắc và con người tại Trung Quốc. TS Nguyễn Thị Nương trong Tọa đàm Khoa học Bắc Hành Tạp Lục, do Hội Kiều Học Việt Nam tổ chức tại Viện Văn Học ngày 1-11-2013 tại Viện Văn Học Hà Nội nhận xét Bắc Hành Tạp lục : « Nguyễn Du một mình một ngựa »  «  thơ đi sứ của ông hoàn toàn không có những sáng tác  chủ yếu để thiết lập quan hệ ngoại giao, làm sang cho đất nước » « Nguyễn Du viết với tư cách một thi nhân ». Cô Nương nói đúng một phần, theo tôi nguyên do vì : Một phần của tập thơ Bắc Hành Tập Lục  đã được viết từ năm 1787-1790 lúc Nguyễn Du 22, 24 tuổi, nghĩa là 23 năm trước khi Nguyễn Du làm Chánh sứ, đi sứ năm 1813, lúc đó nhà thơ đi giang hồ một mình. Trong các bài thơ Nguyễn Du không đi ngựa, mà đi trên những chiếc thuyền con. Tôi đã đi Trung Quốc năm 2009, theo dấu vết các bài thơ Nguyễn Du, đến những nơi thi hào đã đi qua, nghiên cứu bản đồ địa danh, đối chiếu từng bài thơ trên địa danh, dịch lại toàn bộ thơ chữ Hán Nguyễn Du, bổ túc những sơ sót các dịch giả đi trước. Và khám phá Nguyễn Du đã đi giang hồ Trung Quốc năm 1787-1790 năm 21, 24 tuổi sau khi nhà Lê - Trịnh sụp đổ. Bài viết này viết một cái nhìn tổng quát về Bắc Hành Tạp lục, không thể nói hết 132 bài thơ Nguyễn Du trong một bài ngắn. Sau đó sẽ chia từng bài nhỏ, đi từng địa danh trên hành trình : Từ Thăng Long đến Lạng Sơn. Từ Ải Nam Quan đến Quế Lâm. Từ Sông Tương đến Hán Dương. Từ Hán Dương đến Bắc Kinh. Từ Bắc Kinh qua Sơn Đông. Đáng tiếc là Nguyễn Du viết rất ít về Bắc Kinh, hay có thể các thơ văn này bị thất lạc.

Tôi đã chứng minh trong « Nguyễn Du,  Mười năm gió bụi (1786-1796) »  một số bài thơ trong Thanh Hiên thi tập, Nguyễn Du không làm ở Quỳnh Hải, Hồng Lĩnh mà làm ở Trung Quốc với những địa danh trong bài thơ, mà không ai để ý , hay bỏ qua không dịch : Vân Nam, Liễu Châu, Quảng Tây, Trung Châu, Giang Bắc, Giang Nam, Giang Hán, Hoàng Châu, Nam Đài, Long Thủy (Long Châu). và những bài thơ trong Bắc Hành Tạp Lục làm ở Trường An (Dương Phi cố lý, Bùi Tấn Công mộ, Phân Kinh Thạch Đài), Hàng Châu ( Miếu Nhạc Phi, 2 bài Tần Cối, 2 bài Vương Thị) những bài thơ này trên đường đi sứ năm 1813, Nguyễn Du không đi qua. Nó đã được sáng tác năm 1788-1790.

Đoạn đường từ Quế Lâm đến Hán Dương, đi đường thủy qua Vĩnh Châu, sông Tương, Hành Dương, Trường Sa, Tương Âm, Hồ Động Đình, Nhạc Dương, Hán Dương, Nguyễn Du đi nhiều lần, lần thứ nhất 1788-1790 lượt đi, lượt về và lần thứ hai đi sứ 1813-1814 lượt đi, lượt về.

Đoạn đường từ Hán Khẩu theo sông Hán Thủy đến Trường An , Nguyễn Du đi một lần năm 1789-1790.

Đoạn đường từ Hán Dương đến Bắc Kinh qua Hứa Đô, Hàm Đan, Hồ Bắc, Nguyễn Du đi đường bộ năm 1813 lượt đi đi.

Lượt về năm 1813 Nguyễn Du đi đường bộ qua Trực Lê, Sơn Đông, Khúc Phụ ,Từ Châu, Hoài Nam, An Huy, đến Võ Xương. Lại lấy đường thủy nước sông khô khan, kênh hạn hẹp đi rất chậm về đến Toàn Châu, Bắc Quế Lâm, rồi từ đó đi đường đường thủy theo sông Minh Giang về Trấn Nam Quan. Từ Trấn Nam Quan đi đường bộ về Thăng Long, và từ Vị Hoàng đi đường thủy về lại Phú Xuân.

Nhiều bài thơ Nguyễn Du làm năm 1813 đã nhớ lại cảnh này đã đi qua năm 1788-1790 :

Bài Tây Hà Dịch, Trạm Tây Hà có câu : Y nhiên tiểu lý lư. Xóm nhỏ vẫn y nguyên, Nguyễn Du có đến nơi này rồi thì mới có thể viết xóm nhỏ vẫn y nguyên ;

Bài Chu phát . Thuyền ra đi, có câu : Giang đồng khứ nhật thu. Sông vẫn cảnh thu như ngày cũ. Nguyễn Du không nói đến hành trình lúc đi lúc về qua nơi cũ, vì lúc đi lúc về hai mùa khác nhau ; mà nói đến cách năm 1813 hai mươi ba, hai mươi bốn năm, khoảng thời gian 1798- 1790 Nguyễn Du đã đi qua nơi nầy.

Bài Tương giang dạ bạc, Đêm đi thuyền trên sông Tương. Nguyễn Du viết : Biệt phố phai tân sắc, Bến cũ cảnh đã khác. Nguyễn Du có đến nơi này rồi thì mới có thể nói : bến cũ nay đã khác.

Bài Độ Hoài hữu cảm Văn Thừa Tướng. Qua sông Hoài cảm nhớ Thừa Tướng Văn Thiên Trường : Sơn hà phong cảnh thượng y nguyên, Phong cảnh núi sông vẫn y nguyên như cũ.

Bài Hán Dương vãn điểu, có câu : Tưởng tượng đương niên xuy địch dạ, Tưởng tượng lại đêm thổi sáo năm ấy, bài thơ này Nguyễn Du làm năm 1813 nhớ lại đêm thổi sáo năm 1789.

Tôi hồ nghi, các thơ Nguyễn Du tiếp sứ thần nhà Thanh, Tề Bồ Sâm đến Việt năm 1803, 1804 phong vương cho vua Gia Long, tất cả các thơ tiếp sứ đều do Nguyễn Du viết, các thơ thù ấy không tìm thấy. Việc đi sứ năm 1813 sau khi tặng cống phẩm, vua quan nhà Thanh trao tặng lại phẩm vật, thơ cảm tạ, hay thơ xướng họa với các quan trong các yến tiệc, điều này không thể không có, và Nguyễn Du không thể làm khác hơn các sứ thần khác . Điểm chính trong đi sứ là những ngày tháng vào chầu vua Thanh và triều đình, không thấy Nguyễn Du chép ở đâu ? Trách nhiệm đi sứ, phải làm thơ giỏi, nhanh lẹ, thù tiếp ứng đối, để tỏ ra mình là nước có văn hoá, bảo vệ danh dự đất nước, không chịu lép vế một ai. Đứng chầu phải được đứng ngang hàng với sứ thần Triều Tiên, Lưu Cầu Nhật Bản, qua cổng gặp nếu câu đối quan Trung Quốc chơi xỏ gọi mình là man di, nam di không thèm bước qua, lý luận sắc bén buộc họ phải tháo câu đối, nếu không quan lại Trung Quốc sẽ cười khinh khi mình là kém văn hóa. Nếu Chánh sứ không làm việc đó thì làm việc gì ? đi sứ nào phải là việc anh lái buôn hay công nhân đi giao hàng ? Các thơ ngoại giao ấy, Nguyễn Du chép nơi đâu ? Có thể có một tập thơ dành cho việc này đã thất lạc, hay chưa tìm được ?

              Tập thơ Bắc Hành tạp lục, Nguyễn Du không dùng chữ Hoa trình, hay sứ trình, hành trình đi sứ như các tập thơ các danh sĩ khác mà dùng chữ tạp lục. Ghi chép lẫn lộn những bài thơ làm lúc đi du hành ở xứ Bắc. Chữ Tạp lục đủ nói lên việc đi qua các thắng cảnh phía Bắc, nước Trung Hoa nhiều lần. Số lượng 132 bài thơ trong một năm đi sứ, khá nhiều so với các nhà thơ khác. Tôi đặt từng bài vào không gian và thời gian để xác định những bài thơ đó viết khoảng năm 1787-1790 hay 1813-1814.

              Hành trình đi sứ Nguyễn Du tôi dựa vào bản tấu trình của Nguyễn Du lên triều đình, đưa từng bài thơ Nguyễn Du vào hành trình và bổ túc những chi tiết bằng sự mô tả nơi chốn của các sứ thần gần thời với Nguyễn Du : Nguyễn Tông Khuê, Lê Quý Đôn, Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, Đoàn Nguyễn Tuấn, Ngô Thời Vị… Còn lại những bài thơ không phù hợp với các chi tiết, tôi phân tích xác định : những bài thơ Nguyễn Du du hành năm 1787-1790 lúc còn thanh niên.

              Cũng nên nhắc lại điều tôi đã chứng minh trong « Nguyễn Du mười năm gió bụi (1786-1796) », năm 1787, theo Lê Quý Kỷ sự của Sử thần Nguyễn Thu đời Tự Đức : Nguyễn Đăng Tiến,( tức Cai Già trong Lịch Triều Tạp Kỷ của Ngô Cao Lạng, Cai Gia trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Văn gia phái, Nguyễn Đại Lang trong Thanh Hiên thi tập của Nguyễn Du ); tước Quản Vũ Hầu, nguyên là quyền Trấn Thủ Thái Nguyên cùng Nguyễn Quýnh (Sĩ Hữu), Nguyễn Du khởi nghĩa chống Tây Sơn tại Tư Nông thất bại, bị chỉ huy Giáo bắt giải về cho Vũ Văn Nhậm ; Nhậm trân trọng khí khái tha chết cho phép muốn đi đâu thì đi. Vũ Văn Nhậm cười nói : « Ta đi cướp nước người, phá nhà người : đó là lỗi ta. Vậy thì người đánh lại ta, là lẽ chính đáng, chứ người có tội gì.  Chỉ giận vì sức mọn thế yếu, nên mới bị ta bắt được đó thôi. Nay ta thả Tiến ra, nếu Tiến chịu hàng thì đi với ta ; bằng không thì cho tùy ý muốn đi đâu cũng được. Ví bằng lại dấy quân quyết chiến với ta mà ta bắt được lần nữa thì cũng không giết đâu . ‘’ ( Lê Quý Kỷ sự tr 91,92). Được tha, cả ba lên đường đi Vân Nam, theo thơ Nguyễn Du, Thanh Hiên thi tập đến nơi có cảnh tuyết, lá vàng bốn mùa, tiếng tù và (Thu chí), cách Trường An ngàn dậm phía Nam (Sơn Cư Mạn hứng), trưởng giả ăn mặc còn theo nhà Hán, không theo lịch nhà Tần( Sơn Thôn). Sau đó Nguyễn Du muốn thoát vòng trần tục và theo gương Lý Bạch tuổi trẻ đi chu du khắp Trung Quốc.. Hành trình đó tôi đã đi Trung Quốc và nghiên cứu các địa danh bản đồ, xếp đặt từng bài thơ, giải thích từng câu thơ, trong không gian, thời gian : Nguyễn Du đi từ Thái Nguyên sang Vân Nam, bị bệnh ba tháng, sau đó thoát vòng trần tục xuất gia thành nhà sư Chí Hiên. Danh hiệu Nguyễn Du dùng cho đến năm 1796, để lại trong Lưu Hương Ký của Hồ Xuân Hương (Chí danh hiệu Chí Thiện thiền sư chưởng môn phái Thiếu Lâm thời Càn Long, Hiên chữ thường dùng trong gia đình, cha cụ Nguyễn Nghiễm là Nghị Hiên, anh Nguyễn Nể là Quế Hiên, cháu Nguyễn Thiện là Thích Hiên..). Đến Liễu Châu, chia tay Nguyễn Đại Lang về thăm quê cũ ở Việt Đông và hẹn ngày gặp lại tại Trung Châu (Hàng Châu), Nguyễn Sĩ Hữu tức Nguyễn Quýnh chia tay trở về làm chủ Hồng Lĩnh khởi nghĩa. Nguyễn Du mang theo trong hành trang quyển Kinh Kim Cương chú giải của Lê Quý Đôn quyển sách được giới trí thức Bắc Hà yêu chuộng thời bấy giờ, ngày dạo chơi thắng cảnh, đêm trú tại một ngôi chùa trên đường đi, tụng kinh Kim Cương làm công quả, đi nhờ các thuyền buôn Giang Bắc, Giang Nam cái túi không (Mạn hứng). Từ Liễu Châu, Nguyễn Du lại sang Quế Lâm, đi dọc theo sông Tương lên Trường Sa vào Động Đình Hồ đến Hán Khẩu, rồi theo sông Giang Hán đến Trường An. Sau đó từ Trường An lại theo đường sông và kênh Đại Vận Hà đến Hàng Châu. Nguyễn Du đội mũ vàng nhà sư đi muôn dậm : Muôn dậm mũ vàng chiều nắng xế (khoảng gần 5000 km), trong ba năm, đọc Kinh Kim Cương nghìn lượt (bài Phân Kinh Thạch Đài) tại các chùa trên đường đi (1000 : 365 ngày = 3 năm). Tại Hàng Châu, Nguyễn Du ngụ tại chùa Hổ Pháo, nơi Từ Hải tức Minh Sơn Hoà Thượng từng tu hành, đối diện Miếu Nhạc Phi, nơi đây Nguyễn Du chờ đợi Nguyễn Đại Lang (Tương kiến tại Trung Châu, sẽ gặp lại nhau tại Trung Châu, bài Biệt Nguyễn Đại Lang) nên có thì giờ viết 5 bài thơ về Nhạc Phi, Tần Cối và Vương Thị. Miếu Nhạc Phi cách chùa Hổ Pháo một con đê Tư (Su) nối liền hai thắng cảnh Tây Hồ, quanh Tây Hồ là các thanh lâu nơi các nàng Kiều tiếp klhách, thời gian này Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân đã in ấn và nổi tiếng tại Hàng Châu, Nguyễn Du đã đọc và say mê nên quyết chí diễn Nôm tiểu thuyết này. Sau khi gặp Nguyễn Đại Lang tại miếu Nhạc Phi. Họ đi xe song mã lên Bắc Kinh gặp vua Lê Chiêu Thống đang bị vua quan nhà Thanh bạc đãi, họ trở về đến Hoàng Châu thì gặp Đoàn Nguyễn Tuấn trong sứ đoàn Tây Sơn, hai người bàn chuyện văn chương sôi nổi về Hồng nhan đa truân ; Đoàn Nguyễn Tuấn viết hai bài thơ tặng văn nhân họ Nguyễn và cảm hứng một bài thơ Vô Đề tả một ca nhi trong tiệc quan : hồng nhan đa truân.. Nguyễn Du về trước đến Nam Đài, Long Thủy (Long Châu) chờ đợi viết bài thơ Xuân Dạ. Đoàn Nguyễn Tuấn và sứ đoàn đi Nhiệt Hà làm lễ ôm gối nhận làm cha con, giữa vua giả Nguyễn Huệ (Phạm Công Trị) và vua Càn Long và trở về Thăng Long gặp lại Nguyễn Du vào mùa xuân như thơ đã hẹn..

              Nguyễn Du có một cuộc đời giang hồ đúng như Nguyễn Hành, cháu nhà thơ đã viết về chú : Giang hồ, long miếu hai điều đủ ; Thi họa cầm thư bốn nghệ tinh. Giang hồ là đi lang thang trên các sông Giang Bắc, Giang Nam, đi chơi năm hồ lớn Trung Quốc : Động Đình Hồ và các hồ lân cận : Thái Hồ, Xạ Dương Hồ, Thanh Thảo Hồ, Đan Dương Hồ, Cung Đình Hồ.. như Phạm Lãi, Lý Bạch, Đổ Phủ.., một cuộc đời mười năm gió bụi giang hồ đúng nghĩa. Chứ Nguyễn Du không về quê vợ Thái Bình như gia phả viết, vì ở Thái Bình có vợ có con, dạy học, dạy văn, dạy võ không thể gọi là giang hồ, hay đời gió bụi được.

              Một phần thơ trong Bắc Hành tạp lục đã được Nguyễn Du làm trong thời gian này : Các bài thơ làm tại Trường An : Các bài thơ làm tại Hàng Châu . Và nhiều bài thơ khác nằm trên đoạn đường trùng với đường đi sứ từ Quảng Tây đến Hán Dương, Vũ Hán. Những bài thơ tả Nguyễn Du đi trên rừng cao, thôn xóm hẻo lánh, không nằm trên đường cái quan, có trường đình, đoãn đình, có lửa báo hiệu, có phu trạm thay phiên chạy ngựa, vị quan tướng điều khiển tiếp rước suốt cuộc hành trình, thông báo cho các trấn huyện, thời xưa chưa có điện thoại, các phu trạm, áo giáp rầm rập cướp thẻ bài, phi ngựa tung bụi mờ phi báo, chẳng khác nào đi hành quân : Nửa đêm cửa tướng hịch bay ầm ầm (Chinh Phụ Ngâm, bản Đoàn Thị Điểm) nào có phải chuyện êm ả phải chờ đợi  : Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh. (bản Phan Huy Ích ). Khi đi đường các sông hồ nối liền từ Quảng Tây đến Vũ Hán và kênh Đại Vận Hà tấp nập người, thuyền đi lại mua bán, thuyền đoàn sứ cũng được dọn đường đi trước với cờ trống, các thuyền buôn nép lại hai bên. Sứ đoàn 27 người được cờ lộng xe ngựa mang cống phẩm đi qua, các quan địa phương các nơi sứ đoàn đi qua chịu mọi chi phí tốn kém. Có nơi hàng trăm, có nơi hàng ngàn quân sĩ đưa đón bảo vệ an ninh phòng thảo khấu cướp bóc, phu dịch chuyển vận phẩm vật cống sứ trên xe ngựa, trên thuyền, trống đánh om xòm, đường sông hồ có trạm dừng chân trên bến, tiệc tùng linh đình,  « đèn đuốc sáng rực cả trăng sao »(theo Phan Huy Ích trong Dụ Am ngâm lục), ca nhi múa hát, quan lại tiếp rước, đốt pháo. Nguyễn Du không thể nào tả cảnh mình cô đơn, khi đi sứ trên quảng đường này. Phẩm vật cống sứ quan lại địa phương Trung Quốc, mỗi châu quận phải bảo vệ, canh gát cẩn thận, trách nhiệm quan địa phương sơ suất, bị thảo khấu cướp cống phẩm một nước có thể bị mất đầu như chơi, trong cái cảnh Trung Quốc đói khổ kẻ xin ăn đầy đường như Nguyễn Du mô tả, thì cướp bóc, thảo khấu kiểu Hoàng Sào hay Lương Sơn Bạc không thiếu, trách nhiệm nặng nề, quan Chánh Sứ không thể bầu rượu túi thơ đi chơi một mình, như lúc Giang Bắc, Giang Nam cái túi không, 23 năm trước, đội mũ vàng, áo vàng nhà sư Muôn dậm mũ vàng chiều nắng xế ; bao con mắt dòm ngó quan trên trông xuống, người ta dòm vào, lúc nào cũng khoát áo bào quan lớn, ngoài quan tướng địa phương, còn có các vị quan tướng, thông ngôn đi từ Quế Lâm, Quảng Tây đến Bắc Kinh, và từ Bắc Kinh trở về Quảng Tây, điều khiển cuộc hành trình. Nơi nào có ghềnh thác, mưa lũ, phải đi đường khác, đồ cống phẩm như lụa, gấm, cấp.. không thể bị ướt nước, thời xưa chưa có bao ni lông bao bọc, những gấm, lụa, trầm hương, giấy.. đường dài gần cả năm có thể bị móc meo thì hư hết cống phẩm. Gặp mùa nước lũ qua những sông lớn như Hoàng Hà, Trường Giang, không thể chèo chống phải chờ đợi dứt cơn lũ mới qua được. Nơi qua núi đèo, tránh xa những con đường mòn hiểm trở kiểu Huê Dung lộ, một người đứng chận đường muôn người khó qua, thì xem như đem nạp cống phẩm một nước cho thảo khấu. Nơi nào có giặc giả, có lụt lội thì đường đi sứ được sửa đổi tránh xa, hay dừng lại chờ đợi giặc bị dẹp tan mới đi qua. Do đó không thể có chuyện Nguyễn Du đi sứ một mình một ngựa đi trên ghềnh thác,đường mòn :

              Bài Thương Ngô mộ vũ, Mưa chiều Thương Ngô có câu : Trách trách tiểu chu nan quá hạ. Chiếc thuyền nhỏ hẹp khó qua được miền Hoa Hạ. Bài này làm trong thời giang hồ, Nguyễn Du đi nhờ thuyền nhỏ, vì đi sứ Nguyễn Du đi bằng thuyền lớn và cả đoàn thuyền đưa đón linh đình.

              Bài Sơn Đường dạ bạc, Đêm đậu thuyền ở Sơn Dương có câu : Ý Bồng thiên lý vọng, Hợp nhãn cách niên ti : Dựa thuyền trông nghìn dậm, nhắm mắt một năm ròng. Bài này làm lúc đi giang hồ, nhớ lại quê hương xa ngàn dậm, xa quê đã một năm. Nghe tiếng vượn kêu não lòng. Vì khi đi sứ Nguyễn Du đến Sơn Dương chỉ mới hai ba tháng. Đoàn thuyền sứ đến khí thế rộn ràng, thì khỉ vượn cũng bỏ chạy hết.

              Bài Chu hành tức sự, Tức cảnh đi thuyền : Thiên địa biên chu phù tự diệp : Chiếc thuyền con nổi trôi như chiếc lá trong trời đất. Bài này làm lúc đi giang hồ, vì đi sứ thuyền con như chiếc lá làm sao chở được 27 người đi sứ và đồ cống phẩm, chưa kể quan chức Trung Quốc, lính tráng hộ vệ hàng trăm người.

              Bài Thương Ngô trúc chi ca có câu : Tương ước đông gia cụ chu tiếp, Thiên phi các thương cộng phần hương. Hẹn bác xóm Đông thuyền để sẵn, Gác Thiên Phi đến cúng thắp nhang. Nguyễn Du đi sứ thì không thể nào có bác hàng xóm phía Đông, và hẹn cùng bác đi thắp nhang gác Thiên Phi thì bỏ sứ đoàn cho ai ? Do đó bài này làm lúc Nguyễn Du đi giang hồ một mình.

              Bài Vọng Tương Sơn Tự có câu : Cô chu giang thượng bằng lan xứ. Dựa lan can chiếc thuyền cô đơn trên sông. Khi sứ đoàn đi cống thì cả một đoàn thuyền địa phương theo hộ tống, ồn ào náo nhiệt. Cảnh thuyền cô đơn chỉ có khi Nguyễn Du đi giang hồ một mình.

              Bài Đăng Nhạc Dương lâu : Tây phong ỷ cô hạm, Hồng nhạn hữu dư ai. Trước ngọn gió Tây một mình đứng tựa lan can, vẳng tiếng chim hồng chim nhạn bay qua thêm buồn. Chánh sứ mà lên lầu Nhạc Dương chỉ có một mình sao ? Gió Tây trong thơ Nguyễn Du ám chỉ Tây Sơn. Bài thơ này Nguyễn Du làm lúc đi giang hồ thời Tây Sơn.

              Bài Tín Dương tức sự : có câu : Tây phong biến dị hương ; Gió Tây thổi khắp trên đất khách. Bài này Nguyễn Du làm tại Trung Quốc năm 1789, sau cuộc đại bại Tôn Sĩ Nghị tại Thăng Long, những tin tức chiến thắng Tây Sơn Nguyễn Huệ làm rung động cả đất Bắc.

              Năm 1813 Nguyễn Du đi sứ, không có lý do gì các quan « Mãn Đại Nhân »(Mandarin) nhà Thanh lại dẫn Chánh sứ đi thăm lăng miếu, thành trì Quế Vương, người cuối cùng họ Chu, nhà Minh xưng vương và vị quan họ Cù chống lại nhà Thanh, lăng mộ hoang phế suy tàn không hương khói, để Nguyễn Du viết bài Quế Lâm Cù Các Bộ. Do đó bài thơ này Nguyễn Du viết năm 1788, chứ không phải lúc đi sứ .

              Bài Độ hoài hữu cảm Văn Thừa Tướng. Qua sông hoài cảm nhớ Thừa Tướng Văn Thiên Trường. Văn Thiên Trường tượng trưng lòng ái quốc của người Trung Quốc chống ngoại xâm. Trong hoàn cảnh nhà Mãn Thanh chiếm Trung Quốc. Nhắc đến Văn Thiên Trường hay Nhạc Phi, Cù Các Bộ chắc chắn sẽ làm khó chịu các quan nhà Thanh. Nếu bài thơ này các quan nhà Thanh đọc được, thì Chánh Sứ cũng có thể bị giữ lại giam cầm như trường hợp Phó Sứ Lê Quang Bí (1506- ?) nhà Mạc bị giữ lại 18 năm tại Nam Ninh, hay trường hợp Chánh sứ Ngô Thời Vị, năm 1820 -1821, một nhà thơ trung trực mạnh dạn ăn nói, đi sứ về đến Quảng Tây thì mất giữa tuổi 47 ? Cái chết đáng nghi ngờ là bị đầu độc ? Tôi cho rằng các bài thơ này Nguyễn Du viết năm 1788-1790 vì khi đi sứ quan Chánh Sứ phải thận trọng , để khỏi xảy ra những sự cố ngoại giao đáng tiếc..

              Theo điển lệ sách Thính Hiên Vũ Ký việc đi sứ có hai trường hợp chánh yếu :

Tuế cống : Đến kỳ hạn thì nước ta cử người đi sứ cống hiến phẩm vật để thắt chặt tình giao hảo giữa hai quốc gia. Thời hạn từ hai đến 6 năm, nhưng thường là bốn năm.

Thời Gia Long :

Năm 1802 Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức đi sứ.

Năm 1804 Sứ thần nhà Thanh Tề Bồ Sâm sang phong vương vua Gia Long, Nguyễn Du tiếp đón từ Lạng Sơn.

Năm 1807 Vũ Trinh, Ngô Nhân Tĩnh đi sứ.

Năm 1809 Nguyễn Hữu Thận, Ngô Thời Vị đi sứ.

Năm 1813. Nguyễn Du đi sứ.

Năm 1817, Phan Huy Thực đi sứ.

Năm 1820 Ngô Thời Vị thay Nguyễn Du (mất) đi sứ.

Sứ lễ : Nhân lễ lớn nơi triều đình Trung Hoa như Vua lên ngôi, tấn phong Hoàng hậu, vua băng hà, Thái tử cưới vợ.. hoặc vua muốn thông báo một việc trọng đại như lên ngôi, đặt quốc hiệu, đến hiệu, vua băng hà.. Năm 1795 Nguyễn Nể làm Hành Khánh Sứ nhân lễ nhường ngôi vua Càn Long cho con.

              Sứ đoàn Nguyễn Du là lễ cống định kỳ, gồm 27 người. Quan Chánh Sứ Nguyễn Du có 5 thư lại. Hai quan Phó sứ Thiêm Sự Bộ Lại Trần Văn Đại và Thiêm sự Bộ Lễ Nguyễn Văn Phong có 8 thư lại, 3 người làm thông ngôn, 2 người ký lục, 1 y sĩ, 5 lo việc ăn uống và y phục. Nguyễn Tứ có theo cha đi sứ trong dịp này, chỉ là một tiểu đồng khoảng 14,15 tuổi theo hầu.

              Đồ cống phẩm gồm 200 lượng vàng, 1000 lượng bạc, lụa và cấp mỗi thứ 100 cây, hai bộ sừng tê giác, 100 cân ngà voi, 100 cân quế (Trần Trọng Kim Việt Nam Sử Lược quyển II. Bộ Giáo Dục Sàigon, 1971 trang 179). Ngoài ra có những thời kỳ còn có cống tượng người bằng vàng, tổ yến, sừng hươu non, gỗ trầm, kỳ nam, lông chim trĩ, chim công, thú rừng lạ như chim trĩ trắng, ngọc trai, nước giếng Cổ Loa để rửa ngọc trai, dầu con cà cuống, các loại giấy… Năm 1790 thời Quang Trung, Phan Huy Ích làm Chánh Sứ, đặc biệt có hai con voi làm cống phẩm, một ban hát bội Quy Nhơn 10 người, sứ đoàn đông nhất lịch sử 150 người..

              Ta cũng nên xem xét, việc đóng gói bao bì các đồ cống phẩm ngày xưa như thế nào, để có thể đi đường dài muôn dậm hàng năm trời, không bị hư hao, móc meo, đổ bể. Các cống phẩm được đặt trong các rương hòm, nhựa keo kín các lỗ hỡ, đồ được chèn bằng những bao ống dâm bào gỗ, dâm bào hút chất ẩm khỏi móc meo. gói giấy bổi, chèn cứng để không xục xịch lúc vận chuyển. Đồ cống phẩm trên đường đi chỉ mở một lần bày ra ở đài Chiêu Đức, Ải Nam Quan cho quan nhà Thanh xem xét.

              Sứ đoàn khởi hành từ Phú Xuân, tháng hai năm Quí Dậu (1813) đi bằng thuyền đến Thạch Đình sông Hoàng Giang, Vị Hoàng Nam Định. Nơi đây được Tổng Trấn Nguyễn Huỳnh Đức cùng quan Tổng Hiệp Trấn Lê Chất và các quan phủ huyện, tiếp đón từ bến thuyền đưa về dinh Tuyên Phủ ở Thăng Long. Xuân Hương Hồ Phi Mai có gửi thơ mừng (Cảm cựu khiêm trình Cần Chánh Học Sĩ Nguyễn Hầu) và đến đón quan Chánh Sứ Nguyễn Du và viết hai bài thơ Hoàng Giang ngộ hữu hỉ phú (Mừng gặp bạn ở sông Hoàng) và bài Hoài cựu (Nhớ bạn cũ) lưu lại trong Lưu Hương Ký. Dọc đường đoàn sứ đi qua các làng mạc, phủ huyện đều có bày cổng chào, bàn hương án, lính tráng cờ trống đưa đón.

              Tại dinh Tuyên Phủ (khu vực chùa Quán Sứ) nơi đoàn sứ trú chân, một buổi tiệc tiễn hành, có đủ hết các nữ nhạc trong thành Thăng Long, con hát trẻ đến mấy chục người, thay nhau múa hát và có cả cô Cầm người gãy đàn lừng danh, xưa đàn khúc Cung phụng cung vua Lê, thời Tây Sơn được quan tướng thưởng tiền lụa như đất bùn nay là « một người gầy võ, thần sắc khô khan, mặt đen xấu như quỉ, quần áo bằng vải thô bạc phếch, vá nhiều mảnh trắng, ngồi lặng lẽ cuối chiếu, chẳng hề nói cười, hình dang thật khó coi. »(Long Thành cầm giả ca), nàng gảy Nguyễn cầm, tức đàn Nguyệt do Nguyễn Hàm đời Tấn chế ra. Tiếng đàn làm Nguyễn Du xúc động viết bài thơ chữ Hán tuyệt tác. Nguyễn Du còn gặp lại trên đường bạn bè cũ, nay đã thành ông, và nguời hát cũ, người yêu của em Nguyễn Ức, nay đã lấy chồng, ba con và ái ngại thay vẫn mặc chiếc áo hồng ngày xưa ra đón quan Chánh sứ (Ngô gia đệ cựu ca cơ).

              Từ Thăng Long, sứ đoàn đi thuyền qua sông Nhĩ Hà, dừng lại nghỉ đêm ở Gia Lâm. Mỗi lần qua sông phải chuyển đồ cống phẩm hành lý xuống thuyền, lên bờ lại chuyển đồ lên xe ngựa, do đó mỗi lần qua sông là mất nguyên ngày.. Từ Gia Lâm hành trình hàng tháng ròng đi đến Sông Cầu, Thọ Xương, Yên Thịnh, Suối Cát, bãi Triềng, sông Giang Hóa, qua Quỷ Môn Quan đến núi Tử Sơn, Mẫu Sơn rồi vào thành Lạng Sơn chờ đợi quốc thư Trung Quốc hẹn ngày lành tháng tốt qua ải Nam Quan. Đoạn đường này Nguyễn Du đã làm nhiều bài thơ trong Thanh Hiên thi tập khi đi tiếp sứ đoàn Tề Bồ Sâm của Trung Quốc sang phong vương năm 1803-1804. Đồng Lung giang, Đồng Lư thượng đạo kiến Sài Sơn. Lạng Sơn đạo trung, Vọng phu thạch, Quỉ môn đạo trung, Xuân tiêu lữ thứ. Từ biệt bạn cũ họ Hoàng đang trấn thủ Lạng Sơn, Nguyễn Du có bài thơ từ biệt và bài Nam Quan đạo trung. Chiếu của nhà vua từ tầng mây năm sắc (triều đình) ban xuống. Đoàn xe lẻ loi vượt cửa ải nhà Hán, đây chỉ Trấn Nam Quan, trên con đường muôn dậm. Suốt dọc đường cùng với ta chỉ có mái tóc bạc. Cả hai tuần (20 ngày) chỉ thấy một màu núi xanh. Ơn vua như biển chưa mảy may báo đáp. Mưa xuân như mỡ nhưng vẫn thấy trong xương lạnh buốt. Đường cái quan nhà vua đến kinh đô rộng rãi và bằng phẳng, thôi hỏi chi nữa. Theo dòng Minh Giang đến phía bắc là kinh đô. Trường An ở đây chỉ Bắc Kinh chứ không phải Tây An.

TRÊN ĐƯỜNG NAM QUAN

Ngọc thư năm sắc mây truyền lệnh,

Vạn dậm xe qua ải Hán Quan.

Mái tóc bụi đường đà bạc trắng,

Hai tuần chỉ thấy núi non xanh.

Ơn vua như biển chưa đền đáp,

Mưa đến trời xuân thấm lạnh lòng.

Đường sứ thẳng bằng xin chớ hỏi,

Minh Giang ngược bắc tới Tràng An.

Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

NAM QUAN ĐẠO TRUNG

Ngọc thư phủng há ngũ vân đoan,

Vạn lý đan xa độ Hán quan.

Nhất lộ giai lai duy bạch phát,

Nhị tuần sở kiến đãn thanh san.

Quân ân tự hải hào vô báo,

Xuân vũ như cao cốt tự hàn.

Vương đạo đãng bình hưu vấn tấn,

Minh Giang bắc thướng thị Trường An.

6-2 Quí Dậu (1813)         Sứ đoàn đến Ải Nam Quan . Nguyễn Du có bài Trấn Nam Quan. Khó biết chuyện cũ thời Lý Trần, cửa ải như thế nào, nhưng từ ba trăm năm nay kể từ Vua Lê Thái Tổ từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII khoảng 300 năm, hai nước phân chia bằng mặt lũy lẻ loi này. Một cửa ải hùng vĩ trấn giữa lòng muôn vạn núi. Nơi hẻo lánh thường nghe lời đồn sai. Ở gần trời mới biết ơn mưa móc thấm sâu từ trên ban xuống, trời đây chỉ Hoàng đế Trung Quốc. Quay đầu nhìn về cửa khuyết cung vua Triều Nguyễn ở Phú Xuân, bên tai còn nghe vẳng tiếng nhạc quân thiều thời thái bình.

              TRẤN NAM QUAN

Khó biết Lý Trần chuyện thuở xưa,

Ba trăm năm cũ đến bây giờ.

Chia hai nước lũy thành cô quạnh,

Một cửa quan trông vạn núi mờ.

Nghe tiếng đồn sai nơi đất vắng,

Mới biết trời gần thắm móc mưa.

Ngoãnh lại mây xanh trông cửa khuyết.

Bên tai nghe tiếng nhạc cung vua.

Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt :

TRẤN NAM QUAN

Lý Trần cựu sự yểu nan tầm,

Tam bách niên lai trực đáo câm (kim).

Lưỡng quốc bình phân cô lũy diện,

Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm.

Địa thiên mỗi vị truyền văn ngộ,

Thiên cận tài tri giáng trạch thâm.

Đế khuyết hồi đầu bích vân biểu,

Quân thiều nhĩ bạn hữu dư âm.

              Trước đó triều đình ta gửi thông điệp cho Tổng Đốc Quảng Tây thông báo việc gửi sứ bộ triều cống. Bên Trung Quốc, tổ chức hành trình từ Quảng Tây đến Bắc Kinh, chọn ngày lành tháng tốt để đi qua ải. Đến ngày hai quan đại diện văn võ từ Thái Bình Phủ đến mở cửa Ải Nam Quan. Xưa Mã Viện có dựng cột đồng nơi này « Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt ». Người Việt Nam qua đó đều vất đá vào trụ đồng cho khỏi ngã, và đá đã lấp mất trụ đồng.

              Ngô Thời Vị trong dẫn nhập bài thơ Trấn Nam Quan đã tả cảnh năm 1807 như sau : « Cửa ải ở đầu địa giới tỉnh Quảng Tây. Cửa một tầng xây bằng những phiến đá. Hai bên tả hữu có hai ngọn núi đối nhau. Ở trên mỗi ngọn núi đều có cắm một lá cờ trắng đề bốn chữ ‘ Trấn Nam Đại Quan’ (Cửa lớn Trấn Nam). Đằng trước cửa giáp với đài Ngưỡng Đức nước ta, đằng sau cửa có một đồi tức là Đài Chiêu Đức, nơi sứ thần đốt hương bày đồ cống. Cửa ải chỉ mở những ngày Hội đồng giao tế. Khi mở đầu tiên nổ ba phát súng, rồi viên quan coi cửa cầm cờ vàng mở khóa. Trong cửa bọn thơ lại và lính tráng giao gậy vào nhau, ngăn lính kỵ mã theo sau, bắt dừng lại, đợi sứ bộ tiến qua : cuối cùng họ quay lại đóng cửa. »  ( Ngô Văn Gia phái. Hà Sơn Bình, 1980 tr 182). Tất cả lính tráng, phu dịch Việt Nam đều dừng lại ở cửa ải. Từ Nam Quan đến Bắc Kinh việc hộ vệ và chuyển dịch đồ phẩm vật do Trung Quốc phụ trách. Chìa khóa mở cửa to bằng bắp vế và dài một thước tây. Buổi lễ có nhạc lễ cử lên long trọng, cờ phướng treo khắp nơi.

              Sứ bộ theo Tổng Đốc và Đề Đốc nhà Thanh đến Mạc Phủ. Nơi đây sứ bộ được đón tiếp long trọng. Mặc Phủ ở gần Bằng Tường thuộc Nam Ninh(Namning), Quảng Tây Trung Quốc, nhà tiếp đón gồm năm gian nhà rộng. Bằng Tường, xưa là thành Thụ Hàng. Nguyễn Du làm các bài thơ : Mạc Phủ tức sự. Nơi tướng võ làm việc trấn Ải Nam Quan. Suốt đêm tiếng thanh la chẳng tạm dừng. Ngọn đèn cô đơn đối bóng mình cho đến sáng. Qua mấy tuần xa nước, lòng như chết rồi. Dọc đường gặp toàn người lạ mặt. Đường chân núi đầy bùn sâu ngập cả chân ngựa. Yêu quái ẩn nấp lâu đời trong khe suối đã thành tinh. Nguồn cảm xúc của lữ khách nơi đây thật là vô hạn. Lại còn muôn dậm đường đi nữa mới tới được non Yên. (Bắc Kinh)

TỨC CẢNH Ở MẠC PHỦ

Thanh la vang vọng suốt đêm thanh,

Đối bóng đèn khuya đến rạng đông.

Xa nước mấy tuần buồn như chết,

Gặp người một lối chẳng quen mình.

Đường non ngập lún bùn chân ngựa,

Khe suối bụi lùm hóa quái tinh.

Nỗi khách chốn này buồn biết mấy.

Yên sơn muôn dậm lại đăng trình.

Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt

MẠC PHỦ TỨC SỰ

Triệt dạ thanh la bất tạm đình,

Cô đăng tương đối đáo thiên minh.

Kinh tuần khứ quốc tâm như tử,

Nhất lộ phùng nhân diện tẫn sinh.

Sơn lộc tích nê thâm một mã,

Khê tuyền phục quái lão thành tinh.

Khách tình chí thử dĩ vô hạn,

Hựu thị Yên Sơn vạn lý hành.

              Hôm sau sứ bộ qua thành Bằng Tường đến trưa thì đến dinh Quỳ Đạo sau đó đến thôn Huống thì vừa canh Hợi.

8-4 năm Quý Dậu (1813) . Sứ bộ xuống thuyền đi trên sông Ninh Giang, hai quan hộ tống đi mười dậm, có tiếng súng tiếng thanh la đưa đón, Nguyễn Du viết  bài Minh Giang chu phát : Minh Giang là tên con sông phát nguyên từ núi Phân Mao huyện Khâm tỉnh Quảng Đông chia làm hai ngã, một ngã chày theo hướng Băc, một ngã chảy ra hướng Nam đổ ra Vịnh Bắc Bộ. Ngả này là con sông chia ranh giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Sứ bộ đi qua sông này lên phía Bắc Trung Quốc. Bắt đầu ra cửa sông, tiếng tiêu, tiếng trống ầm ĩ. Con thuyền lướt nhanh giữa lòng muôn rặng núi. Mây nổi chợt tan dáng núi gầy đi ; Lụt mới đổ về nước sông đục ngầu. Sau khi chia tay trên bước đường quan san nhớ đến em trai em gái. Nhìn giữa đá núi như trông thấy đàn con cháu. Mặt trời đã xế chớ vượt qua núi Hoa Sơn ( thuộc Quảng Tây). Sợ nghe tiếng vượn kêu buồn đứt ruột.

ĐI THUYỀN TRÊN SÔNG MINH GIANG

Kèn trống vang vang tiễn cửa sông,

Một thuyền lướt nhẹ giữa ngàn non.

Mây tan núi hiện chơ vơ đá,

Lụt mới sông dâng cuốn cuộn giòng

Vời ngóng quê, em trai với gái,

Đá lô nhô, ngỡ cháu cùng con.

Xế chiều đừng vượt Hoa Sơn nữa,

Sợ tiếng vượn kêu tê tái lòng.

Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

MINH GIANG CHU PHÁT

Tiêu cổ đông đông sơ xuất môn,

Vạn sơn trung đoạn nhất xà bôn.

Phù vân sạ tán thạch dung sấu,

Tân lạo sơ sinh giang thủy hồn.

Biệt hậu quan sơn tư đệ muội,

Vọng trung nham tụ kiến nhi tôn.

Nhật tà mạc hướng Hoa Sơn quá,

Phạ hữu thanh thanh trường đoạn viên.

                            Trên thuyền Nguyễn Du còn viết các bài : Hoàng Sào binh mã, Minh Ninh giang chu hành, Vọng Quan Âm miếu, Tam Khẩu đường dạ bạc. Đến phủ Thái Bình, có tiệc tiếp rước và hành lễ, tiệc quan nghỉ lại đêm, nơi đây Nguyễn Du viết bài Thái Bình thành hạ văn suy địch và Thái Bình mại ca giả. Hôm sau đi thuyền đến thành Tây Ninh và đến thành Nam Ninh nghỉ vài ngày. Sau đó đến trạm Vĩnh Thuần, tiếp rước trên bến : Tiếng ca dậy đất, đèn lầu giải sao (Nguyễn Tông Khuê). Đoàn thuyền qua than Long Mẫu, có nhiều đá ngầm nguy hiểm, dừng chân trạm Hoành Châu, mua sắm các sản vật để sứ đoàn dùng. Sau đó đoàn thuyền vượt ba mươi dậm núi Ngũ Hiểm có các cửa Hổ Cứ, Long Môn, Quái Xá, Chuyển Thổ, Lập Bích. Nơi đây có Miếu Phục Ba thờ Mã Viện. Đến thôn Bạch Mã dừng chân , nơi đây là đất nhiều tay văn chương kiệt hiệt : nơi quê hương của Trạng Nguyên Lường Tung thời Ngũ Đại, quan Thượng Thư Tống Kỷ đời Tống có bài Ngọc Lậu xuân từ nổi tiếng.. Nơi đây là núi Ngũ Lĩnh, năm ngọn núi cao ranh giới phía Nam Trung Quốc. Hôm sau đoàn thuyền đi qua Huyện Đằng dừng chân ở trạm Trường Châu.

2-5 Quý Dậu (1813) đến thành phủ Ngô Châu ( Vũ Châu) Nơi đây ngã ba nhánh sông, sứ đoàn đi ngược giòng Quế Giang : Đất tiên bến ngọc sông vàng, Người hoa cỏ báu phong quang có thừa (Nguyễn Tông Khuê) Trung Quốc có câu : Quế Lâm cảnh đẹp nhất trần gian. Nơi đây dọc theo sông Lý (Lijiang) , hai bên bờ là núi đá vôi, cảnh vật như Bích Động, Hoa Lư nước ta. Nơi đây xuất phát các tranh thủy mặc Trung Quốc. Tôi có đến thăm vùng này trong bốn ngày, nơi đây có dân tộc Choáng,(ta gọi người Nùng hay người Nông) dân thiểu số đông nhất Trung Quốc 15 triệu còn giữ tiếng nói, tiếng Việt cổ thời Việt Vương Câu Tiễn, Triệu Đà, cảnh sắc, phong tục hoàn toàn giống miền Bắc nước ta cũng trồng lúa nước, người nông dân với chiếc cày, nón lá bằng tre, và lũy tre làng, câu đối đỏ hai bên cửa nhà, khắp nơi. Các hình ảnh chim lạc, trống đồng được khắc các khách sạn làm biểu tượng cho vùng.. Đất Quế Lâm có ngàn ngọn núi đá vôi. Ngọc Duẩn và Dao Sâm là những ngọn đẹp nhất thiên hạ. Tùy theo hình dạng núi được đặt tên, có ngọn giống như Quan Âm bế đồng tử, có ngọn vách núi như một bức tranh vẽ bầy ngựa chạy.. Đi thuyền suốt buổi trên sông Lý Giang hai bên đều là cảnh núi đẹp. Ngư dân trên sông nuôi loài ngỗng đen (comoran) để bắt cá. Nơi đây còn có thành cũ của Việt Vương Câu Tiễn. Độc Tú Sơn có tháp khắc chữ Kình Thiên (Cột chống trời). Núi Phục Ba có đá thử kiếm, có động rỗng chứa được nhiều giường. Trong động còn có động Lưu Tiên, đời Tống có họ Lưu tu tiên đắc đạo ở đấy. Nơi xưa có Gia Cát Lượng từng đăng sơn để chỉ huy quân lính. Có ngòi Linh Cừ tục truyền do Mã Viện đào.

5-7 Quý Dậu : đến Quế Lâm (Guilin), thủ phủ Quảng Tây, Nguyễn Du viết các bài thơ : Quế Lâm công quán.

              Nguyễn Du đã từng đến Quế Lâm năm 1788, thăm thành cũ Nguyễn Du nhớ ông Cù Thức Trĩ mà viết bài Quế Lâm Cù Các Bộ. Ông làm Đông Các Đại Học Sĩ. Các Bộ là danh hiệu gọi tắt chức tước của ông. Đỗ Tiến sĩ đời Minh Vạn Lịch. Đời Sùng Trinh giữ chức Tuần Phủ Quảng Tây. ? Sau khi nhà Thanh gốc từ Mãn Châu phía Bắc chiếm hết vùng Trung Nguyên. Quế Vương cháu Minh Thần Tông xưng đế ở Triệu Khánh (thuộc Quảng Đông) phong Thức Trĩ là Đại Học Sĩ. Sau Quế Vương thất bại chạy lên Vân Nam. Thức Trĩ cố giữ thành Quế Lâm. Thành bị hãm, ông tuẫn tiết. Nhà Thanh chiếm được Trung Quốc bắt dân phải thắt tóc tết đuôi sam, theo kiểu nhà Thanh. Thức Trĩ trọn lòng trung để tóc dài, chứ không chịu cạo đầu để chút tóc thắt đuôi sam. Đại thế Trung Nguyên đã sụp đổ rồi. Ông vẫn dốc sức giữ toà thành trơ trọi để khống chế một phương. Suốt ngày trước cái chết lòng không nao núng. Nghìn thu nằm dưới đất tóc vẫn dài. Tông miếu xã tắc nhà Minh suy tàn, đầy cỏ thu. Non sông đất Toàn Việt (Mân Việt :Triết Giang, Phúc Kiến) và Lưỡng Việt (Quảng Đông, Quảng Tây) đều nhuộm bóng chiều. Ai cũng bảo nước Trung Hoa trọng tiết nghĩa. Sao ở đây hương khói lại lạnh lẽo thế này ? Nguyễn Du quên mình đang ở thời nhà Thanh, mà Cù Thức Trĩ là người nhà Minh chống lại nhà Thanh. Bài này Nguyễn Du viết năm 1788 khi đi thăm Quế Lâm một mình, nhà thơ mang tâm sự trước cục diện nhà Trịnh nhà Lê hoàn toàn sụp đổ, sau khi khởi nghĩa Thái Nguyên bị thất bại. Tôi đã đến Quế Lâm thăm Lăng mộ, thành cũ nhà Quế Vương được tô vẽ, chăm sóc, ngày nay mở cho du khách. Nhưng thời nhà Thanh đây là mộ những kẻ chống lại triều đình, nên không ai dám thăm viếng nên lạnh khói hương, tiêu điều. Thời Nguyễn Du, năm 1813, không có lý do gì các quan nhà Thanh lại dẫn sứ bộ Việt Nam mới đến Trung Quốc thăm di tích giặc tàn nhà Minh chống lại triều đại mình.

ÔNG CÁC Bộ HỌ CÙ Ở QUẾ LÂM

Trung nguyên thế lớn đã tan tành,

Kiệt sức thành cô giữ một phương.

Kề chết suốt ngày không núng thế,

Dưới mồ ngàn thuở tóc còn nguyên.

Nhà Minh xã tắc thu xanh cỏ.

Đất Việt non sông bóng tịch dương.

Trung Hoa vốn trọng người nhân nghĩa,

Sau ở nơi đây lạnh khói hương.

Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt

QUẾ LÂM CÙ CÁC Bộ

Trung Nguyên đại thế dĩ đồi đường,

Kiệt lực cô thành không nhất phương.

Chung nhật tử trung tâm bất động,

Thiên thu địa hạ phát do trường.

Tàn Minh miếu xã thu đa thảo,

Toàn Việt sơn hà tận tịch dương.

Cộng đạo Trung Hoa thượng tiết nghĩa;

Như hà hương hỏa thái thê lương ?

Bài Quế Lâm Công Quán. Nguyễn Du viết năm 1813, rõ ràng vì đi sứ mới được ở công quán. Quế Lâm là xứ rất nhiều muỗi, năm 2009 khi chúng tôi vừa bước ra phi trường chưa kịp lên xe ca, là cả bầy muỗi đến tấn công, mặc dù đề phòng trước xức thuốc chống muỗi, đúng như Nguyễn Du tả: Màn thưa muỗi réo quanh.

TRONG CÔNG QUÁN Ở QUẾ LÂM

Cỏ dại đầy đóm đóm,

Thềm vắng đêm mát thanh.

Đèn lạnh bóng ma quái

Màn thưa muỗi vo quanh.

Nỗi buồn xuân chẳng đến,

Lần lửa tuổi già nhanh.

Tiếng ốc bên thành vẳng,

Tàn canh nói một mình.

Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt

QUẾ LÂM CÔNG QUÁN

Hoang thảo nhạ lưu huỳnh,

Nhàn giai dạ khí thanh.

Hàn đăng lưu quỉ ảnh,

Hư hướng tụ văn thanh,

Lao lạc xuân vô phận,

Sa đà lão tự kinh.

Thành đầu văn họa giác,

Tự ngữ đáo thiên minh.

18-7 . Từ Toàn Châu đến Trường Sa, tỉnh lỵ Hồ Nam. Toàn Châu cách Quế Lâm 125 km, nay là Toàn Huyện ở phía Bắc tỉnh Quảng Tây về phía thượng lưu sông Tương. Có Ngũ Lĩnh năm ngọn núi lớn có năm đèo vượt qua dải núi dài phía Nam Trường Giang mà xuống miền Nam Trung Quốc. Danh nhân Toàn Châu có hai anh em họ Tưởng : Tưởng Thăng và Tưởng Miêu đều làm quan to. Nơi đây có chùa Tương Sơn. Trần Huyền Trang đời Đường, người sang Ấn Độ thỉnh kinh cuối đời tu và thành lập cảnh chùa này, khi mất được xưng tụng là Phật Vô Lượng. Châu thân được thành tượng táng, một đêm châu thân bị lửa bốc cháy hết. Ngôi chùa xây dựng trải đã nghìn năm, có bảng sơn son ghi Đệ Nhất Thiền Lâm. Năm 1789 Nguyễn Du có đến trú ngụ tại nơi đây trên đường giang hồ. Bài thơ Vọng Tương Sơn Tự có câu : Cô chu lan thượng bằng lan xứ (Đứng dựa lan can chiếc thuyền cô đơn trên sông). Khi đi sứ Nguyễn Du không đi trên một chiếc thuyền cô đơn, có thể đứng dựa lan can mà làm thơ ; mà đi với một đoàn thuyền cờ trống, đám rước, quan quân, lính hộ vệ hàng trăm người, huyên náo om xòm.

Đến Vĩnh Châu. Có ba dòng sông Tương : Tiêu Tương, Chung Tương và Nguyên Tương. Sông Tương nguồn ở huyện Hưng An Tỉnh Quảng Tây, chảy về phía bắc đến huyện Linh Lăng, tỉnh Hồ Nam có sông Tiêu chảy vào, nên gọi là sông Tiêu Tương. Chảy về đông bắc hợp với sông Chung ở huyện Hành Dương thành sông Chung Tương, lại chảy về Bắc, khúc hạ lưu hợp với sông Nguyên mà thành sông Nguyên Tương. Cả ba gọi là Tam Tương . Vĩnh Châu có nhà cũ của Liễu Tử Hậu tức Liễu Tông Nguyên (773-819) người Hà Đông (nay thuộc huyện Vĩnh Tế Sơn Tây) Tác phẩm Liễu Hà Đông tập gồm 45 quyển. Ông từng làm Thứ sử Liễu Châu, nên còn gọi là Liễu Liễu Châu, tự Tử Hậu, đỗ Tiến Sĩ năm 21 tuổi. Làm quan chủ trương cải cách triều chính, cải thiện đời sống dân chúng, hạn chế đặc quyền hoạn quan, đại quí tộc, chống tham ô đang cầm quyền. Nên làm quan bị đày nơi xa, ông chết tại Liễu Châu. Ông là một đại gia trong phong trào vận động cổ văn đời Đường, nổi tiếng về tản văn và thơ phê phán xã hội sâu sắc và nghệ thuật tinh tế điêu luyện. Bài văn kể chuyện người đàn bà bắt rắn, nhiều người trong gia đình bị rắn cắn chết, nhưng vẫn tiếp tục bắt rắn, vì sợ sống với quan lại tham nhũng còn hơn cả hơn rắn độc.

              Nguyễn Du qua đây viết bài Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch ; Mây nổi trên núi Hành, sóng gợn trên sông Tiêu . Nhà cũ của Liễu Châu có phải nơi này không ? Một tấm thân bị ruồng đuổi ra sáu nghìn dậm xa. Văn chương để lại nghìn đời thuộc tám văn hào lớn. Như người thợ ngón tay bầm máu, mặt đẩm mồ hôi, khổ đã tột bực vậy. Khe nước trong, hàng cây đẹp cũng mang tiếng ngu lây biết làm sao được. Thuở trẻ ta cũng có tài ví như cây gỗ tốt. Nay đầu bạc chỉ luống tự than vãn trước gió thu.

NHÀ CŨ LIỄU TỬ HẬU Ở VĨNH CHÂU

Núi Hành mây nổi sóng sông Tiêu,

Có phải nhà xưa của Liễu Châu.

Ruồng rẩy một thân đày vạn dặm,

Tiếng tăm ngàn thuở tám văn hào.

Máu bầm, mặt đẫm trong cùng khổ,

Cây đẹp, khe trong tiếng dại đầu.

Ta trẻ tưởng tài như gỗ quý,

Bạc đầu than vãn gió thu sầu.

Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

VĨNH CHÂU LIỄU TỬ HẬU CỐ TRẠCH

Hành Lĩnh phù vân, Tiêu thủy ba,

Liễu Châu cố trạch thử phi da ?

Nhất thân xích trục lục thiên lý,

Thiên cổ văn chương bát đại gia.

Huyết chỉ hãn nhan thành khổ hỹ,

Thanh khê gia mộc nại ngu hà.

Tráng niên ngã diệc vi tài dã,

Bạch phát thu phong không tự ta.

              Trường Sa(Changsha): Thủ phủ tỉnh Hà Nam ở hạ lưu sông Tương Giang. Thời Tam Quốc là một chiến trường ác liệt. Năm 1165 Triết gia Chu Hi giảng dạy ở đây. Giả Nghị từng làm chức Thái Phó nơi này. Mao Trạch Đông cũng bắt đầu sự nghiệp nơi này. Nơi đây có sông Mịch La nơi thi hào Khuất Nguyên tự vẫn tại Long Chủy có nơi thờ ông. Nơi đây Nguyễn Du viết Tương Giang dạ bạc. Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu. Phản Chiêu hồn, Biện Giả. Trường Sa Giả Thái Phó. Sơ thu cảm hứng, Sở Vọng.

              Đêm đậu thuyền trên sông Tương, nhớ cảnh cũ năm 1788 Nguyễn Du đã đi qua, ông viết: Đi một mạch hơn sáu mươi dậm đường, sông nước dài dằng dặc. Sông Tương dài 856km bắt nguồn từ Lâm Quý, Quảng Tây, đến Tương Âm phân làm hai dòng chảy vào Hồ Động Đình. Các đoàn sứ Việt Nam đều đi con đường này. Đường thủy đi tiện lợi, hơn đường bộ, thời xưa chưa có cầu, phải qua đò ngang mỗi khi qua sông, mỗi lần qua chuyển vận đồ cống phẩm lên xuống vất vả. Mây nổi che liền năm ngọn núi lớn miền Nam Trung Quốc. Trăng sáng nơi ba con sông Tương hợp lại. Nơi phố cũ cảnh đã đổi thay, sau 23 năm trở lại. Vời trông phía trời xa đâu cố hương. Hạc đến từ lầu Hoàng Hạc người không thấy, chỉ thấy cây tùng, bách chiều cuối thu vẫn xanh ngắt một màu.

ĐÊM ĐẬU THUYỀN TRÊN SÔNG TƯƠNG

Một mạch sáu mươi dậm,

Trôi trôi sông mênh mông.

Mây nổi che Ngũ Lĩnh,

Trăng sáng hợp Tam Tương.

Bến biệt cảnh đổi mới,

Vời trông xa cố hương.

Hạc đến người không thấy,

Cuối thu cứ xanh rờn.

Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

TƯƠNG GIANG DẠ BẠC

Nhất khứ lục thập lý,

Du du giang thủy trường.

Phù vân liên Ngũ Lĩnh,

Minh nguyệt hội Tam Tương.

Biệt phố phân tân sắc,

Dao không thất cố hương.

Hạc lai nhân bất kiến,

Vãn thu uất thương thương.

              Đến khúc hạ lưu sông Tương, hợp với sông Nguyên thành sông Nguyên Tương. Nguyễn Du viết bài Tương Đàm điếu Tam Lư Đại Phu, tức Khuất Nguyên. Người ham muốn tu dưỡng đức tốt đã ra đi hơn hai ngàn năm. Đất này còn nghe thoang thoảng mùi hương của hoa lan hoa chỉ. Bị đuổi xa tổ quốc ba năm khôn xiết đau buồn. Muôn đời Sở Từ vẫn là áng văn chương tuyệt tác. Trên sông đầy cá rồng (giao long), năm xương tàn không còn nữa. Bên bãi sông chòm đỗ nhược có thêm những giống hoa thơm. Nhìn hết tầm mắt chẳng biết dầu tích vết cũ nơi nào. Chỉ thấy gió thu thổi lá rụng qua sông Nguyên Tương.

              Hồn oan của người nước Sở chôn vùi ở chốn này đây. Vời trông khói sóng mênh mông chẳng biết đâu bờ bến. Ví hiến lệnh được ban hành trong thiên hạ, thì làm gì có được Ly Tao nối tiếp Kinh thi, Quốc Phong. Ly Tao là tác phẩm tiêu biểu của Khuất Nguyên, Ban Cố giải thích : Ly là gặp phải, tao là lo âu. Ly Tao mở đầu cho loại Sở từ. Nghìn xưa có ai thương một người tỉnh táo. Bốn phương có chốn nào gửi được tấm lòng cô trung ? Gần đây có người thích mặc trang phục lạ. Cũng đeo hoa lan làm dáng nhưng chẳng giống ông chút nào. Trong Ly Tao, Khuất Nguyên nói mình ăn mặc lạ : đeo gươm dài, đội mũ cao khoát vòng hoa lan thơm, ý nói mình trung thực khác người.

ĐẾN TƯƠNG ĐÀM VIẾNG TAM LƯ ĐẠI PHU

BÀI I

Hai nghìn năm khuất bậc hiền nhân,

Thoang thoảng nơi này hương chỉ, lan.

Tổ quốc ba năm buồn bị đuổi,

Sở Từ vạn thuở tiếng văn chương.

Cá rồng sông đó xương tàn mất,

Đỗ nhược bên bờ cỏ vẫn thơm.

Hút mắt lòng đau nhà chẳng thấy,

Gió thu lá rụng vượt Nguyên Tương.

BÀI     II

Nước Sở hồn oan táng giữa dòng,

Mắt mòn trông khói sóng mênh mông.

Ví ban được lệnh trong thiên hạ,

Nào có Ly Tao nối Quốc Phong.

Nghìn thuở ai thương người một tỉnh,

Bốn phương ai gửi nỗi lòng trong.

Đời nay trang phục ham điều lạ.

Đeo một cành lan chẳng giống cùng.

Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

TƯƠNG ĐÀM ĐIẾU TAM LƯ ĐẠI PHU

BÀI I

Hiếu tu nhân khứ nhị thiên tải,

Thử địa do văn lan chỉ hương.

Tông quốc tam niên bi phóng trục,

Sở Từ vạn cổ thiện văn chương.

Ngư long giang thượng vô tàn cốt,

Đỗ nhược châu biên hữu chúng phương.

Cực mục thương tâm hà xứ thị,

Thu phong lạc mộc quá Nguyên Tương.

BÀI     II

Sở quốc oan hồn táng thử trung,

Yên ba nhất vọng diểu hà cùng.

Trực giao hiến lệnh hành thiên hạ,

Hà hữu Ly Tao kế Quốc Phong ?

Thiên cổ thùy nhân liên độc tỉnh,

Tứ phương hà xứ thác cô trung ?

Cận thời mỗi hiếu vi kỳ phục,

Sở bội tiêu lan cánh bất đồng.

              Bài Phản Chiêu Hồn, Biện Giả, Trường Sa Giả Thái Phó mang cái nhiệt huyết chiến đấu Nguyễn Du thời trai trẻ, tôi cho rằng các bài này Nguyễn Du viết năm 1789 :

Bài Phản Chiêu Hồn: Yên, Dĩnh thành trung lai hà vi ? Thành quách do thị, nhân dân phi. Còn trở về thành Yên thành sinh mà làm gì ? Thành quách vẫn như cũ, song nhân dân đã khác rồi. Ta nghe như lòng Nguyễn Du đang đi giang hồ nước ngoài, chưa muốn về lại Thăng Long.

Bài Biện Giả có câu: Cổ kim an đắc đồng tâm nhân.. Liệt nữ tòng lai bất nhị phu. Đồng tâm xưa nay được mấy ai ? Liệt nữ không ai lấy hai chồng. Nguyễn Du không muốn làm quan cho nhà Tây Sơn ?

Bài Trường Sa Giả Thái phó có câu Thiên giáng kỳ tài vô dụng xứ. Trời ban có tài lạ mà không có chỗ dùng. Tôi cho rằng Nguyễn Du viết các bài này thời trai trẻ chưa có người dùng mình. Khi được vua Gia Long biết tài dùng tài cử đi làm Chánh Sứ ? Nguyễn Du đã mãn nguyện tất không có nỗi lòng u uất này.

              Ngày 27-7 năm Quý Dậu (1813) đến địa phận Gia Ngư tỉnh Hà Bắc. Nơi đây có sông Dịch Thủy phát nguyên từ Dịch Huyện, chảy về Đông Huyện, An Định. Qua sông nhớ nơi này Thái Tử Đan đưa tiễn Kinh Kha đi thích khách Tần Thủy Hoàng, Cao Tiệm Ly thổi sáo, Kinh Kha hát hai câu thơ: Phong tiêu tiêu hề Dịch Thủy hàn. Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn. Gió vi vu chừ sông Dịch lạnh hề, Tráng sĩ ra đi chừ không trở về. Kinh Kha là đề tài nhiều bộ phim Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kong, phim Héros có chiếu tại Pháp gần đây diễn tả khá hay về nhân vật Kinh Kha.

              Nơi đây quê hương Kinh Kha Nguyễn Du viết bài Kinh Kha cố lý. Kinh Kha là một tay kiếm khách người nước Vệ. Làng cũ của kinh Kha ở đấy Yên, gần với Yên Kinh, Bắc Kinh ngày nay. Thái tử Đan con của Yên Vương Hỉ, bị đưa sang nước Tần làm con tin, giận Tần Vương Doanh Chính(sau này là Tần Thủy Hoàng) là bạn chơi thuở nhỏ, nay lên ngôi vua đối xử không tốt với mình, bèn trốn về nước. Đến khi Tần thực hiện chính sách bành trướng đem quân đánh Tề , Sở, Triệu, Ngụy, Hàn sắp sửa đánh đến Yên. Thái tử Đan lo sợ bèn tìm người dũng cảm sang Tần, uy hiếp Tần Vương Chính bắt phải bỏ ý đồ đánh Yên hoặc đâm chết. Điền Quang giới thiệu Kinh Kha giúp thái tử Đan làm việc đó, và tự đâm mình để kích lệ Kinh Kha. Thái tử Đan tiễn Kinh Kha ra đi. Vũ Dương theo phò tá. Phàn Ô Kỳ tướng có lỗi nhà Tần trốn sang Yên tự đâm mình chết để Kinh Kha nộp vua Tần và làm việc thích khách. Kinh Kha đến đến và dâng bản địa đồ nước Yên quy hàng. Kinh Kha cầm chủy thủ (đoản kiếm) dấu trong bản đồ chỉa vào người, vua Tần sợ hải đứng dậy chạy quanh cột, các quan hoảng hốt chỉ lấy tay không mà đánh Kinh Kha, vì phép nước khi vào chầu vua không được quyền cầm binh khí. Tần Vũ Dương là một tay dũng sĩ nước Yên, gặp vua Tần lộ vẻ hồi hộp run sợ, nên Kinh Kha phải gấp ra tay nên hỏng việc.

              Móng nắng xuyên ngang mặt trời, bầu trời mênh mang. Gió thổi hắt hiu bước sông Dịch lạnh. Tiếng ca khẳng khái, tiếng thép rít. Vào ải Tần cầm dao nhọn, Thù sâu cả sáu nước gửi cả vào một tay. Khắp trên cung điện đột nhiên rung động, Quan tả hữu dùng tay không bắt lại, vua chạy vòng quanh cột. Dưới thềm Vũ Dương đứng đờ ra như người chết rồi, thần dũng hiên ngang chỉ có một mình ông. Dẫu chẳng giết được Hoàng đế nhà Tần, tính lại xưa nay cũng không có người sánh kịp. Lạ thay vốn dấu kỹ hành tung giữa chợ, không từng có duyên nợ từ kiếp trước với Yên Đan. Liều thân chỉ vì được người biết đến mình. Luống được Điền Quang nhẹ nhàng đâm cổ chết. Khá thương Phàn Ô Kỳ chẳng có tội tình gì. Đem đầu cho mượn không hẹn kỳ trả lại ! Một sớm ba liệt sĩ chết oan, mà ngôi thiên tử ở Hàm Dương cuối cùng vẫn cao ngất ngưỡng. Đất Yên nhìn khắp toàn đất bụi, nắng thu gió thu đầy trên đường cái quan, Trong chợ không còn nghe thấy tiếng ca nữa. Sông Dịch từ ngàn xưa đến nay vần chảy hoài, Nơi làng cũ của Kinh Kha cây chỉ, cây gai mọc ngang dọc. Chỉ có chiếc bia tàn chưa bị đỗ. Chớ bảo rằng mũi dao nhọn kia chẳng ích gì, nó mở đầu việc chặt cây làm dáo, làm cán cờ khởi nghĩa ( thời Hán Cao Tổ).

LÀNG CŨ KINH KHA

Cầu vòng ngang trời chừ mênh mang,

Sông Dịch điều hiu gió lạnh tràn.

Tiếng ca cảm khái kiếm thép réo,

Kinh Kha từ đó vào Tần Quan.

Vào ải Tần chừ mang dao nhọn,

Sáu nước thù sâu một tay nặng.

Trên điện thốt nhiên bỗng kinh hoàng,

Tả hữu tay không vua chạy quẩn,

Dưới thềm Vũ Dương đứng chết trân.

Thần dũng hiên ngang một mình ông,

Dẫu chẳng giết được Tần Hoàng Đế,

Tính lại xưa nay ai sánh bằng,

Lạ thay hành tung dấu giữa chợ,

Kiếp trước Yên Đan có duyên nợ,

Liều thân chỉ vì kẻ biết mình,

Huống được Điền Quang tự đâm cổ,

Khá thương Phàn Kỳ chẳng tội chi,

Đem đầu cho mượn chẳng hoàn gì.

Một sớm chết oan ba liệt sĩ,

Hàm Dương thiên tử vẫn uy nghi.

Đất Yên nhìn lại toàn tro bụi,

Nắng thu gió thu đường rong ruỗi,

Trong chợ chẳng còn nghe tiếng ca,

Ngàn năm vẫn xuôi dòng Dịch Thủy.

Làng cũ cỏ gai mọc dọc ngang,

Chỉ còn chưa đổ chiếc bia tàn,

Bảo rằng dao nhọn chẳng có ích.

Mở buổi chặt cây cờ vùng lên.

Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt

KINH KHA CỐ LÝ

Bạch hồng quán nhật thiên man man,

Phong tiêu tiêu hề Dịch Thủy hàn.

Ca thanh khẳng khái kim thanh liệt,

Kinh Kha tòng thử nhập Tần quan

Nhập Tần quan hề, trì chủy thủ,

Lục quốc thâm cừu nhất dẫn thủ.

Điện thượng thốt nhiên nhất chấn kinh,

Tả hữu thủ bác vương hoàn trụ.

Giai hạ Vũ Dương như tử nhân,

Thaen dũng nghị nhiên duy độc quân.

Túng nhiên bất sát Tần hoàng đế,

Dã toán cổ kim vô tỉ luân.

Quái để hành tung nguyên thị ẩn,

Tằng dữ Yên Đan vô túc phận.

Sát thân chỉ vị thụ nhân tri,

Đồ đắc Điền Quang khinh nhất vẫn.

Khả liên vô cô Phàn Ô Kỳ,

Dĩ dầu tá nhân vô hoàn thì.

Nhất triêu uổng sát tam liệt sĩ.

Hàm Dương thiên tử chung nguy nguy.

Yên giao nhất vọng giai trần thổ,

Thu nhật thu phong mãn quan lộ.

Thị thượng ca thanh bất phục văn.

Dịch thủy ba lưu tư kim cổ,

Cố lý chỉ cức tung phục hoành.

Chỉ hữu tàn bi do vị khuynh.

Mặc đạo chủy thủ cánh vô tế,

Yết cam trảm mộc vị tiên thanh.

Trên đoạn đường này Nguyễn Du còn viết các bài thơ: Dự Nhượng Kiều chủy thủ hành, Dự Nhượng Kiều? Đế Nghiêu miếu, Kỳ Lân mộ..

9-8 từ Hán Khẩu ra đi. Từ đường này đến Bắc Kinh, Nguyễn Du đi đường bộ, một đoàn xe ngựa chở cống vật và sứ đoàn.

22-8 ra khỏi địa phận An Dương tỉnh Hà Nam.

Nguyễn Du viết bài Hà Nam đạo trung khốc thủ. Nắng dữ trên đường Hà Nam Tiết thu tháng 8 ở Hà Nam, Khí nóng tàn vẫn chưa tan hết. Đường ra ngoài chỗ có gió mát. Người đi trong nắng gắt của mặt trời. Trên đường dài ngựa mệt hí vang. Mỏi mắt trông vắng mất bóng chim hồng. Anh chàng đẩy xe kia quê đâu nhỉ ? Nhìn nhau thấy vất vả như nhau.

NẮNG DỮ TRÊN ĐƯỜNG HÀ NAM

Hà Nam thu tháng tám,

Khí nóng vẫn chưa tan.

Đường ra ngoài gió mát,

Người đi nắng chói chan.

Đường dài ngựa mệt hí,

Mỏi mắt bóng chim hồng.

Phu xe quê đâu nhỉ ?

Nhìn nhau cùng cảm thông.

Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt.

HÀ NAM ĐẠO TRUNG KHỐC THỬ

Hà Nam thu bát nguyệt

Tàn thử vị tiêu dung.

Lộ xuất lương phong ngoại,

Nhân hành liệt nhật trung.

Đồ trường tê quyện mã,

Mục đoạn diệt qui hồng.

Hà xứ thôi xa hán ?

Tương khan lục lục đồng .

Ra khỏi tỉnh Hà Nam, phía Đông huyện Hứa Xương là Hứa Đô. Năm Kiến An nguyên niên (196) Tào Tháo dời đô nhà Hán từ Lạc Dương đến đó gọi là Hứa Đô. Nguyễn Du qua đây viết bài Cựu Hứa Đô. Thành Hứa Châu, nơi vua Hán đóng đô. Họ Tào cướp cơ đồ nhà Hán chốn này. Nền đài nhận ngôi vua không còn thấy nữa. Chỉ thấy đêm đêm mưa gió réo gào. Từ cổ được nước đều lấy chính nghĩa. Sao lại lừa vợ góa con côi người ta ?(Vợ của Linh đế và Hiến Đế). Trước sau đều đi theo một con đường ấy.(Tào Phi ép Hiến Đế nhường ngôi năm 220.) Ngụy mất, Tấn nối đổi thay triều đại. Từ ấy đến nay đã mấy ngàn năm rồi ? Trong khoảng thời gian ấy biết bao kẻ dấy lên rồi sụp đổ. Mà toà thành cao ngất vẫn chưa từng thay đổ. Ngoài thành núi vẫn xanh như thời xưa. Lũ gian hùng cướp ngôi có kẻ nào còn đâu ? Tôn miếu nhà Hán đã không còn dấu vết. Vườn lăng nhà Ngụy cũng đổ nát tan tành. Một miếng đất rộng ở trong thành. Giữa trưa người đến họp chợ chen nhau mua bán.. Duy có việc năm thứ hai mươi lăm đời Kiến An. Thành bia miệng để đời không bao giờ mất. Khiến ta từ xa đến suy nghĩ hoài. Lưu thơm và để thối xưa nay đều có cả. Tòa thành cao ngất nổi tiếng đứng giữa đường cái. Bọn gian hùng đến đây ắt phải thấy lạnh trong lòng.

THÀNH HỨA ĐÔ CŨ

Thành Hứa Châu kinh đô nhà Hán,

Họ Tào tranh ngôi Hán ở đây.

Nền đài nơi nhận trao ngôi,

Thấy đêm đêm gió mưa bay réo gào.

Từ cổ được nước bằng chính nghĩa,

Sao lại lừa vợ góa con côi.

Trước sau đều một đường thôi,

Ngụy soán ngôi Hán, Tấn ngôi ngụy nhường.

Ngụy mất Tấn đổi thay triều đại,

Từ đến nay đã trải ngàn năm.

Dấy lên sụp đổ bao lần,

Tòa thành cao ngất vẫn còn trơ trơ.

Ở ngoài thành núi xanh xanh mãi,

Lũ gian hùng ngôi cũ có còn ?

Miếu đường nhà Hán nát tan,

Vườn lăng nhà Ngụy cũng hoang phế rồi.

Một miếng đất trong nơi thành rộng,

Còn chợ trưa người đến họp chen,

Năm hai lăm đời Kiến An,

Thành bia miệng tiếng để vang muôn đời.

Ta từ xa đến hoài suy nghĩ,

Lưu hương thơm tiếng thối xưa nay,

Tòa thành cao ngất còn đây,

Gian hùng qua đó sởn gai lạnh mình.

Ra khỏi Hứa Đô đến Hàm Đan.

21-9 Đến trạm Từ Châu tỉnh Trực Lệ sau đó đi qua Bảo Định để lên Bắc Kinh.

4-10 tức ngày 27 tháng 10 năm 1813. Đến Bắc Kinh lễ dâng tờ biểu và nghỉ lại ở công quán.

5-10 tới tập lễ ở toà Hồng Lô Tự.

6-10 vào cửa Càn Thành theo triều ban làm lễ, rồi lại tới lầu Duyệt thị dự yến và đội ơn vua nhà Thanh ban cho các vật kiện.

7-10, các quan Nội phủ tới công quán xem xét và thu nhận các phẩm vật tiến cống.

13-10 tới lầu Vĩnh An chờ xe vua Thanh đi qua để làm lễ thỉnh an, và xin về nước.

18-10 tới toà Ngọ Môn để nhận các vật thưởng theo thể lệ và các đạo sắc thư, tư văn.

19-10 tới công đường bộ Lễ dự yến.

22-10 lại nhận được công văn thay đổi đường đi : Trực Lệ, Sơn Đông, An Huy, Hồ Bắc và về Quảng Tây.

24-10 Từ Bắc Kinh khởi hành về nước.

2-11 về đến châu thành Cảnh Châu, thuộc tỉnh Trực Lệ sau đó qua Đức Châu, tỉnh Sơn Đông rồi đi qua An Huy mà xuống Hồ Bắc.

Đi ngang qua Sơn Đông, Nguyễn Du viết bài Đông A sơn lộ hành: Đường Đông A đi ra từ giữa lòng núi ngổn ngang. Một con đường tắt nhỏ chạy qua muôn gốc tùng sam. Sương móc ở khe bốc lên thích hợp cho báo ẩn nấp. Mây ở khe suối lười bay theo rồng. Gò đống một nơi còn ghi dấu triều đại trước. Nhà nhà trồng dâu trồng mía theo lề lối ngày xưa. Cười cho ta bạc đầu còn bận rộn mãi chưa xong. Giữa trời rét buốt còn lặn lội trên đường Sơn Đông.

ĐI ĐƯỜNG NÚI HUYệN ĐÔNG A

Đông A đường giữa núi chập chùng,

Đường nhỏ chạy quanh muôn gốc tùng.

Sương khói suối lên che bóng báo,

Mây mù khe tụ chẳng theo rồng.

Đống gò lưu dấu triều vua trước.

Dâu mía theo xưa nhà vẫn trồng.

Cười phận bạc đầu còn bận mãi,

Giữa trời rét buốt lội Sơn Đông.

Nhất Uyên dịch thơ

Nguyên tác phiên âm Hán Việt:

ĐÔNG A SƠN Lộ HÀNH

Đông A lộ xuất loạn sơn trung,

Vạn thụ tùng sam nhất kính thông.

Gản vụ tự sinh nghi ẩn báo,

Khê vân vô sự lãn tòng long.

Khâu lăng xứ xứ lưu tiền đại,

Tang chá gia gia cận cổ phong.

Tiếu ngã bạch đầu mang bất liễu,

Nghiêm hàn nhất lộ quá Sơn Đông.

Chú thích:

Ẩn báo: con báo ẩn nấp. Theo Liệt nữ truyện, vợ Đào Đáp Tử bảo chồng: Thiếp nghe nói trên núi Nam Sơn có con báo đen, trời sương mù bảy ngày mà nó không xuống kiếm ăn là nó muốn giữ gìn bộ lông đẹp của nó. Ý muốn bảo chồng nên đi ở ẩn.

11-12 đến Võ Xương tỉnh Hồ Bắc

25-12 từ huyện Gia Ngư, tỉnh Hồ Bắc đi đến huyện Lâm Tương tỉnh Hồ Nam.

30-1 Giáp Tuất Đến huyện Kỳ Dương tỉnh Hà Nam.

12’2 Đến Toàn Châu tỉnh Quảng Tây.

4-2 nhuần Đến Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây.

29-3 Về qua Nam Quan tức ngày 18 tháng 5 năm 1814.

Tổng số thời gian Nguyễn Du ở Trung Quốc là 12 tháng rưỡi.

              Thơ chữ Hán Nguyễn Du là những trang nhật ký, ghi chép tùy hứng. Nguyễn Du không ghi chép toàn bộ hành trình. So với bản tấu trình và Bắc Hành Tạp Lục còn có nhiều khoảng trống, Nguyễn Du không ghi chép. Khác với Lê Quý Đôn trước cung điện Bắc Kinh, ông đọc sách vở nhà Minh tìm hiểu về Nguyễn An, người Việt Nam tù binh, làm thái giám cho vua Minh Thành Tổ trở thành kiến trúc sư điều khiển xây dựng cung điện Bắc Kinh, một người thanh liêm, quà tặng nhà vua không giữ riêng mà lại nộp vào công khố. Nguyễn Tông Khuê, Nguyễn Huy Oánh làm thơ kể lại toàn bộ hành trình qua từng nơi và các nhân vật văn hóa lịch sử mỗi địa danh. Nguyễn Huy Oánh còn kể những chi tiết buổi sáng thức dậy tại Bắc Kinh mùa đông hay tay rét buốt, phải lấy tro than đổ vào chiếc bình mang bên hai cổ tay cho đỡ lạnh.

              Bắc Hành Tạp lục của Nguyễn Du không phải chỉ là thơ đi sứ, mà toàn bộ những bài thơ đi về phía Bắc thời còn thanh niên đi giang hồ 1787-1790 và thời đi sứ năm 1813. Mỗi bài thơ Nguyễn Du là một tác phẩm hoàn hảo, thi ca Nguyễn Du đa dạng, phong phú. Người đọc thơ Nguyễn Du nếu muốn đi tìm Nguyễn Du cô đơn, trích dẫn năm bảy câu thơ năm bảy bài khác nhau, rồi kết luận Nguyễn Du là nhà thơ cô đơn. Người muốn chứng minh Nguyễn Du ảnh hưởng Đỗ Phủ nói về cảnh cùng khổ của dân chúng: con côi, mẹ goá, kẻ hành khuất.. Người trung quân ái quốc có thể tìm thấy Nguyễn Du qua hình ảnh Văn Thiên Trường, Nhạc Phi, Cù Các Bộ.. Người hồng nhan đa truân có thể tìm thấy Nguyễn Du qua Cô Cầm, qua nàng Kiều, qua Người hát cũ của em, Điếu La thành ca giả.. Nguyễn Du là ai ? Với những cách chứng minh trích dẫn câu này ghép câu kia, tôi e rằng chúng ta chỉ là người mù sờ voi, tùy theo chủ quan có sẳn người nghiên cứu đi tìm một Nguyễn Du theo hướng của mình. Tôi không cho điều đó là sai, mà là chính cái vĩ đại của tài năng Nguyễn Du : Nguyễn Du là một thi hào vĩ đại, mỗi người có thể tìm thấy một Nguyễn Du riêng cho mình. Tùy theo hoàn cảnh, thời gian mỗi người có thể bói ra một câu thơ hợp với tâm trạng mình.

Paris 23-4-2015

PHẠM TRỌNG CHÁNH

Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V.