Cô Hàng Nước
Hắn sinh ra và lớn lên ở một vùng bán sơn địa. Cái miền đất nửa đồi núi nửa ruộng nương ấy còi cọc nuôi hắn lớn lên như bao người dân bản địa khác. Có khác chăng là hầu hết người dân ở đây quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời, chưa đi đâu xa hơn lũy tre còm làng xã thì hẳn được cha mẹ cho ăn học hẳn hoi, được đi đây đi đó... Kỳ thực, trên cái vong đất nghèo khó đó, hắn học hành cực giỏi, tiếng dữ đồn xa và tiếng lành của hắn càng xa tít hơn. Trả công bội hậu cho hắn sau một quãng đời tuổi trẻ sôi kinh nấu sử, hắn đậu luôn hai kỳ thi Hương và thi Hội. Chỉ còn chờ thi Đình nữa là hắn có thể sánh ngang cùng tiền nhân Tam nguyên Yên Đổ. Để tiện việc dùi mài kinh sử, cha mẹ cho hắn ở luôn trên kinh thành chờ ngày thi Đình. Hắn được gửi đến ở trọ một người có chức sắc thế lực thời đó. Người này ngày xưa là bạn nối khố của cha hắn, nhà giàu có nứt tiếng một vùng. Ham chơi nhiều hơn ham học nên thi đâu... hỏng đó. Xấu hổ với làng xã nên người cha giàu có đó nhờ một mối quan hệ với vị quan trong triều mua cho hắn một chức quan nhỏ. Hắn nghiễm nhiên trở thành quan đất kinh kỳ. Vị quan bé xíu này cũng có một con gái tuổi vừa cập kê, và một lần về thăm quê có ghé thăm người bạn nối khố năm xưa, ông ta đã gặp hắn. Không bỏ lỡ cơ hội, vị quan này nhắm ngay vào hắn với ý đồ hắn sẽ trở thành nghĩa tế của ông ta. Thế là hắn như chuột sa chĩnh nếp, ăn ngon mặc đẹp và còn có bóng hồng nâng khăn sửa túi. Người nhà của quan kính nể hắn một phép. Con đường quan lộ của hắn ngỡ trong tầm tay chẳng cần phải với. Sự đời vốn không hề bình lặng yên ả như mặt nước hồ thu nếu như hôm ấy hẳn không gặp một cô gái bán nước vối ở một cái lều quán tận ngoại ô. Đó không phải là một tiểu thư khuê các trướng phủ rèm che mà là một cô gái bình dị có lẽ là con nhà nghèo bởi phục sức không có gì ngoài cái vẻ đẹp trời cho chim sa cá lặn. Cái quán nước mộc mạc tre nứa phênh thưa vách đất thế mà hút khách rất đông. Họ không ngại ngồi trên những chiếc ghế xiêu vẹo lỏng đinh như hàm răng bà cụ trăm tuổi, uống nước vối trên những chiếc bàn bằng những thân tre ghép lại. Lạ một điều là cái quán nghèo rách xơ mướp như thế nhưng tuyệt nhiên không có một người khách bình dân ghé vào. Họ là những tao nhân mặc khách, công tử nhà giàu cỡ nứt đố đổ vách, những cậu tú cậu cử bảng nhãn, thám hoa và còn có cả mấy lão quan già không đều cũng thưởng xuyên túc trực. Trước những ngưỡng mộ của các đôi mắt đỉa đói xung quanh, cô gái vẫn thản nhiên không hề lay động. Mặc cho lời ong tiếng ve xôn xao chạo rạo mỗi ngày. Mặc cho các cậu tú hỏng thi vác cả đống sách đến quán để chứng tỏ mình học thức. Mặc cho các trọc phú cố ý nói thật to cho cả quán đều nghe sự giàu có của mình. Cô thản nhiên khi người ta ra sức làm thi viết phú tặng cô , nào là viết nhạc ngũ cung, vẽ chân dung của cô để ca tụng sắc đẹp và cố gây ra được dù chỉ một chút sự chú ý của cô gái... ngày qua tháng lại mà họ vẫn không có chút kết quả nào hay một tia hy vọng dù yếu ớt nhất cũng không. Và một đạo luật bất thành văn được diễn ra ngấm ngầm: đám đông ấy thống nhất cao cô gái là của chung, không một ai có thể sở hữu riêng được cho dù đó là điều viễn tưởng. Đã gặp được một lần dù tình cờ thì không thể không tìm cách tìm đến lần sau và nhiều lần sau nữa bởi hắn bị tiếng sét mưa giông nổ bất thình lình nên về nhà quên ăn mất ngủ. Ngồi học mà hắn không thấy con chữ nào mà thay vào đó là khuôn mặt khả ái hớp hồn hắn không còn chút tư tưởng gì cho việc đèn sách nữa. Mặc kệ cho sự chăm sóc chu đáo của cô tiểu thư con nhà quan kề cận từng ngày bên hắn. Hắn thường xuyên vắng nhà và năng đến quán cô hàng nước ngày một nhiều hơn và chính thức gia nhập vào đội quân tương tư cô hàng nước. Đội quân ấy dù không tuyển dụng nhưng ngày càng phát triển về quân số và đậm đà hơn về độ si tình. Và điều gì đến cũng phải đến. Khoa thi Đình Nhâm Tuất năm ấy, hắn thi đỗ mới là chuyện lạ. Đương nhiên, hắn bị tống cổ khỏi nhà quan không thương tiếc vì cái tội mê gái mà không đoái hoài gì đến tiểu thư con nhà quan ngày đêm hầu hạ. Hắn về lại quê nhà, cái nơi bán sơn địa trải qua mấy mùa thương hải vẫn y chang như thế. Có lẽ cái nghèo nàn đã ăn sâu vào xương tủy thâm căn cố đế nên người dân nơi đây vẫn ngày ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời như xưa. Cha mẹ hắn buồn rầu đến phát bệnh. Cái xác si tình của hắn ngày càng tiều tụy và cái hồn bệnh hoạn của hắn đã nằm lại, đã bám trụ nơi đất kinh kỳ có cô hàng nước như tiên sa. Sau hơn một năm, không thể chịu đựng nổi được nữa, hắn trốn nhà bỏ lại cha mẹ của hắn đang cơn bạo bệnh thập tử nhất sinh và trở lại kinh kỳ. Sau mấy ngày ròng vất vả đói khát, hắn dù không còn ngựa xe làm phương tiện cũng lê được tấm thân tàn ma dại tìm lại quán nước vối năm trước chỉ để được một lần nhìn thấy cô gái dù hắn có chết cũng ngậm cười nơi cửu tuyền chín suối. Cảnh cũ không thay đổi gì mấy, khác chăng là cái cảnh ngựa xe như nước áo quần như nêm trước đây không còn. Một sự im vắng đến lạ thường. " Trước sau nào thấy bóng người. Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông"* . Hắn thất vọng cùng cực, đôi chân như chực khụy xuống. Nhưng kìa Cánh cửa xiêu vẹo của túp lều quán chợt mở. Một cô gái. Không, chính xác hơn là một thiếu phụ đen nhẻm mặt mày, quần áo nhàu cũ đến thảm hại, tay bế một đứa bé chừng giáp thôi nôi cũng queo quắt như người mẹ. Hắn bật ngửa như tưởng rằng mình đang chiêm bao và đất dưới chân hắn đang sụt lún. Dù lam lũ cỡ nào thì hắn cũng nhận ra đó là cô . Cô hàng nước mà hắn thương nhớ từng giờ . Cô gái nhan sắc chim sa cá lặn đã mê hoặc không biết bao nhiêu quan lại, tao nhân mặc khách chết mê chết mệt, lao đầu vào lửa như bầy thiêu thân và những sĩ tử mất cả tiền đồ xán lạn sống không bằng chết như hắn.
Duy Phạm