"Làm trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chứ sao chịu bo bo làm đầy-tớ người!" ** Lê Lợi **

 

Ăn Cay,Trái Ớt và Sức Khoẻ

 

16ahvhien --- act1

Fig 1: Capsicum frutescens (Wikipedia)

Nhiều người Việt thích ăn cay, nhất là một số món ăn Huế như bún bò. Ở Huế vào giữa thế kỷ thứ 20, một số người Thượng hay đi về thành phố bán những thúng "ớt bột" màu đỏ rất cay và đẹp (crushed red pepper flakes). Ở Huế thời đó cũng trồng những trái ớt nhỏ và cay gọi là "ớt mọi". Tuy nhiên, cây ớt (Capsicum) xuất xứ từ châu Mỹ và người ta đã ăn ớt gần 10.000 năm nay. Christopher Columbus "khám phá" ra châu Mỹ và là người Âu đầu tiên tìm ra trái ớt. Một giáo sĩ đem ớt. về châu Âu vào năm 1494. Người Pháp gọi ớt là "piment" (sắc tố) để chỉ những màu ớt khác nhau: xanh lá cây, vàng, đỏ, cam.

16ahvhien --- act2

Fig. 2: Hạt tiêu: Black, white, red and green peppers

Trong tiếng Anh, "chili pepper" được dùng để đối với "black pepper"(Piper nigrum) là hạt tiêu, cũng cay, được người Âu biết đến từ lâu, nhưng đắt tiền vì phải nhập cảng từ những vùng nhiệt đới. Từ "pepper" do gốc chữ Phạn pippali (=berry, peppercorn), qua Hy Lạp peperi, qua La Tinh thành piper, rồi qua tiếng Anh xưa là piper hay pipor. Thời Christopher Colombus gọi cây ớt thấy ở biển Caribe là "pepper" vì nó cay giống tiêu, chứ thật ra hai cây này khác nhau, từ đó phân biệt "red pepper" (ớt) với "green pepper" , “black pepper” , “white pepper” là tiêu: trái tiêu xanh lúc mới chín, sau khi trái chín đỏ phơi 3 ngày thành tiêu đen, tiêu trắng là tiêu màu đỏ thật chín được bóc bỏ vỏ (fig: 2)

Độ cay của ớt được đo bằng đơn vị Scoville, do tên của dược sĩ Mỹ Wilbur Scoville, người thành lập Scoville Organoleptic Test (1912). Chất cay được pha loãng tới mức loãng nhất mà các chuyên gia nếm còn phát hiện được. Ớ yếu nhất chừng 0- 100 đơn vị, cay nhất chừng 1-2 triệu đơn vị (ớt Carolina Reaper)

Các tu sĩ trồng cây ớt làm cây trang trí trong các tu viện, sau đó thử dùng trong nấu ăn và dần dần ớt thay thế tiêu như là món gia vị dễ trồng và rẻ tiền hơn và sau đó được các thương nhân người Bồ Đào Nha (Portugal) đem phổ biến qua châu Á, qua ngã Ấn Độ, sau đó cây ớt đi về hướng Đông Nam Á Châu (vùng Việt nam chúng ta), về phía tây Á, qua Turkey và đi tuốt lên Hungary. Các giáo sĩ công giáo đem trái ớt qua Nhật, va sau đó ớt được đem qua Hàn Quốc (Triều Tiên). Hiện nay Ấn Độ là nước sản xuất ớt nhiều nhất thế giới, và món ăn các vùng Tây Á, Turkey và Hungary đều dùng nhiều ớt.. Theo các sử gia Tây ban Nha (Spain) thì người Tây Ban Nha đem ớt từ Mexico qua Philippines là thuộc địa của họ, từ đó qua Ấn dộ, Trung Hoa, indonesia. Tuy nhiên, gần đây hơn, có khảo cứu của Hakon Hjelmqvist (1995) cho thấy cây ớt Capsicum frutescens đã có mặt ở châu Âu từ thế kỷ thứ 13 (khai quật ở thành phố Lund, Sweden), có lẽ đem từ châu Á sang, ngay cả trước khi Christopher Columbus qua Châu Mỹ (cuối thế kỷ 15), và có thể cây ớt đã được nhắc đến trong các cổ thư Hy Lạp 2-3 thế kỷ trước công nguyên. Gần đây người ta nghi là hàng chục ngàn năm trước có thể đã từng có những cuộc di dân, những trao đổi văn hoá giữa phía đông Á châu (trong đó có Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác ), các dân Polynesian của các hải đảo Thái Bình Dương và các dân "da đỏ" của Châu Mỹ (prehistoric transpacific contacts)[7]. Cho nên biết đâu cây ớt lại có thể đã có sẵn trong vùng châu Á chúng ta trước khi Columbus đi từ Âu Châu khám phá ra châu Mỹ.

Các tế bào thần kinh phụ trách cảm giác ngoài da hay trong niêm mạc miệng chúng ta có những thụ thể (receptor) đặc biệt được kích hoạt lúc tiếp cận với sức nóng (trên 43oC), các proton (dung dịch acid), hay lúc da bị trầy trụa. Các thụ thể này làm cho tế bào thần kinh cảm giác gởi một dòng điện vào não bộ , não bộ chúng ta diễn dịch thành một cảm giác nóng, đau và rát lúc da bị phỏng, trầy trụa. Chất capsaicin của ớt (cũng như chất allyl isothiocyanate trong mù tạc [mustard]hay wasabi (ăn sushi)) có khả năng kích hoạt các thụ thể này và não bộ chúng ta diễn dịch thành một cảm giác rát và nóng, tuy trên thực tế chất capsaicin không gây tổn thương nào cả trên da hay lưỡi. Não bộ đáp ứng lại bằng cách gia tăng nhịp tim, tăng bài tiết mồ hôi và sản xuất endorphin (viết tắt của “endogenous morphine”, một chất ma tuý thiên nhiên trong cơ thể có tác dụng gây khoái cảm, giảm đau, tương tự như morphin trích từ thuốc phiện). Endorphin là những chất do não bộ và tuyến hypophysis nằm dưới não bộ sản xuất, có cơ năng ngăn chặn cảm giác đau đồng thời tạo nên một cảm giác khoái lạc (euphoria), tương tự như tác dụng của thuốc phiện. Cơn rát miệng, cay cũng như những hình thức đau đớn khác (như chạy marathon đường trường rất khổ cực và đau nhức, khổ dâm) làm não bộ sản xuất endorphin, làm cho con người có thể đi tìm những loại đau đớn, khổ sở tương tự để hưởng được phần khoái cảm do endorphin, cùng với những chất khác như anandamide , epinephrine đem lại. Anandamide là một chất khác của cơ thể làm giảm đau và tăng khoái cảm, tên do từ tiếng Phạn Ananda có nghĩ là niềm vui, khoái cảm. (Hình 4).

Gần đây một khảo cứu gần nửa triệu người Trung Quốc [1, 2] cho thấy những người ăn cay được rất nhiều điểm lợi cho sức khoẻ. Ăn cay ( ớt, chili pepper) 1-2 lần một tuần liên hệ đến giảm tử vong đến 10%, ăn 3-7 lần/tuần tử vong 14% thấp hơn người không ăn ớt. Ung thư, bịnh tim do thiếu máu nuôi tim (ischemic heart diseases) cũng thấp hơn và áp dụng cho cả nam lẫn nữ.

Các nhà nghiên cứu theo dõi trong 7 năm hồ sơ của 485 ngàn người Tàu theo dõi cách họ ăn thịt đỏ (heo, bò), ăn ớt, rau cải và uống rượu. Những người bị bịnh tim, ung thư, tiểu đường từ lúc đầu bị loại ra khỏi khảo cứu này (để loại những trường hợp người bịnh sẳn, sức khoẻ kém nên không ăn ớt, do đó ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu). Kết quả cho thấy là những người không uống rượu sức khoẻ tốt hơn cả. Những người ăn cay, phần lớn là do trái ớt, có tỷ lệ ung thư, đau tim , bịnh đường hô hấp thấp hơn nhóm không ăn cay. Ăn ớt trái tươi có tác dụng sức khoẻ nhiều hơn là ăn ớt đã chế biến hay bảo quản.

Lu Chi, tác giả khảo cứu này, cho biết ớt làm giảm viêm, giảm tỷ trọng mỡ trong cơ thể (adiposity), biến đổi các vi trùng trong ruột liên hệ đến bịnh tim mạch, bịnh mập và bịnh tiểu đường. Tuy nhiên chúng ta chưa hiểu cơ chế chính xác của các tác dụng này.

Chúng ta biết trong trái ớt có chất capsaicin là có dược tính có ích như chống oxy hoá, chống ung thư, chống mập, chống bịnh huyết áp cao, chống viêm [2]. Tuy nhiên , một điều nên để ý là vì ăn cay dễ xót ruột, chúng ta nên tránh ăn quá nhiều cơm, và do đó dễ mập.

16ahvhien --- act3

Fig 3: Món ăn Tàu điển hình: thịt gà, ớt trái, mè tiêu và hành

(Chongqing diced chicken with roasted chili peppers, sichuan peppercorns, sesame seeds, and green onions)

Người tây phương đặt câu hỏi là không biết các kết quả này có áp dụng cho người da trắng, người sống ở Mỹ hay Châu Âu hay những nơi ngoài Trung quốc hay không, những nơi mà cách nấu nướng cũng có thể khác hẳn và môi trường sống cũng khác. Do đó cần làm nghiên cứu tương tự trên dân số vùng khác. [1]

Trong khảo cứ nêu trên ở Trung quốc, yếu tố chính là ớt. Tuy nhiên, có những khảo cứu khác về ích lợi của các thức ăn "cay" (spicy). Một trong những nhận xét quan trọng là các nước ăn cay như Án Độ (ví dụ cà ri), châu Phi và Á đông có tỷ lệ ung thư ruột già (colorectal cancer) thấp hơn nhiều so với các nước phát triển như Âu châu, Mỹ, hay Australia. Ở Mỹ ung thư ruột già là ung thư gây chết người thứ hai sau ung thư phổi. Ví dụ tỷ số ung thư ruột già ở Nigeria thấp hơn 10 lần so với bang Connecticut của Mỹ. Thức ăn nhiều gia vị và cay (spicy and hot) chỉ là một trong nhiều yếu tố có ích trong vấn đề này, ngoài ra, nói về ẩm thực, còn có những yếu tố khác như số lượng các chất sợi (fibers) trái cây, rau cải đóng vai trò che chở. Ngược lại, ăn nhiều thịt đỏ, thịt nướng làm tăng cơ nguy. Thịt nấu quá lâu ở nhiệt độ trên 180o C chứa chất heterocyclic amines (HCA), thịt nướng (grilled, barbecued meat) chứa nhiều polycyclic aromatic hydrocarbons [PAH) do mỡ cháy trong lửa và bay hơi lên. HCA và PAH đều có tác dụng gây ung thư. Ngay trong các thành phần để tạo nên món ăn "cay", ngoài ớt trái còn có các món khác có thể có ích che chở cho sức khoẻ nhờ những “chất dinh dưỡng thực vật” (phytonutrients) có tác dụng chống ung thư và chống oxy hoá. Ví dụ: curcumin (diferuloylmethane) trong nghệ (turmeric),diallyl sulphide trong hành và tỏi (theo Irabor [5])

Đối với người Việt chúng ta, dù sao đây cũng là một tin mừng cho những người ăn cay. Về di truyền, nguồn gốc, ẩm thực chúng ta gần người Trung quốc hơn và có cơ may là kết quả về tác dụng tốt của các món gia vị cay cũng áp dụng cho chúng ta. Tuy nhiên, nên chú ý là các tác dụng có ích này của trái ớt được thấy rõ rệt nhiều nhất ở nhóm người không uống rượu, và chúng ta cần nhắc nhở nhau là hiện nay người Việt uống rượu hay bia càng ngày càng nhiều. Đối với những người Việt sống lâu năm ở Mỹ và thích ứng nhiều hơn với ẩm thực dòng chính của Mỹ (nhiều thịt, ít gia vị, ít ớt), cũng nên nhắc ở đây là cơ nguy của những bịnh trước đây ít gặp ở Việt Nam như ung thư ruột già của người di dân cũng sẽ ngang hay gần như người gia trắng, và chúng ta cần cảnh giác tuân theo nhiều hơn các biện pháp truy tầm ung thư được các bác sĩ khuyến cáo, nhắc nhở; ví dụ tìm máu trong phân (fecal occult blood testing/FOBT), soi ruột già/colonoscopy [6].

16ahvhien --- act4

Hình 4: Chất capsaicin trong trái ớt tác động trên các receptor TRPV1 của các nociceptors (thụ thể bình thường bị kích thích do nhiệt [heat], phụ trách cảm giác nóng); cho phép các ion Calcium (Ca++) và Sodium (Na+) đi vào tế bào thần kinh. Sau đó nociceptor phát ra chất P (substance P), kích thích các tế bào thần kinh kế tiếp để đem tín hiệu vào đến não bộ, cho biết là vùng này đang bị nóng (hay là cay cho thực phẩm), mặc dù nhiệt độ tại chỗ không tăng. Sau cảm giác cay/nóng lúc đầu, vùng này mất cảm giác vì các chất P đã bị dùng hết, kiệt quệ, nên lúc đó bịnh nhân không còn thấy đau nữa. Cảm giác cay, nóng làm não bộ và tuyến hypophysis nằm dưới não bộ sản xuất endorphin, là những chất có cơ năng ngăn chặn cảm giác đau đồng thời tạo nên một cảm giác khoái lạc (euphoria), tương tự như tác dụng của thuốc phiện.

References:

  1. http://www.businessinsider.com/health-benefits-of-eating-spicy-food-2015-8
  2. "The beneficial roles of capsaicin have been extensively reported in rePMC2505345/lation to antiobesity, antioxidant, anti-inflammatory, anticancer, and antihypertensive effects, and in improving glucose homeostasis, largely in experimental or small sized population studies."
  3. http://www.todayifoundout.com/index.php/2014/05/difference-black-white-red-pepper/
  4. Chili Pepper in Wikipedia
  5. http://www.hindawi.com/journals/jce/2011/675154/
  6. Bang H. Nguyen. Colon Cancer Screening in Vietnamese Americans.

http://www.bmj.com/content/351/bmj.h3942

http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/

     7) Schneider H. K. Prehistoric Transpacific Contact and the Theory of Culture Change

http://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1525/aa.1977.79.1.02a00020/pdf

Bác sĩ Hồ Văn Hiền

(Hien V. Ho, MD)

Ngày 28 tháng 8 năm 2015

Ngày 20 tháng 11 năm 2015

(Submitted to Lang Hue 3/1/2016)