"Ta muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém cá tràng-kình ở Biển Đông, quét sạch bờ-cõi để cứu dân ra khỏi nơi đắm-đuối chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu, cong lưng làm tỳ-thiếp cho người ta"

** Triệu Thị Trinh **

 

Chuyện Vua Quang Trung Yêu Làn Quan Họ Bắc Ninh

https://www.youtube.com/watch?v=g5zuHWvFWQs

           

            Sau khi tiêu diệt hai mươi vạn quân Thanh vào ngày mồng năm tháng Giêng năm Kỷ Dậu 1789, vua Quang Trung lo đến việc ổn định xứ Bắc Hà. Nhà vua hỏi quần thần:

-  Trẫm biết lòng người Bắc Hà còn đang oán hận và mang mặc cảm vì bị người Nam Hà cai trị, nay muốn xóa bỏ ý nghĩ phân biệt Bắc, Nam để có được sự thống nhất và đoàn kết thì phải làm thế nào?

Phan Huy Ích tâu:

-  Muôn tâu. Để xóa bỏ hận thù thì không gì bằng tình thương. Đức sáng của bậc đế vương chính là tình thương dành cho muôn dân vậy. Theo lẽ tự nhiên, trên ngó xuống thì tự động dưới sẽ trông lên. Hoàng thượng là người đức độ, mang hoài bảo lớn cho dân tộc, điều này bá tánh thiên hạ ai cũng nhìn thấy. Nay chỉ cần Hoàng thượng dùng đức để trị, thấu hiểu lòng người Bắc Hà, thương họ như con, vì hạnh phúc của họ mà lo lắng, được như vậy thì dẫu là người ngoại tộc cũng sẽ sống thuận hòa nói gì đến anh em Việt tộc Bắc, Nam.

-  Làm sao để thấu hiểu lòng người Bắc Hà?

Trần Văn Kỷ lên tiếng đáp thay:

-  Lúc trước thần có nghe Hoàng thúc Tôn Thất Dục chỉ nhờ vào một buổi nói chuyện với Thiền sư Vô Danh mà chế ra được chiếc đàn Độc Huyền cầm đặc trưng cho dân Việt ta...

Nguyễn Huệ tỏ vẻ ngạc nhiên ngắt lời:

-  Việc sáng chế cây đàn Độc Huyền có quan hệ gì đến câu hỏi của ta? Cuộc nói chuyện thế nào?

Trần Văn Kỷ đáp:

-  Muôn tâu. Thiền sư nói rằng "âm thanh là tiếng lòng, là biểu tượng văn hóa của một dân tộc". Vì vậy muốn hiểu được lòng một dân tộc, một xứ sở không gì bằng tìm hiểu về âm nhạc truyền thống dân gian của xứ sở đó.

-  Vậy âm nhạc truyền thống của dân gian Bắc Hà là gì?

Phan Huy Ích vốn là người giỏi về âm nhạc nên tâu:

-  Bắc Hà có kinh đô Thăng Long hàng ngàn năm nên có nền âm nhạc cung đình, liệt vào âm nhạc thượng lưu, nhưng nền âm nhạc này có pha trộn với nhạc cổ Trung Hoa và nhạc cung đình Chiêm quốc chứ không thuần Việt. Trung lưu thì có hát ả đào, hát nói, hát chèo dành cho kẻ sĩ trung lưu và người giàu có. Còn dân gian thì có làn điệu Quan họ, mang âm hưởng dân gian từ ngàn xưa, thuở dân Bách Việt chúng ta còn ở tận bên bờ sông Dương Tử, theo bước chân nam tiến hội tụ về vùng Kinh Bắc và lưu truyền đến bây giờ.

Nguyễn Huệ thích thú nói:

-  Thời còn nhỏ trẫm đã từng theo gánh hát bội ở Quy Nhơn lưu diễn khắp nơi vì vậy rất thích những lối hát mang tính dân gian. Trẫm muốn nghe qua làn điệu Quan họ Kinh Bắc.

            Thông thường những bậc vua chúa ít khi muốn nhắc đến thuở hàn vi lao nhọc của mình, nay quần thần nghe nhà vua nhắc đến qúa khứ lưu linh của mình một cách hết sức thản nhiên khiến ai nấy đều hết sức khâm phục. Phan Huy Ích không dấu được sự cảm phục nên dập đầu thành tâm nói:

-  Hoàng thượng là bậc nhân quân xưa nay hiếm có. Hạ thần khâm phục tận đáy lòng. Nếu Hoàng thượng muốn chứng kiến lễ hội truyền thống của dân gian miền Kinh Bắc thì ngày mai chính là ngày hội lớn ở đó, chỉ hiềm phải nhọc lòng Hoàng thượng phải xa gía rời cung mà thôi.

Nguyễn Huệ nói:

-  Ta từng nghe Bắc Cung hoàng hậu nói về những lễ hội truyền thống của dân gian vùng Kinh Bắc cùng những di tích văn hóa cổ xưa của dân Âu Lạc ở đó. Ta muốn ghé thăm để lễ tạ tổ tiên.

Huy Ích mừng rỡ nói:

-  Nếu Hoàng thượng chiụ xa giá rời cung thì còn gì hay bằng. Thần sẽ cho người thông tri để quan trấn thủ ở đó chuẩn bị tiếp gía.

Nguyễn Huệ xua tay:

-  Không cần. Trẫm sẽ cùng các khanh cải dạng như dân thường để dự hội. Hãy để dân chúng dự hội một cách tự nhiên, như vậy mới nhìn rõ được sinh hoạt bình thường của họ.

-  Hoàng thượng anh minh!

Trần Văn Kỷ tâu:

-  Theo ý thần, đất Kinh Bắc vốn là nơi phát tích nền Phật giáo Luy Lâu của nước ta, nhơn dịp rằm tháng Giêng, Hoàng thượng nên ngự giá đến chùa Dâu, tổ chức một lễ cầu siêu lớn để những vong hồn tử sĩ trong cuộc chiến vừa qua được siêu thoát, cũng là một cách giải bớt sát nghiệp cho quân đội Tây Sơn.

            Ngô Thời Nhậm biết trong ý của Trần Văn Kỷ muốn giải bớt sát nghiệp cho đức vua nên phụ họa:

-  Thần cũng có ý định tâu xin Hoàng thượng việc này.

Nguyễn Huệ phán:

-  Vậy trẫm lệnh cho những ngôi chùa lớn trong thiên hạ lập đàn chay cầu siêu cho tử sĩ trong dịp rằm tháng Giêng này. 

-  Chúng thần tuân chỉ.

*

            Họ Hồng Bàng, thủy tổ dân Âu Lạc với mười tám đời vua Hùng Vương trị vì nước Văn Lang suốt hai ngàn năm. Thời Hùng Vương, nước Văn Lang chia ra mười lăm bộ, trong đó có bộ Vũ Ninh chính là vùng Kinh Bắc, là trung tâm kinh tế, thương mại và là cái nôi của nền văn hóa cổ của người Âu Lạc. Đến đời vua An Dương Vương, sau khi thống nhất các bộ lạc Bách Việt đã xây thành Cổ Loa ở Phong Khê, đất Kinh Bắc trở thành kinh đô của Âu Lạc với nhiều di tích cổ còn lưu lại đến bấy giờ như đền Thánh Gióng, mộ vị thủy tổ Kinh Dương Vương, đền thờ Bố Lạc Long Quân và Mẹ Âu Cơ, theo truyền thuyết là người đã sinh ra trăm trứng nở trăm con, từ đó sinh sôi nẩy nở thành họ Hồng Bàng, dựng nên nước Âu Lạc. Cũng vì được sinh ra trong cùng một bọc trứng, người Âu Lạc xem nhau như anh em ruột thịt và gọi nhau bằng hai tiếng đồng bào.

            Quan Trấn thủ Kinh Bắc là Nguyễn Cảnh Thước nhận được mật báo nên đã âm thầm chuẩn bị mọi thứ để bảo vệ phái đoàn của nhà vua về thăm lễ hội. Nguyễn Huệ và đoàn tùy tùng gồm Phạm Cần Chánh, Tín Nhi, Phan Huy Ích và một số vệ sĩ, hôm nay vận áo dài the, đội khăn đóng y như hàng vạn dân làng khắp nơi về dự hội bên đồi Lim ở Tiên Du. Nhìn các thiếu nữ đi dự hội mặc áo tứ thân với yếm đào và dây thắt lưng đủ màu sắc, Nguyễn Huệ thích thú nói với Phan Huy Ích đi cạnh:

-  Trang phục của những người đi dự hội thật đẹp mắt, nhất là chiếc áo nhiều lớp với thắt lưng nhiều màu sắc và chiếc khăn đội đầu của các thiếu nữ.

Phan Huy Ích giải thích:

-  Đó là chiếc áo tứ thân, mớ ba với ba lớp áo, hoặc mớ bảy với bảy lớp áo, kết hợp bởi nhiều màu sắc. Đây là chiếc áo lễ hội truyền thống vùng Quan họ. Chiếc khăn đội đầu của các cô gọi là khăn mỏ qụa, chiếc nón trên tay họ có tên là nón quai thao.

Tín Nhi nói:

-  Trông cách ăn mặc và lối chào hỏi của những nam nữ đi dự hội vừa cung kính vừa thân thiện, thật là thú vị. Tôi không thấy có sự cách biệt nam nữ ở đây.

Huy Ích giải thích:

-  Trong nền văn hóa cổ của dân Bách Việt, mối quan hệ giữa nam và nữ rất bình đẳng, khác hẳn với quan niệm trọng nam khinh nữ theo kiểu Hán nhân. Lát nữa chúng ta sẽ nghe trong những câu hát Quan họ đối đáp giao duyên, họ gọi nhau bằng anh Hai, chị Ba.. một cách rất tôn trọng nhưng không kém phần tình tứ và âu yếm.

Nguyễn Huệ hỏi:

-  Sao lại gọi Kinh Bắc là vùng Quan họ?

-  Tương truyền mấy ngàn năm trước, vùng Kinh Bắc là nơi giao lưu văn hóa và kinh tế của dân Bách Việt với người Hán, người Ấn Độ, người Miến Điện nhờ vào con sông Tiêu Tương, khởi nguồn từ Tây Tạng chảy qua Trung Hoa về ngang Kinh Bắc này để ra biển Đông. Vật đổi sao dời, ngày nay dòng sông Tiêu Tương cũng như sông Dâu không còn nữa nhưng điệu hát Quan họ của những người dân Âu Lạc cổ xưa sống hai bên bờ sông vẫn còn lưu truyền cho đến nay. Do đó mà làn điệu Quan họ mang đậm nét tâm linh đặc thù thù của nền minh triết Việt cổ xưa.

-  Lúc trước ta có nghe ở Tửu Quán Bên Đường bên cạnh Hoàng Đế thành một bài ca về chàng Trương Chi, họ cho rằng làn điệu Quan họ mang âm hưởng của những khúc hát và tiếng sáo Trương Chi có đúng vậy chăng?

Phan Huy Ích thích thú giải thích:

Thật ra thì chàng Trương Chi thời đó cũng giống như một "liền anh" bậc nhất của làn Quan họ hôm nay vì giọng ca rất tuyệt vời của chàng ta. Sở dĩ người thời nay coi Trương Chi là thủy tổ làn Quan họ chỉ vì những câu hát dân gian thời đó đã trở nên bay bổng và được yêu thích khắp nơi nhờ vào giọng ca và tiếng sáo tuyệt vời của ông ta, thêm đó là tình cảm của người dân Quan họ dành cho chàng trai đa tài mà xấu số kia. Có thể nói sau Trương Chi, những làn điệu dân ca của người Âu Lạc đã phong phú và lan truyền rộng rãi hơn trong dân chúng. Người Kinh Bắc có lẽ nhờ vào thổ nhưỡng nên làn hơi của họ đã làm tăng thêm vẻ đẹp, vẻ tình tứ mượt mà và sâu lắng của câu ca. Vì thế mà Kinh Bắc trở thành cái nôi của làn Quan họ.

Tín Nhi hỏi:

-  Liền anh, liền chị là gì?

-  Những người hát Quan họ nam thì gọi là liền anh, nữ gọi là liền chị. 

            Vừa giải thích, Phan Huy Ích vừa hướng dẫn mọi người thăm qua khắp các trò chơi của lễ hội. Nguyễn Huệ khen:

-  Lễ hội ở đây thật tưng bừng và đầy đủ các trò chơi cho bà con. Hay lắm! Nên cổ vũ và giúp đỡ các địa phương tiếp tục lưu giữ và phát triển các truyền thống văn hóa dân gian qúy báu này.

Phan Huy Ích nói:

-  Trước kia hội đồi Lim không quy mô như bây giờ. Cho đến khoảng ba mươi năm trước, quan trấn thủ Thanh Hoa là Nguyễn Đình Diễn gốc người làng Đình Cả, tổng Nội Duệ, Kinh Bắc, đã dùng bổng lộc và của cải của mình cấp cho địa phương này để mở rộng và phát triển nội dung hội hè cũng như tu sửa đình làng, lăng miếu. Từ đó mà hội đồi Lim ngày một đông đảo và phong phú về cả hình thức và nội dung. 

            Lúc ấy đoàn người đến một lán Quan họ, Huy Ích ra dấu dừng lại để nghe các "bọn nam" và "bọn nữ" hát Quan họ giao duyên đối đáp nhau. Trang phục mộc mạc nhưng rất độc đáo đã làm các cô gái có nét đẹp lạ kỳ, thêm vào làn điệu Quan họ mượt mà, tình tứ khiến Nguyễn Huệ đứng nghe đến xuất thần. Đến khi bài hát chấm dứt ông mới sực tỉnh và nức nở khen:

-  Thật duyên dáng các chàng trai và các cô gái kia và cũng thật là hay và tình tứ làm sao cái làn điệu Quan họ. Nó có nét gì đó thật thân thiết và gần gũi với ta, mặc dầu ta chỉ mới nghe lần đầu.

Phan Huy Ích giải thích:

-  Cảm nhận của Ngài (lúc này họ tránh dùng từ Hoàng thượng) thật nhạy bén và chính xác. Âm hưởng của Quan họ mang đậm nét tâm linh đặc thù của dân Việt cổ, cho nên những ai mang dòng máu Việt đều có trong tiềm thức, trong tâm linh mình không ít thì nhiều âm hưởng đó. Người mang nặng tình dân tộc, nói đúng hơn là người có nhiều dân tộc tính sẽ có sự đồng cảm mau chóng và sâu đậm hơn với giai điệu Quan họ, dù là người xứ Bắc hay đã lưu lạc từ lâu vào tận trong Nam xa xôi.

Nguyễn Huệ mỉm cười đùa:

-  Hay tổ tiên ta gốc người Kinh Bắc.

Cả đoàn cười vui vẻ. Nguyễn Huệ tiếp:

-  Ta muốn tặng Bắc Cung hoàng hậu một bộ trang phục Quan họ này.

Nguyễn Cảnh Thước đi phía sau lên tiếng:

-  Thưa Ngài, việc đó tôi xin được đảm trách.

            Họ tiếp tục đi xem các thuyền rồng trên sông và nghe những câu hát Quan họ đối đáp giao duyên giữa nam và nữ đến lúc trăng lên cao mới ra về.

            Đêm đó nhà vua về ngự tại thành Kinh Bắc. Hôm sau Trấn thủ Nguyễn Cảnh Thước tiền hô hậu ủng hộ tống nhà vua về xứ Thuận Thành để tế mộ Kinh Dương Vương. Ngôi mộ được xây bên bờ sông Đuống, nơi có cuộc đất hội đủ tứ linh long lân quy phụng của phong thủy. Sau khi làm lễ bái các vị tổ của dân tộc, vua Quang Trung bảo:

-  Các khanh hãy nói rõ cho ta nghe về vị thủy tổ này.

Phan Huy Ích kể:

-  Theo huyền sử Việt, Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh, đóng quân tại đó rồi lấy con gái bà Vụ Tiên, sinh được một người con trai tư chất thông minh đặt tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế Nghi, làm vua phương Bắc, phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam chính là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Qủy, chọn đất Kinh Bắc này làm kinh đô, truyền mười tám đời Hùng Vương, mãi đến khi Thục Phán An Dương Vương đánh thắng Âu Lạc mới dời kinh đô về đất Cổ Loa, xây thành, chống lại Triệu Đà ở Nam Quận. Nhưng đến thời Bắc thuộc, nhà Hán lại trở về Kinh Bắc dựng thành Luy Lâu để đặt bộ máy cai trị. Thời ấy, địa bàn nước Xích Qủy của vua Kinh Dương Vương rất rộng lớn, phía Bắc là miền đồng bằng thuộc lưu vực sông Dương Tử giáp Động Đình Hồ, phía Nam giáp nước Lâm Ấp, Tây giáp đất Ba Thục, Đông giáp biển Đông. Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm. Sau này Sùng Lãm kế vị, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai (Đế Lai là con của Đế Nghi), tên là Âu Cơ. Âu Cơ được sinh ra bên bờ Âu Giang, nơi có hàng ngàn chim Âu sinh sống, vì vậy Đế Lai lấy tên chim Âu đặt cho con gái. Cũng có lẽ vì thế mà có truyền thuyết Mẹ Âu Cơ sinh ra trăm trứng nở trăm con trai tạo thành giống Bách Việt của chúng ta với nhiều bộ tộc nhỏ. Theo truyền thuyết thì vua Hùng đầu tiên chính là cháu nội của Kinh Dương Vương.

Nhà vua nghe kể đến đây, hỏi ngay:

-  Vậy biên giới nước ta xưa kia lên đến tận sông Dương Tử?

-  Dạ, đúng thế, tâu Hoàng thượng. Cho đến đời Triệu Đà, sau khi chiến thắng vua An Dương Vương đã sáp nhập tất cả các bộ tộc Bách Việt lại với nhau lập nên nước Nam Việt và tự xưng Nam Việt Vũ Vương, đóng đô ở Phiên Ngung tức Quảng Châu ngày nay, đứng ngang hàng với nhà Hán. Cương thổ nước Nam Việt thời bấy giờ phía bắc giáp núi Nam Lĩnh, gồm cả biên giới phía bắc của Quảng Đông và Quảng Tây, đông đến Mân Việt, Phúc Kiến, phía tây giáp Dạ Lang, Vân Nam và phía nam đến Hoành Sơn của Lâm Ấp. Sau nhà Triệu bị nhà Hán tiêu diệt, dân ta phải chịu ách một ngàn năm Bắc thuộc, vùng Lưỡng Quảng của chúng ta đã bị người Hán chiếm lấy.

Ánh mắt vua Quang Trung chợt lóe lên một tia sáng, ông hỏi: 

-  Từ sau Triệu Vũ Vương đã có ai dám đánh lại nước Trung Hoa và sánh ngang hàng với họ chưa?

Huy Ích tâu:

-  Đời Lý có Lý Thường Kiệt đánh Tống, đời Trần có Trần Hưng Đạo đánh quân Nguyên rồi đến Lê Thái Tổ đánh giặc Minh...

Nhà vua ngắt lời:

-  Nhưng đã có ai dám đánh sang để chiếm đất của Tàu chưa?

-  Muôn tâu, việc này thì chưa có ai làm.

Đôi mắt vua Quang Trung lại lóe lên tia sáng cương quyết, ông hăng hái nói:

-  Chưa có ai làm vậy để trẫm làm cho mà coi. Chúng ta phải đòi lại đất hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây về cho nước Việt.

Phạm Cần Chánh đứng bên cạnh hừng chí lên tiếng:

-  Hoàng thượng đã được Bắc Cung hoàng hậu tặng danh hiệu "Cổ kim bách thắng Long Nhương tướng", việc đánh sang Tàu đòi đất Lưỡng Quảng tất phải thắng lợi. Thần xin lãnh ấn tiên phuông để đánh cho chúng chích luân bất phản, phiến giáp bất hoàn như vừa rồi để từ nay bọn người Hán hết còn dám khinh thị chúng ta là Man di nữa.

            Dường như vị thủy tổ Kinh Dương Vương chợt hiện về với con cháu khiến mọi người chợt thấy tinh thần phấn chấn, hào khí bồng bột dâng cao nên đồng thanh nói:

-  Hoàng thượng ra quân, chúng thần dẫu chết cũng sẽ một tiến không lùi.

Vua Quang Trung thấy các quan hăng hái như vậy trong lòng rất đẹp. Ông nói:

-  Nếu toàn dân Việt đoàn kết lại, việc đánh thắng bọn Tàu có khó gì. Các khanh hãy xem, dân Mãn Thanh không đông bằng dân Việt, vậy mà chúng đô hộ người Hán hơn trăm năm nay rồi. Hãy dẹp bỏ lòng tự ti, thống nhất ý chí thành một khối thì giặc nào ta cũng thắng được cả. Huống chi triều đình Mãn Thanh hiện nay đang còn phải nơm nớp lo sợ người Hán, người Hồi, người Mông Cổ.. nổi lên đánh đổ. Ta đem một khối thống nhất đi đánh một liên minh rệu rã thì cái thế tất thắng đã rõ ràng rồi.

Bá quan đồng thanh:

-  Chúng thần sẽ tạc dạ những lời vàng ngọc này.

Phan Huy Ích nhìn các đồng liêu phân tích thêm:

-  Đúng như lời Hoàng thượng vừa nói, đối với người Hán, chúng ta không có gì để tự ti cả như Phạm Thiết Sóc nghĩ. Suốt dòng lịch sử Trung Quốc, số phận người Hán cũng long đong, nhục nhã vì bị các dân tộc phương bắc ức hiếp, đô hộ không biết bao nhiêu lần.

Phạm Cần Chánh thích thú giục:

-  Ngài thị lang kể hết ra cho chúng tôi nghe đi.

Huy Ích vui vẻ tiếp:

-  Trong các triều đại Trung Quốc, dù Tần Thủy Hoàng đã cho xây Vạn Lý Trường Thành để che chắn mặt bắc, nhưng triều đại nào của họ cũng bị các Rợ phương bắc quấy nhiễu và buộc phải nộp cống. Nhà Hán thì có người Hung Nô, tức Rợ Hồ. Các vua Hồ, còn gọi là Thiền Vu, qúa mạnh, đến độ các vua Hán ngoài việc triều cống rất nhiều vàng bạc, châu báu, còn phải đem cả vợ yêu của mình nộp cho họ. Đó là trường hợp của Hán Nguyên Đế (vào năm 31 trước Công nguyên), đã đem Vương Chiêu Quân, một trong Tứ đại mỹ nhân Trung Quốc, sang cống cho Thiền Vu Hồ Hán Tà, tạo nên một thiên tình sử đắng cay cho người Trung Quốc. Đến đời Tây Tấn (năm 265 - 317), người Hán lại bị rợ Ngũ Hồ gồm Hung Nô, Yết, Mông Cổ, Mãn Châu và Tây Tạng đồng loạt vượt Trường thành xâm chiếm lưu vực sông Hoàng Hà và phần lớn Trung Nguyên. Thiền Vu Hung Nô là Lưu Uyên mạnh nhất trong Ngũ Hồ nên chiếm gần như toàn bộ Trung Quốc chỉ còn phần đất miền nam sông Dương Tử. Lưu Uyên bỏ quốc hiệu Hán, lập nên triều đại mới là nhà Triệu, thiết lập nền cai trị khắc nghiệt đối với người Hán. Giai đoạn đó Trung Quốc bị chia cắt thành năm nước nhỏ chiến tranh liên miên, cuối cùng còn lại hai nước, đó là thời Nam Bắc Triều.

Vua Quang Trung nói:

-  Đó cũng là giai đoạn chúng đang đô hộ nước ta sau khi thắng nhà Triệu.

-  Tâu vâng. Thời đó, phần đất Đông Ngô của Trung Quốc không bị rợ Hung Nô xâm chiếm nên họ vẫn đủ mạnh để giữ vững nền đô hộ nước ta.

-  Kể tiếp đi.

[1]

Huy Ích tiếp:

-  Sau khi Lý Thế Dân thống nhất Nam Bắc Triều lập nên nhà Đường, nước Trung Hoa vẫn bị Rợ Hồ quấy nhiễu, các vua Đường phải tiến cống vàng bạc hàng năm để mua lấy sự thanh bình. Tuy vậy, sau loạn An Lộc Sơn, nhà Đường suy yếu, Rợ Hồ nhơn cơ hội xâm chiếm Trung Nguyên, vơ vét vô số tài sản và giết chết hơn nửa số dân Trung Quốc. Nhà Đường suy, Trung quốc bị chia thành năm nước gọi là thời Ngũ Đại. Khi Triệu Khuông Dẫn diệt Ngũ Đại lập nên nhà Tống thì ở phương bắc rợ Khiết Đan và Tây Hạ cũng lớn mạnh. Khiết Đan tiêu diệt các rợ khác lập nên nước Liêu và có ý dòm ngó Trung Nguyên. Các vua Tống lại phải chịu nhục nộp cống cho nước Liêu để cầu hòa, còn phải cắt bảy trăm dặm đất để dâng cho nước Liêu. Số cống phẩm hàng năm lên đến hai mươi lăm vạn lạng bạc và hai mươi lăm vạn tấm lụa.

Mọi người kinh ngạc la lên:

-  Nhiều đến như vậy sao? Vậy thì quốc khố nước Tống còn gì?

Huy Ích nói:

-  Cho nên dân Tống lúc ấy rất nghèo khổ. Chịu nhục với nước Liêu, Tống gỡ thể diện bằng cách đem quân đánh Tây Hạ và Đại Việt, nhưng Tống bị thiệt mất gần sáu mươi vạn quân ở Tây Hạ, còn ở Đại Việt, quân Tống bị Lý Thường Kiệt đánh một trận tan tành ở sông Như Nguyệt, chết mất hai vạn quân.

Vua Quang Trung nói:

-  Lúc ấy Lý Thường Kiệt đã viết nên bản tuyên ngôn độc lập cho nước nhà.

-  Tâu vâng.

Tín Nhi nói:

-  Bọn Tống đụng đâu bị thê thảm đó thì sống sao nổi nữa.

Huy Ích nói:

-  Đúng là không sống nổi thật. Vì nước Tống bấy giờ lâm vào cảnh họa vô đơn chí. Họa nước Liêu chưa hết thì bắc phương lại có một bộ tộc khác là Nữ Chân lớn mạnh lên và diệt nước Liêu, lập nên nước Kim. Kim quốc diệt Liêu xong đem quân đánh Tống và chiếm nửa giang san Trung Quốc, bắt vua Tống về Kim quốc, lập chính quyền bù nhìn để cai trị gọi là Bắc Tống. Cao Tôn nhà Tống chạy vào nam lập thành nước Nam Tống, đánh nhau với bắc Tống của Kim quốc. Sau quân Kim qúa mạnh, Nam Tống lại phải chịu nhục cầu hòa, nạp cống hàng năm. Cống phẩm Nam Tống phải nộp cho Kim quốc là mười vạn lạng bạc và mười vạn tấm lụa. Vua Tống còn phải gọi vua Kim bằng Bác và xưng cháu. Có thể nói thời bấy giờ, nước Trung Hoa trở thành bán thuộc địa của Kim quốc. Nhưng câu họa vô đơn chí vẫn đeo đẳng số phận nhân dân Trung Quốc khi bộ tộc Sát Đát của Thành Cát Tư Hãn thành hình lập nên đại đế quốc Mông Cổ, tiêu diệt nước Kim và chiếm trọn lãnh thổ Trung Hoa, thiết lập nên nhà Nguyên, đặt nền đô hộ ở Trung Quốc hơn trăm năm với sự đối xử hết sức phân biệt và khắc nghiệt giữa người thống trị và kẻ bị trị.

Cần Chánh hỏi:

-  Bọn Mông Cổ hung hăng như vậy nhưng khi  tiến sang Đại Việt đã bị thảm bại chạy dài phải không?

-  Đúng vậy. Và không chỉ bại một, mà đến ba lần. Sau khi bị Hưng Đạo Vương đánh bại lần thứ ba, đế quốc Mông Cổ suy yếu dần. Chu Nguyên Chương nổi dậy đuổi được Mông Cổ lập nên nhà Minh cho Trung Quốc. Dân Trung Quốc sống thanh bình được gần ba trăm năm thì lại bị người Mãn Châu đánh chiếm và đặt nền đô hộ từ gần một thế kỷ rưỡi nay. Dấu ấn sâu đậm nhất trong lòng người Trung Quốc lần này là việc bị người Mãn Châu bắt bỏ kiểu tóc búi tó, cạo đầu phía trước và thắt hai bím dài sau lưng.

Tín Nhi hỏi:

-  Như vậy so với Đại Việt nhỏ bé chúng ta, số phận của tên không lồ Trung Quốc còn bi đát và nhục nhã hơn nhiều phải không?

Phan Huy Ích cảm thán:

-  Có thể nói, hai dân tộc, một lớn một nhỏ, nhưng số phận truân kiểu thì gần như nhau.

Vua Quang Trung chợt hỏi:

-  Khanh nói Đế Minh phong Đế Nghi làm vua phương bắc, như vậy nước của Đế Nghi có quan hệ thế nào với nước Trung Quốc của người Hán?

Huy Ích tâu:

-  Đế Nghi truyền ngôi cho con là Đế Lai. Đế Lai sau khi lên ngôi, nhớ đến chuyện tuần thú phương nam gặp được tiên của ông nội mình là Đế Minh nên giao nước cho viên cận tướng là Xuy Vưu thay mình trông coi, còn ông dẫn con gái yêu là Âu Cơ tuần du xuống phương nam, tạo nên mối duyên lành giữa tổ Lạc Long Quân và Mẹ Âu Cơ của chúng ta. Trong khi đó ở phương bắc, người Hán, một sắc dân du mục bên kia bờ Hoàng Hà, dưới sự lãnh đạo của Hoàng Đế đã vượt sông đánh chiếm đất nước của Đế Lai. Xuy Vưu giao chiến với Hoàng Đế một trận quyết định ở Trác Lộc nhưng thất bại, quân hai bên chết đến ức vạn. Trận đánh kinh hoàng đó còn lưu truyền mãi đến nay qua câu nói: "Tích nhựt Hoàng Đế chiến Xuy Vưu. Trác Lộc kinh kim vị nhược hưu". Từ đó người Hán thôn tính dần lãnh thổ Trung Nguyên lập nên nước Trung Quốc. Một số dân Việt bỏ chạy vào phương nam tìm lại anh em, đại đa số ở lại sống chung với người Hán. Với bản tính hung hăng của dân du mục, nước Trung Quốc của Hán tộc ngày một lớn mạnh, đẩy dần dân ta vào phương nam và thừa hưởng di sản văn hóa nông nghiệp của dân Bách Việt. Đặc biệt hơn hết là nền Minh triết Việt Nho.

Chợt nhớ đến bài chiếu lên ngôi, vua Quang Trung hỏi:

-  Ta nghe trong bài Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi đã đem những triều đại của Trung Hoa và Đại Việt ra để so sánh, trong đó có cả nhà Triệu sánh với nhà Hán, tại sao trong bài chiếu lên ngôi, Thời Nhậm chỉ ghi từ các đời Đinh, Lê, Lý, Trần?

Phan Huy Ích thất sắc vội tâu:

-  Muôn tâu. Hôm thảo chiếu, Ngô huynh có phân vân về điều này, chỉ vì trong cuốn Việt Sử Tiêu Án, nhạc phụ của hạ thần đã đưa nhà Triệu vào phần ngoại sử cho nên..

Nhà vua ngạc nhiên ngắt lời:

-  Sao lại liệt nhà Triệu vào ngoại sử?

Huy Ích lo sợ tâu:

-  Nhạc phụ cho rằng vì Triệu Vũ Vương là người Hán đem quân thôn tính các bộ lạc Bách Việt lập nên nhà Triệu. Tuy Triệu Vũ Vương đã lấy vợ Việt, áp dụng cách trị nước và mọi sinh hoạt khác theo phong tục dân Việt, nhưng vẫn phải coi nhà Triệu như là một sự đô hộ, là ngoại sử của Đại Việt. Cũng vì việc này, giữa nhạc phụ và Ngô huynh đã sinh ra xung khắc đến mức giận nhau tạo cớ cho người đời vu oan Ngô huynh đã gây nên cái chết cho nhạc phụ trong vụ án Nhâm Tý lúc trước.

-  Thời Nhậm đã không đồng ý với cha, sao trong chiếu vẫn chỉ ghi từ nhà Đinh?

Huy Ích lo sợ ngần ngại đáp:

-  Muôn tâu. Ngô huynh nghĩ lời chiếu chỉ nên nhắc đến các giai đoạn độc lập gần đây, không nhắc đến nhà Triệu vì không muốn đụng đến thời kỳ ngàn năm nô lệ.

            Nhà vua biết Huy Ích không dám nói ra vấn đề Ngô Thời Nhậm tránh né vì sợ làm tủi vong linh của cha mình. Ông gật gù tỏ vẻ thông cảm hỏi:

-  Ý khanh về vấn đề này thế nào?

Huy Ích tâu:

-  Thần cũng không đồng ý với nhạc phụ. Vì lẽ tuy Triệu Đà là người Hán nhưng ông ta đã lấy vợ Việt và Việt hóa từ con người cho đến cách trị nước. Các đời vua kế tiếp của nhà  Triệu đều có dòng máu Việt trong người. Huống chi nếu chúng ta từ chối nhà Triệu thì phải từ chối luôn cả triều đại của Thục Phán An Dương Vương, vì ông ta là người nước Thục. Vì vậy theo ý hạ thần, những cuộc chiến tranh thời đó giữa Triệu Đà và An Dương Vương cũng chỉ là cuộc nội chiến giữa các bộ tộc Bách Việt, cuối cùng dẫn đến sự thống nhất thành nước Nam Việt, giống như hiện tình đất nước chúng ta chia rẽ thành Nam Hà, Bắc Hà hiện nay, đến khi Hoàng thượng đứng ra thống nhất trở lại thành một mối.

Vua Quang Trung tuơi cười khen:

-  Hay lắm. Trẫm đang có ý định đòi lại đất Lưỡng Quảng về cho Đại Việt, nếu gạt bỏ nhà Triệu ra khỏi chính sử thì lấy cớ gì để yêu sách với Càn Long.

-  Dạ, Hoàng thượng.

Nhà vua lại hỏi tiếp:

-  Trẫm nghe nói nhà Lê hàng năm có lệ phải tiến cống người vàng cho nhà Minh để đền mạng Liễu Thăng và vẫn giữ lệ ấy cho đến nay phải không?

-  Dạ đúng vậy.

Ánh mắt vua Quang Trung long lên một tia sáng cương quyết, ông cười gằn:

-  Bọn nhà Minh vì ngân khố bị các rợ phương bắc vét sạch nên quay sang áp bức dân ta. Chúng ta vừa giết chết Hứa Thế Hanh và vô số tướng lãnh khác, chẳng lẽ cũng phải đền cho chúng những con người vàng ấy nữa hay sao. Hừ! Từ nay trẫm sẽ bỏ cái lệ cống vàng vô lý đó xem Càn Long làm gì được chúng ta cho biết.

            Sự hân hoan và thán phục hiện rõ trên nét mặt bá quan. Họ tin rằng một khi vua Quang Trung đã khẳng định, việc tất phải được thực hiện và thực hiện thành công.

*

            Rời lăng mộ các vị thủy tổ, vua Quang Trung ngự đến chùa Dâu cách đó không xa để chủ trì lễ cầu siêu. Chùa Dâu là ngôi chùa cổ nhất Đại Việt, được xây dựng vào thế kỷ thứ ba. Đến thế kỷ thứ sáu, Thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi từ Ấn Độ sang Trung Hoa rồi qua Đại Việt đã dừng lại ở đây và khai sáng Thiền phái Tì Ni Lưu Chi. Phật giáo Đại Việt bắt đầu phát triển mạnh từ ngôi chùa Dâu này.

            Trước sân chùa, dưới chân tòa bảo tháp, tăng chúng đã cho lập một đàn cầu siêu lớn. Bấy giờ tuy đầu xuân nhưng bầu trời khắp vùng Thăng Long tứ trấn rất âm u có lẽ do khói lửa chiến tranh và âm hồn của bao nhiêu vạn người chết còn vương vất cõi trần tụ lại. Sau lễ đọc kinh cầu siêu của các vị đại sư chùa Dâu, vua Quang Trung được mời lên đàn để đọc bài văn tế vong hồn tử sĩ do Phan Huy Ích soạn. Nhà vua hôm nay mình khoác áo đạo sĩ, đầu đội mũ tam toà, cất giọng như chuông đồng nhưng âm hưởng rất bi thương đọc bài văn tế có đoạn như sau:

            ".... Hởi các oan hồn tử sĩ phương bắc! Trẫm biết các ngươi chỉ vì tuân lệnh bề trên nên phải thác oan nơi xứ người do đó âm hồn chẳng biết về đâu, vất vưởng không nơi nương tựa. Nay Trẫm lập đàn bên sông cúng tế, cho thu nhặt hài cốt các ngươi chôn cất thành gò đống, lập miếu để thờ, không phân biệt các ngươi là người phương bắc, lòng thương của Trẫm như nhau...

            Thương thay! Hỡi các oan hồn còn vất vưởng trên kia, nay Trẫm thể theo lòng nhân của trời đất, đích thân đốt nén hương này hòa quyện cùng lòng thành thương xót, đưa tiễn các ngươi trở về nơi hương chỉ, trở lại với đất tổ quê cha để còn đầu thai hóa kiếp.

Thượng hưởng"

            Khi nhà vua đọc dứt bài văn tế, lạ thay bầu trời Thăng Long tứ trấn đang âm u bỗng trở nên quang đãng, rực rỡ nắng xuân. Hàng ngàn người có mặt tại sân chùa đều cho rằng lòng thành của nhà vua đã khiến cho những oan hồn của mấy mươi vạn quân Thanh và tử sĩ Đại Việt cảm thông và siêu thoát. 

***

Trích tiểu thuyết lịch sử NHẤT THỐNG SƠN HÀ

Hồi thứ hai mươi chín

Về Kinh Bắc, vua Quang Trung yêu làn Quan họ

Sợ Tây Sơn, Thang Hùng Nghiệp tính chước cầu hòa.

Vũ Thanh


[1] Bản đồ nước Nam Việt nhà Triệu - Theo Internet.