"Ta muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém cá tràng-kình ở Biển Đông, quét sạch bờ-cõi để cứu dân ra khỏi nơi đắm-đuối chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu, cong lưng làm tỳ-thiếp cho người ta." ** Triệu Thị Trinh **

Khu Vườn Bí Ẩn

Chú-thích của dịch-giả: Dịch theo bản phóng-tác của Devra Newberger Speregen

Phần I

CHƯƠNG 1: Cuộc Đời Mới

   Qua cửa sổ tàu lửa Mary Lennox chăm nhìn bầu trời xám xịt ngoài kia. Trời mưa tầm tã, những giọt mưa nặng hạt đập đồm độp vào cửa sổ khi chiếc tàu ì ạch chạy qua miền quê nước Anh.
    Mary nhăn nhó nhìn chăm chăm mưa bão. Cô bé không hề thích ngồi trong một chiếc tàu lửa mốc meo ẩm ướt, cũng chẳng hề muốn đi cùng bà Medlock, cái bà già khó chịu được cử theo chăm sóc cho cô trong cuộc hành trình này đến Misselthwaite Manor. Nhất là đến đây, nơi cái nước Anh này để sống với một ông bác xa lạ mà cô chưa từng gặp.
    Mary đưa mắt nhìn những làng mạc bé tí và cây cối trên đường tàu chạy qua, thấy sao mà xa lạ quá. Chẳng có cái gì giống như ở India, nơi Mary đã ở từ nhỏ đến giờ.
    Màu xám xịt của bầu trời, có vẻ hợp với tâm trạng không vui của Mary. Cô bé lớn tiếng thở dài rồi ngồi trở lại vào ghế. Cô đưa mắt lén nhìn bà Medlock. Bà ấy có vẻ đang bận suy nghĩ. Mary có thể đoán qua vẻ mặt khó chịu của bà ấy; bà không vui về chuyện phải chăm sóc cho cô chứ gì! Mà trước giờ đâu có ai muốn ở bên cô đâu.
    Mary đã lớn lên trong một lâu đài to lớn ở India với hàng trăm tôi tớ, nhưng hầu như lúc nào cô cũng rất cô đơn. Cô hiếm khi thấy mặt cha mẹ. Cha cô là công chức của chính phủ nước Anh, quá nhiều việc nên không để ý đến cô. Mẹ cô thì quá trẻ đẹp, chỉ quan tâm đến tiệc tùng nọ kia hơn là dành thời gian cho con gái của mình.
    Mary có một vú nuôi mà cô gọi là Ayah. Ayah của cô chăm sóc cô hàng ngày, nấu cho cô ăn, lau dọn, mặc quần áo cho cô. Bây giờ cô đã 9 tuổi mà vẫn chưa biết tự mặc lấy áo quần.
    Mary trở thành xấu tính dễ sợ. Cô sai đầy tớ cũng như Ayah làm đủ thứ chuyện, làm ai cũng không chịu nổi khi ở gần bên cô. Chẳng bao lâu cô đã từ một em bé hư hỏng trở thành một cô bé hư hỏng bẳn tính, hầu như không bao giờ biết cười. Cũng vì thế, cô chẳng có đứa bạn nào cả.
    Một sáng mùa đông, Ayah của cô không đến thức cô dậy và mặc đồ cho cô nữa. Sau đó, cô mới biết là Ayah đã mất vì bệnh dịch. Trong thời gian mấy ngày sau đó, loại bệnh đó đã tràn lan khắp India, giết chết rất nhiều người, kể cả bố mẹ của cô. Chỉ còn lại một mình trên đời, cô đành phải qua ở với ông bác, Ngài Archibald Craven, ở Misselthwaite Manor bên nước Anh.
    Từ nhà cô ở India, Mary đã phải đi thuyền đến Anh để gặp bà Medlock tại nhà ga xe lửa. Khi nhìn thấy cô, người đàn bà này đã có vẻ chán nản. Bà nói với người bán vé tàu, tiếng lớn đủ cho cô nghe:
    -Trẻ con gì mà trông nhợt nhạt, bạc nhược thế chứ!
    Ông này nói:
    -Chúng tôi nghe đồn mẹ cô là một mỹ nhân mà. Chắc tại vì bà ấy không truyền lại cho cô bé được bao nhiêu thì phải.
    Mary cũng đâu thèm đếm xỉa nhiều đến bà Medlock. Bà ta có bộ mặt nghiêm khắc, cau có, lại ăn mặc toàn màu u tối. Mary mong sao tất cả những người còn lại ở nước Anh sẽ không đáng chán như bà ta.
    Tàu chạy chầm chậm rồi ngừng lại, và cái giọng tẻ nhạt của bà Medlock ở bên tai đưa Mary về thực tại:
    -Tôi nghĩ tôi nên cho cô biết ít nhiều về nơi cô sắp đến. Cô có biết chút gì về bác của cô không?
    Mary lắc đầu:
    Không biết.
    -Bố mẹ cô không hề nói gì về ông ấy sao?
    Mary đáp:
    -Không.
    Cha mẹ cô có bao giờ kể cho cô biết về bất cứ chuyện gì đâu.
    Bà Medlock chưng hửng. Bà nói:
    -Được rồi, tôi nghĩ cô cũng nên biết ít chuyện, để cô chuẩn bị. Cô sắp đến một nơi rất kỳ lạ đó.
    Mary làm thinh, mắt chăm nhìn bên ngoài cửa sổ xe lửa khi nghe bà Medlock tả về trang viện Misselthwaite Manor. Theo lời bà ấy, trang viện đó cũ lắm, cũ gần 600 năm lận. Nó cũng rất lớn, giống như một toà lâu đài, có đến gần 100 phòng ốc... Nhưng Mary nghĩ điều kỳ lạ nhất về trang viện là cái gì đó có cái tên là "bãi hoang." Bà Medlock đã nói là nó bao quanh điền trang Misselthwait Manor dặm tiếp dặm.
    Bà cũng cho Mary hay:
    -Phần lớn phòng trong nhà đều được đóng và khoá kỷ. Cô sẽ có nơi để chơi, tự lo cho mình, nhưng cô sẽ được cảnh báo phải tránh xa những phòng nào. Nơi đó cũng có rất nhiều vườn, có vài cái được giữ gìn rất tử tế. Cô được phép đi rong chơi nơi nào bên ngoài tuỳ ý, nhưng trong nhà thì nhớ đừng chạy quanh nhòm ngó gì cả nghe.
    Đến lúc đó Mary mới mở miệng: "Tôi sẽ không ...."
    Bà Medlock kể tiếp:
    -Về phần bác của cô, ông ấy sẽ không để cho cô làm phiền đâu, chắc chắn như vậy. Ông ấy không bao giờ để cho ai làm phiền cả. Thực ra thì hiện ông đang ở ngoại quốc, và có lẽ ông còn vắng nhà khá lâu.
    Bà Medlock chờ xem Mary có hỏi gì thêm về bác của cô hay không, nhưng Mary chỉ làm thinh, tiếp tục nhìn ngoài cửa tàu.
    Không nghe cô bé nói gì, bà Medlock lại lên tiếng:
    -Ông ấy có cái lưng còng, trước khi cưới vợ ông là một nam tử trẻ trung mà bẳn gắt, có thật nhiều tiền của, nhưng đến khi lấy vợ thì hai người họ sống với nhau rất hạnh phúc. Rồi, khi vợ ông mất...
    Mary xoay nhanh mình lại hỏi:
    -Bà ấy mất rồi?
    Bà Medlock đáp:
    -Phải. Cái chết của bà ấy đã biến Ngài Craven thành lạ lùng hẳn đi. Ông không muốn thấy bất cứ ai, đến bây giờ vẫn thế. Hầu như ông hiếm khi ở nhà, và nếu ở nhà thì ông chỉ giam mình bên trong West Wing, không để cho ai thấy mặt cả.
    Mary lại quay ra phía cửa tàu để nhìn mưa như trước. Cô ước phải chi trở lại India được. Ở India, ít nhất cũng không có ông bác kỳ lạ hay bà vú già khó chịu nào.
Mary cứ nhìn mưa mải đến khi hai mắt cô trĩu xuống. Những tiếng mưa vỗ vào thành cửa sổ đã dỗ cô đi vào giấc ngủ ngon lành.

CHƯƠNG 2: Nghe Được Bí Mật

   Khi đến Misselthwaite Manor, Mary được dẫn vào một phòng lớn u ám với những tranh vẽ thợ săn và chó săn treo trên tường. Bên ngoài cửa sổ cô có thể nhìn thấy một dải đất trông giống một biển nước màu tím trơ trụi không cây cối dài đến mút mắt.
    Một chị người làm trẻ tuổi giải thích với Mary:
    -Đó là bãi hoang. Cô có thích nó không?
    Mary nhìn chăm chị người làm, rồi quay lại cửa sổ, lạnh lùng đáp:
    -Không thích. Ta ghét nó thì có.
    Chị tớ gái vẫn tiếp tục dọn phòng và lấy hành lý ra cho Mary. Dù chị có để ý thấy cái giọng điệu bất nhã của Mary thì cũng không tỏ ra ngoài mặt. Chị vẫn lau bóng đồ đạc trong phòng, đốt lửa trong lò cho ấm, và tươi cười nói tiếp:
    -Tôi thì thích nó lắm. Trong mùa xuân có bao nhiêu thứ rất dễ thương đua nhau mọc mùi hương ngọt ngào thoang thoảng khắp nơi. Khó có gì làm tôi xa bãi hoang này được. Tên tôi là Martha.
Mary khinh khỉnh nhìn tên đầy tớ mới lạ lùng này. Ở India, lũ đầy tớ không giống Martha này tí nào. Chúng nó không có nói chuyện với chủ như kẻ ngang hàng. Chúng cúi đầu xưng: "thưa ông chủ, thưa ngài" chứ có đâu như vậy. Cô ta không buồn tự giới thiệu tên tuổi, lên giọng hỏi Martha:
    -Chị không mặc đồ cho ta sao?
    Martha có vẻ ngạc nhiên:
    -Ủa! Cô không biết mặc đồ lấy hay sao?
    Mary nóng nảy gắt:
    -Không biết. Cả đời ta chưa hề phải làm chuyện đó. Vú Ayah mặc đồ cho ta, dĩ nhiên.
    Martha đưa hai tay lên trời, cười lớn:
    -Đã đến lúc cô phải học rồi đó!
    Mary nổi giận, lập tức la lên:
    -Không một tên đầy tớ nào lại cười nhạo ta như vậy.
    Martha nhìn Mary chăm bẳm, như không tin mình vào tai mình. Chị ta nghĩ thầm; cô bé này thật tội nghiệp! Đã không cha, không mẹ, không anh chị em, chắc là cô độc lắm. Martha chẳng biết cô đơn là gì cả vì chị có đến mười hai anh chị em. Chị ta quyết định làm ngơ thái độ bất nhã của Mary cho xong. Chị ta hy vọng Mary có lúc sẽ trở nên thân thiện hơn sau này.
    Rót cho Mary ít nước trà, Martha bắt đầu kể về anh chị em của mình, nhất là về em trai Dickon. Dù đang lúc giận dữ, giả vờ như không nghe, Mary cũng không khỏi mỉm cười khi Martha kể những chuyện khôi hài.
    Martha cho hay rằng Dickon là một trong những người thân thiện, sung sướng nhất mà chị ta biết. Hắn biết làm bạn với các loài thú ở bãi hoang. Cũng từng thân thiết với một chú ngựa hoang, nay chú ngựa tơ này vẫn theo bên cạnh Dickon nơi nào hắn đến.
    Mary thầm thích gặp Dickon để thấy những chuyện thú vị này. Cả đời cô chưa từng thấy thằng nhỏ nào kết bạn với thú cả. Thế rồi cô lắng tai nghe Martha nói, thỉnh thoảng còn lớn tiếng cười nữa.
    Khi đã lau dọn xong phòng cho Mary, Martha bảo Mary nên ra ngoài mà chơi đùa. Mary hỏi:
    - Nhưng ai đi với ta đây?
    Martha đáp:
    - Cô tự đi một mình đi! Cô phải tập chơi một mình. Giống như Dickon đó.
    Có thế hắn mới làm bạn với con ngựa tơ được. Hắn còn là bạn bè của con trừu và chim chóc ở bãi hoang nữa đó.
    Những chuyện Martha kể về Dickon làm Mary càng thích gặp thằng bé hơn bao giờ cả.
    Vừa giúp Mary khoác áo đội mũ, dẫn Mary ra cửa, Martha vừa trấn an Mary:
    -Cô sẽ gặp hắn mà. Nếu cô đi loanh quanh hướng đó, cô sẽ gặp nhiều vườn tược. Thường thì có rất nhiều hoa vào mùa hè, nhưng bây giờ thì có lẽ không còn mấy nữa.
    Ngập ngừng một chút, Martha tiếp:
    -Một trong những khu vườn bị khóa kỹ, cô không thể nhìn thấy nó. Cả 10 năm rồi chẳng ai nhìn thấy nó.
    -Tại sao? Mary thắc mắc.
    Martha cắn môi, hoang mang không biết có nên kể cho Mary biết hay không. Rồi chị ta nói thật nhỏ, giải thích là Ông Craven đã khóa khu vườn đó lại ngay sau khi vợ ông mất.
    Thấy Mary tròn mắt ngạc nhiên, Martha tiếp:
    -Ông ấy khóa cửa vườn lại và chôn luôn cả chìa khóa vườn dưới đất.
   Chợt nhận ra mình đã tiết lộ quá nhiều điều không nên nói, chị ta vội vàng đẩy Mary ra cửa.

CHƯƠNG 3: Ben và Chim Robin

   Đi dọc theo những lối đi cạnh các khu vườn, Mary không khỏi nghĩ về cái vườn bị khóa kỹ ấy. Làm sao mà một cái vườn như thế bị đóng lại được? Không phải lúc nào người ta cũng có thể bách bộ trong vườn hay sao? Cô vừa đi vừa thắc mắc không biết cái vườn đó trông ra sao.
    Bỗng nhiên cô thấy trước mặt, một ông già đang cắm cúi dùng cái xẽng xúc đất gieo hạt. Chừng như ông già giật mình khi nhìn thấy cô, nhưng ông ta cũng dỡ mũ lên chào thật lễ độ rồi lại cúi xuống làm việc tiếp.
    Mary hỏi trổng:
    -Nơi này là cái gì đây?
    Một lần nữa, cô không thèm tự giới thiệu mình là ai. Mắt thì nhìn những bụi cây đáng chán ở xung quanh, trên mặt hiện rõ vẻ không vui.
    Ông già đáp:
    -Đây là một trong những cái vườn dùng cho nhà bếp. Tất cả những rau quả dùng cho Trang Viện đều trồng ở đây.
    -Và cái đó? Tay chỉ vào một cánh cửa màu xanh gần đó, cô ta hỏi như ra lệnh.
    Ông già có vẻ bất mãn với sự tò mò của Mary, ông trả lời cụt ngủn:
    -Một vườn khác của nhà bếp.
    Mary hỏi:
    -Ta vào được không?
    -Nếu cô muốn. Nhưng không có gì để xem đâu.
    Mary làm thinh, bước theo lối đi, qua cánh cửa xanh. Ông già nói phải. Vườn này chỉ có toàn cây quả mùa đông.
    Nhìn tiếp bên phía kia của vườn này, khi thấy một cánh cửa xanh khác, Mary nghĩ đó có thể chính là khu vườn bí mật. Cô ta phóng mình chạy tới, hy vọng cánh cửa đó đóng chặt, có khoá khoá lại không mở được, nhưng cô thất vọng biết bao khi cánh cửa mở ra quá dễ dàng, và cô thì đang đứng trong một cái vườn đầy cây ăn trái.
    Mary hồi hộp nhìn quanh, nhưng chẳng còn cái cửa xanh nào nữa cả. Tuy vậy, còn cái tường cao phủ đầy dây leo trường xuân nữa chi. Bức tường này cũng dài, có vẻ như dài, dài lắm. Nhìn qua phía bên kia bức tường cao Mary thấy chim chóc đang bay lượn trên những ngọn cây. Một con chim có cái ức đỏ, đậu trên một nhánh cây cao đang nhìn Mary chăm chăm.
    Con chim ức đỏ cất tiếng hót líu lo, như thể đang hót chào mừng Mary. Dù đang có tâm trạng buồn và lạc lỏng, Mary vẫn cố mỉm cười, nghe con chim hót cho đến khi nó bay đi, qua bên kia bức tường. Cô thắc mắc không biết cái vườn bí ẩn bị khóa kín đó có phải nằm bên kia bức tường và phải chăng nơi đó là nhà của con chim kia hay không.
    Trên đường trở về Trang Viện, Mary nghĩ mãi về khu vườn này. Nỗi hiếu kỳ làm cô nhấp nhổm không yên. Cô tưởng tượng cảnh trong khu vườn, và thầm hỏi vì sao mà bác cô khoá nó lại rồi còn chôn luôn chìa khóa đi. Cô có bao giờ gặp ông bác không đây? Mà nếu có gặp, thì cô có đủ can đảm để hỏi bác ấy về điều ấy không?
    Trong khi tâm trí đang bận bịu với những ý tưởng này thì cô lại thấy ông già kia, vẫn còn đang xới đất trồng cây trong vườn rau quả. Mary đứng yên bên cạnh ông một lúc, cuối cùng lên tiếng:
    -Ta đã thăm các khu vườn kia, và cả vườn cây nữa.
    Ông già làm thinh không trả lời, vẫn tiếp tục đào xới. Giống như Martha, ông không thích cách nói năng bất nhã của Mary chút nào.
    Mary nói tiếp:
    -Nhưng không có cánh cửa dẫn vào khu vườn kia.
    Ông già thả cái xẽng xuống, nhìn Mary với cái nhìn nghiêm nghị, hỏi:
    -Vườn gì?
    Mary đáp lại:
    -Khu vườn ở bên kia bức tường cao đó. Ta biết có một cái vườn ở đó. Ta đã thấy những ngọn cây nhô lên, còn có một con chim có cái ức đỏ bay vào đó nữa.
    Cô trông mong ông già nói ra điều gì, nhưng ông già chẳng nói gì cả. Thay vào đó, ông quay mặt về hướng vườn cây ăn trái rồi huýt gió. Đột nhiên cô nghe có tiếng vù vù ở trên đầu, lạ lùng cô ngửng lên xem. Chim Ức Đỏ! Nó đáp ứng với tiếng huýt gió của ông già mà tới đây!!
    Mary ngắm nhìn con chim khi nó lượn quanh ông già. Thật là một con chim nhỏ xinh xắn, thân thiện!
    Người làm vườn ngắm con chim bay lượn một hồi, rồi quay qua nói chuyện với Mary:
    -Có phải cô là cháu gái của Ngài Craven ở India mới qua?
    Mary gật đầu thay cho câu đáp, rồi hỏi:
    - Ông là ai?
    Người làm vườn đáp:
    -Ben Weatherstaff. Tay chỉ con chim ông tiếp "Và chim này ở đây là bạn độc nhất của tôi."
    Mary đưa tia mắt mến mộ chăm chú nhìn con chim nhỏ đang mổ tìm đồ ăn dưới đất. Cô thú thật:
    -Tôi không có bạn. Tôi chưa hề có một người bạn nào. Ngay cả Ayah của tôi cũng không ưa tôi, và tôi thì chưa bao giờ chơi với bất cứ ai.
    Ben Weatherstaff trợn mắt nhìn Mary. Cô ta rõ ràng là một cô bé rất cô đơn. Nhìn thấy khuôn mặt xanh xao, gầy ốm và đôi mắt sầu buồn của cô, ông không khỏi cảm thấy thương hại cô.
    Bỗng con chim cất tiếng hót líu lo rồi đậu lên một nhánh cây ngay bên cạnh Mary. Già Ben thích chí cười vui, nói với Mary: "Hình như bây giờ cô có bạn rồi đó nhé!"
    Mary đưa tay ra muốn làm quen nhưng con chim nhỏ bay đi mất, bay qua các khu vườn, và biến mất bên bức tường vườn cây ăn trái.
    Mary hỏi Già Ben:
    -Có phải nó ở trong cái vườn đó không? Cái vườn bên kia bức tường cao đó.
    Già Ben đáp:
    -Có lẽ thế. Giữa những cây hoa hồng.
    Mary hồi hộp hỏi dồn:
    - Ồ! Có những cây hoa hồng nơi đó nữa sao? Ông có từng vào đó không?
    Già Ben lượm cái xẽng lên vừa đào đất tiếp vửa lẩm bẩm:
    -Đã lâu lắm rồi.
    Bất ngờ Mary tuyên bố:
    -Tôi muốn xem khu vườn đó. Cửa vào ở đâu? Chắc chắn phải có một cái cửa ở đâu đó!
    Già Ben có vẻ bất an, chuyển ngay đề tài:
    -Nghe này! Tôi phải làm việc lại đây. Còn cô, không nên dòm ngó quanh đây nữa! Cô đi đi! Tôi không có thì giờ cho cô nữa đâu.
    Ông vác cái xẽng lên vai rồi bỏ đi, không cả một lời chào biệt Mary.

CHƯƠNG 4: Bà Craven

   Trong những ngày sau đó, Mary bắt đầu quen dần với cách sống mới. Mỗi buổi sáng thức dậy cô ở bên Martha, xem chị ta tay đánh bóng đồ đạc, chuẩn bị đồ ăn điểm tâm mà miệng thì huyên thiên kể về anh chị em của chị. Mary đặc biệt rất thích nghe kể về Dickon.
    Sau khi ăn điểm tâm là Mary lại một mình ra chơi bên ngoài. Cô thám hiểm những khu vườn mênh mông, mỗi ngày lại tìm ra một lối đi mới, thấy một loại hoa hay một loài chim mới.
    Đâu chừng một tuần sau, một buổi chiều kia Martha đã kêu lên:
    -Khí trời tươi mát hợp với cô quá!
    Mary đồng ý với Martha. Đôi má của Mary đã ửng hồng và Mary cảm thấy mạnh khỏe hơn bao giờ hết.    Cô trông khác hẳn cái cô bé rầu rĩ, khó ưa mà bà Medlock đã gặp ở nhà ga xe lửa trước đây. Cả mái tóc của cô trông cũng óng ả ra.
    Bác của Mary đi du lịch nước ngoài vẫn chưa thấy về. Mary thầm hỏi không biết ông sẽ về hay không. Cô cũng thắc mắc không biết ông nghĩ thế nào về cô. Cô nghĩ có thể là ông đã biết ông không ưa cô được. Có thể bố mẹ cô đã kể cho ông nghe về bản chất lãnh đạm của cô rồi. Có lẽ vì thế mà ông tránh xa, không muốn về gặp cô.
    Trong lúc hoang mang, Mary muốn tìm quên bằng cách để tâm trí vào việc tìm kiếm cái vườn bí mật kia. Tìm hoài mà chẳng thấy cánh cửa khóa, dù đã đi dọc theo bức tường cao kia ngày này sang ngày nọ. Ông già Ben Weatherstaff đã nói là không có cửa nào. Nhưng, Mary nghĩ, chắc chắn phải có cánh cửa đâu đó! Bác cô đã chôn chìa khóa cửa đó mà!
    Điều bí ẩn ám ảnh tâm trí cô, làm cho cô hiếu kỳ đến nỗi hầu như chỉ còn để ý, lo tìm cho được cánh cửa mà thôi. Khi còn ở India, Mary có bao giờ quan tâm đến chuyện gì đâu.
    Mỗi tối, khi mà Martha chuẩn bị bữa ăn cho cô, Mary lắng nghe thêm chuyện chị tớ gái này kể về Dickson cùng với những con thú bạn của cậu ta ở bãi hoang. Một buổi tối, Mary làm gan hỏi Martha:
    -Vì sao mà bác ta ghét cái vườn đó vậy?
    Martha giải thích:
    -Nó là vườn của Bà Craven. Bà tạo ra khu vườn ấy khi hai ông bà cưới nhau. Họ thường cùng nhau đi dạo trong vườn, ngồi với nhau hàng giờ nơi cái chạc cây có hình dạng giống một chiếc ghế. Họ yêu khu vườn thế đó! Nhưng bỗng một ngày, Bà Craven bị té từ trên cây xuống đất khi cái chạc cây ấy bị gãy. Bà bị thương nặng, đã chết ngay ngày hôm sau. Đó là lý do vì sao Ngài Craven ghét hận cái vườn đến thế. Đó là lý do tại sao ông ấy khóa kỹ nó lại, không cho bất cứ ai vào đó nữa.
    Đăm đăm nhìn ánh lửa nơi lò sưởi trong phòng, Mary nghĩ đến bác của cô. Một câu chuyện thật là buồn. Bác của cô chắc hẳn đã cảm thấy cõi lòng tan nát khi vợ ông mất. Ngoài khung cửa sổ, gió đang gào rú, đưa vào phòng cơn lạnh buốt cả lưng Mary.
    Bỗng Mary nghe một tiếng gì rất lạ xen trong tiếng gió hú. Tiếng đó rất giống tiếng gió, nhưng mà không phải. Mary hồi hộp. Đó là tiếng một người nào đó đang than khóc. Mary hỏi Martha:
    -Chị có nghe tiếng ai đang khóc hay không?
    Martha, nhìn đi nơi khác với vẻ căng thẳng, đáp vội:
    -Không có. Tiếng cô nghe chỉ là tiếng gió thôi.
    Mary khăng khăng:
    -Chị nghe đi! Tiếng khóc từ nơi nào đó dọc theo một trong những hành lang dài ngoằng kia ở ngay trong nhà đó!
    Ngay lúc đó, một cơn gió mạnh thổi tới, chắc đã mở bung cánh cửa nào đó phía bên kia căn nhà to lớn.    Tiếng khóc vọng lại nghe càng lớn hơn nữa.
    Mary bảo Martha:
    -Thấy chưa! Ta đã nói rồi mà. Đó là tiếng người nào đó đang khóc lóc. Nghe như tiếng ... một đứa trẻ con.
    Martha nhảy dựng lên, chạy vội ra đóng cửa phòng Mary lại. Mặt đanh lại, chị ta bảo:
    -Đó là tiếng gió. Nếu không phải tiếng gió thì có lẽ là tiếng khóc của chị nuôi gà tên là Betty Butterworth. Chị ấy bị đau răng suốt ngày hôm nay!
   Nét mặt của Martha có một vẻ gì đó, làm cho Mary biết ngay là chị ta đang sợ hãi, đang cố tình che giấu điều gì.

CHƯƠNG 5: Tìm Được Chìa Khóa Vườn

   Sau ít ngày mưa liên tục, cuối cùng trời cũng tốt đủ cho Mary đi chơi ngoài trời. Ăn xong điểm tâm là Mary vội vã ra khỏi nhà. Một bầu trời trong xanh tươi sáng chào đón cô.
    Trước hết Mary chạy quanh cái vườn hoa sau trang viện mười lần. Sau đó cô chạy tiếp đến những khu vườn của nhà bếp. Sau thời gian dài bị giam hãm một chỗ, năng lượng trong người cô thật là dồi dào.
    Chạy quanh một hồi, cuối cùng cô ngừng lại khi thấy Ben Weatherstaff. Ông ấy chào Mary bằng câu nói:
    -Mùa xuân đang tới. Cô có ngửi thấy không?
    Mary hít thật sâu. Phải rồi. Cô ngửi thấy hương xuân đang tới. Cô mỉm cười. Ý tưởng về mùa xuân làm cô háo hức. Thật là khôi hài, cô nghĩ thầm, cả đời cô trước đây, có bao giờ nôn nao về bất cứ điều gì đâu chứ.
    Mary đứng yên, mắt nhắm lại mặt hướng về phía mặt trời. Bỗng cô nghe có tiếng cành cây xào xạc rất nhẹ và tiếng chim hót. Cô biết đó là tiếng chim bạn của cô.
    Mở mắt ra nhìn thì quả thật là chú chim nhỏ đang nhảy nhót trên một cành cây gần bên. Mary vui mừng vỗ tay. Cô run lên vì hồi hộp khi chú chim bay đến gần cô quá như thế. Mary sung sướng la lên:
    -Nó nhớ ta rồi!
    Ngay giây phút đó Mary tự nghĩ có lẽ nước Anh không tệ như cô nghĩ lâu nay. Ngay chính ở đây ở nước Anh, ở Misselthwaite Manor, cô đã tìm được những người để mến thích. Trước đây Mary chưa bao giờ thích ai cả, nhưng bây giờ cô đã có cảm tình với Martha và em trai Dickon của chị ta, dù chỉ mới nghe qua chứ chưa hề gặp mặt. Và rõ ràng nhất là cô yêu thích chú chim nhỏ này!
    Hót lên một tiếng, con chim cất cánh, bay về phía vườn cây ăn trái. Mary chạy theo nó. Con chim đậu trên một cành cây cao hót líu lo, cái đầu lắc qua lắc lại. Nó thật là xinh, với lớp lông trông giống một chiếc áo khoác bóng láng và cái ức phồng lên đầy vẻ kiêu hãnh thế đó khi cất tiếng hót. Rồi, nó vụt bay đi, lần này thì đậu trên một cành cây khác dọc bức tường. Mary vui mừng hớn hở khi nhận ra là con chim muốn cô đi theo nó. Cô nhảy theo nó, hót trả theo nó, giã vờ như đang nói tiếng chim với nó. Cô mỉm cười và nghĩ thầm: "Mình cũng đang nói chuyện với thú vật giống như Dickon đây mà."
    Con chim bay đâu thì Mary theo đó, cho đến khi nó đậu xuống bên cạnh một đống nhỏ đầy đất mới đào. Cạnh đó là một lỗ sâu dưới mặt đất.
    Mary nhìn vào cái lỗ. Có cái gì đó giống như bằng kim loại lồi lên một nửa trong cái lỗ. Cô sửng sốt khi lôi nó lên, nhận ra đó là một chiếc chìa khóa, một chiếc chìa khóa cũ rích như thể đã bị vùi ở đó từ lâu lắm rồi.
    Mary hồi hộp đến nghẹt thở. "Phải nó không đây?" Cô hỏi con chim: ""Cái chìa khóa ta đang cầm đây có phải là chìa khóa để mở khu vườn bí ẩn không?"

I II III IV

The Secret Garden
Frances Hodgson Burnett sáng-tác
Devra Newberger Speregen phóng-tác
Ái Hoa phỏng-dịch