Rối loạn Phổ Tự kỷ (ASD) và Quan niệm Phát triển Thần kinh Ngoài Lề (Neurodivergence)
Hình 1: Nhiều nhân vật nổi tiếng có phát triển thần kinh khác thường (neurodivergent) có bộ não xử lý thông tin và hoạt động khác với những người được coi là "điển hình/typical" hoặc " thần kinh điển hình/neurotypical" trong xã hội. 1
Thiên hạ thường hay nói dại khôn
Biết ai là dại, biết ai khôn?
Khôn nghề cờ bạc là khôn dại,
Dại chốn văn chương ấy dại khôn.
Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng bờm chẳng lấy trâu...
Phú ông xin đổi nắm xôi bờm cười.
(Ca dao)
Sau nhiều thập kỷ được biết đến phần lớn qua những biểu hiện "kỳ lạ" hoặc qua nỗi ám ảnh của các bậc cha mẹ và chuyên gia giáo dục, chứng tự kỷ hiện nay đã trở thành một chủ đề thu hút sự chú ý đặc biệt trong xã hội hiện đại. Tỷ lệ chẩn đoán tự kỷ trên toàn cầu tăng mạnh trong 20 năm qua, không chỉ nhờ nhận thức xã hội và tiêu chuẩn chẩn đoán mở rộng mà còn bởi những lý do xã hội, bao gồm nhu cầu đáp ứng các tiêu chuẩn để nhận hỗ trợ bảo hiểm hoặc các phúc lợi an sinh xã hội cho người khuyết tật. Thực tế, ở Mỹ có những trường hợp ranh giới giữa một rối loạn nhẹ và những biểu hiện cá tính độc đáo bị chồng lên nhau để tạo nên một chẩn đoán tự kỷ có vẻ dứt khoát chỉ vì mục đích cho đứa trẻ được chính phủ hoặc hãng bảo hiểm hỗ trợ tài chính hoặc giáo dục đặc biệt miễn phí (special education, trị liệu ABA therapy rất đắt tiền)– một hiện tượng mà nhiều chuyên gia gọi là “chẩn đoán vì quyền lợi” (“diagnosing for dollars”) 2
Điều quan trọng hơn, tự kỷ không chỉ là một tập hợp các hạn chế chức năng về tâm trí và xã hội – nó còn ghi nhận những nét khác biệt góp phần tạo nên các cá nhân xuất sắc, có phần dị biệt nhưng đi đầu trong sáng tạo, tư duy phản biện và công nghệ. Nhiều nhà khoa học, nhà sáng lập vĩ đại như Bill Gates, Steve Jobs, hay Albert Einstein được cho là mang các đặc điểm thuộc phổ tự kỷ. Những tố chất gây cản trở cho một số mặt xã hội đồng thời làm trỗi dậy khả năng vượt trội về phân tích, tư duy hình ảnh, sáng tạo hoặc trí nhớ xuất chúng – hội tụ thành những thiên tài hiếm có và đóng góp lớn cho văn minh nhân loại.
Khởi đầu từ sự kết hợp giữa yếu tố “khuyết tật” và năng lực nổi trội, lịch sử và hiện tại của tự kỷ là một bức tranh phức tạp, vừa hé lộ các vấn đề xã hội vừa mang sắc thái ngưỡng mộ, thôi thúc xã hội suy nghĩ lại về bản chất của sự khác biệt và tiềm năng con người. Bài viết này mở ra hành trình tìm hiểu về tự kỷ với các góc nhìn y học, xã hội và nhân văn, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc phát hiện và định danh đúng, nhằm vừa bảo vệ quyền lợi, vừa khích lệ và phát triển nhân tài cho cộng đồng hiện đại.
Một trường hợp lịch sử: A Lưu
A Lưu là tên tiểu đồng của ông Chu Nguyên Tố. Nó thật ngây ngô, chẳng được việc gì cả. Vậy mà Chu Nguyên Tố vẫn nuôi nó suốt đời.
Lúc ông bảo nó quét nhà, nó cầm chổi quanh quẩn suốt buổi mà không sạch được cái buồng con. Ông giận, mắng, thì nó quăng chổi, lẩm bẩm: "Ông quét giỏi thì phiền đến tôi làm gì?". Khi ông đi vắng, sai nó chực ngoài cửa, dù khách quen đến, nó cũng không nhớ được tên ai. Có hỏi thì nó nói: "Người ấy lùn mà béo." – "Người ấy lùn mà lắm râu." – "Người ấy xinh đẹp." – "Người ấy tuổi cao và chống gậy." Đến lúc nó liệu chừng không nhớ xuể, nó đóng cửa lại, không cho ai vào nữa.
Trong nhà có một ít đồ cổ như chén, lọ, đỉnh, đôn. Khách đến chơi, nó đem bày ra cho xem. Lúc khách về, nó lẻn đến gõ các thứ ấy mà nói: "Những thứ này có khi bằng đồng, mà sao nó đen sì như thế?". Rồi nó chạy đi lấy cát, lấy đá, nước để đánh.
Nhà có cái ghế gãy chân, ông sai nó đi chặt cây có chạc để chữa lại. Nó cầm búa, cưa, đi khắp vườn. Hết ngày, nó về, nó chìa hai ngón tay làm hiệu mà nói: "Cành cây có chạc đều chĩa lên cả, không có cành nào chúc xuống đất." Cả nhà đều cười.
Trước sân có vài cây liễu mới trồng. Ông sợ trẻ láng giềng đến nghịch hỏng, sai nó trông nom giùm. Đến lúc nó vào ăn cơm, nó nhổ cả cây lên mà cất đi một chỗ.
Công việc nó làm nhiều chuyện đáng cười như thế cả.
Ông Chu Nguyên Tố là người viết chữ chân tốt mà vẽ lại giỏi lắm. Một hôm ông hòa phấn với mực để vẽ. Thấy A Lưu, hỏi đùa: "Mày vẽ được không?". A Lưu đáp: "Khó gì mà không được!". Ông bảo vẽ, A Lưu vẽ nét đậm, nét nhạt, nét xa, nét gần, như người xưa nay vốn đã biết vẽ. Ông thử luôn mấy lần, lần nào A Lưu cũng vẽ được như ý. Từ bấy giờ, ông dùng đến A Lưu luôn, không lúc nào rời.
Sau, A Lưu nổi tiếng là một nhà danh họa. (Lục Dung ) 3
Ngay trong văn chương truyền khẩu của giới bình dân, chúng ta cũng đã từng để ý và nêu lên tính tương đối và tình trạng khó định nghĩa của cái dại và cái khôn, nghĩa là định nghĩa thế nào là “trí thông minh,” thế nào là thái độ, hành động thông minh ở một đứa trẻ nói riêng, ở một con người nói chung.
Câu chuyện A Lưu trên đây về một đứa trẻ tuy chậm phát triển về năng khiếu ngôn ngữ cũng như về giao tiếp xã hội lại có tài năng về hội họa tới mức thiên tài cho thấy từ rất xa xưa, các nhà văn hoặc nhà triết học cũng đã từng để ý tới những trường hợp phát triển khác thường (atypical) hay không điển hình (non-typical) của trẻ em, đồng thời ghi nhận những khả năng đặc biệt nơi những đứa trẻ rất chậm, rất khờ, hoặc đôi khi đần độn trong các lĩnh vực khác. Tuy nhiên, trong nhi khoa hiện đại, chỉ mới gần đây, sau một thời gian dài chỉ chú trọng sức khỏe thể chất, y giới cũng như cha mẹ các cháu bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến sự phát triển tâm lý gồm trí thông minh, tình cảm và tính cách của các em.
Trong xã hội hậu kỹ nghệ ngày càng cạnh tranh, sự thành công ở học đường (mức học vấn, bằng cấp, tên tuổi trường từ mẫu giáo đến đại học) là chìa khóa cho tương lai sáng sủa. “Trí thông minh” thật khó định nghĩa khách quan và chính xác, đến nay thường được xem như đồng nghĩa với “mức độ thành công học đường” của các em, coi như khả năng thiên phú, phần lớn do di truyền, phần nhỏ hơn do hoàn cảnh quyết định. Đứa trẻ viết văn hay, làm toán giỏi, vâng lời thầy cô được chứng nhận thông minh, lớn lên có bằng cấp hoặc chức vị cao, làm chuyên viên cấp cao với thu nhập nhiều. Trẻ học kém thường được xem là không có triển vọng thành công xã hội về địa vị và tài chính.
Tuy nhiên, ngày càng nhiều người nhận thấy việc căn cứ thành công học đường để tiên đoán tương lai thành công xã hội thường không ổn. Có người học giỏi trường lớp nhưng ra đời bị chê là có hành động "ngốc". Có người có bằng cấp cao, giỏi kỹ thuật, nhưng tính tình gàn bướng, không hiểu tâm lý người khác, không biết giao tiếp phù hợp xã hội, nên thất bại ngoài đời. Ngược lại có kẻ học kém, thi cử lận đận, không thấu hiểu ý niệm trừu tượng đòi hỏi trong học đường, nhưng có tài năng, kỹ năng về tính toán và trí nhớ xuất sắc trong lĩnh vực hẹp, giúp họ thành công đời sống (ví dụ trí nhớ ngoại hạng giúp người bán hàng nhớ tên tuổi, sở thích khách hàng). Hoặc học dở nhưng có khiếu giao tiếp hiểu nhanh các điệu bộ, biểu lộ không lời quan trọng trong giao tiếp hàng ngày cũng như thương trường. Một số trẻ rõ ràng chậm phát triển đôi khi có tài năng độc nhất vô nhị về toán học, âm nhạc, hội họa, như danh họa A Lưu. Những trường hợp này khiến ta nghĩ đến quan niệm “bỉ sắc tư phong” được Nguyễn Du nhắc trong Truyện Kiều: dù kém hoặc thiệt thòi về mặt này, ta vẫn có thể khá về mặt khác, hoặc ngược lại. Đồng thời, nhắc nhở cha mẹ và giáo dục thấy tính phức tạp vấn đề, tránh bi quan dán nhãn tiêu cực lên đời sống em bé không phát triển theo mẫu thông thường, đồng thời khai thác điểm mạnh và hỗ trợ khắc phục điểm yếu, giúp thích ứng với cuộc sống phong phú, hữu ích xã hội.
Hình 2: “Neurodivergence”: Từ này không phải là thuật ngữ y học (non-medical term) mà là một từ ngữ xã hội bao gồm một loạt các khác biệt về thần kinh và phát triển thần kinh , chẳng hạn như tự kỷ (autism), ADHD (thiếu chú ý và tăng hoạt động) và chứng dyslexia (khó khăn đọc chữ), và thừa nhận rằng những biến thể này không phải là khiếm khuyết cố hữu (deficit) hay những tình trạng bệnh lý mà chúng là đại diện cho những cách thức hoạt động đa dạng của não bộ con người. Những người neurodivergent có thể có những điểm mạnh và kỹ năng đặc biệt riêng biệt bên cạnh những thách thức riêng biệt. 4
Rối loạn Phổ Tự kỷ (Autism Spectrum Disorder, ASD)
Ba bốn chục năm trước đây, phần lớn phụ huynh và bác sĩ chưa từng nghe về “Rối loạn Phổ Tự kỷ” (ASD), trước đây gọi là bệnh tự kỷ (autism), hội chứng Asperger, và rối loạn phát triển bao quát (PDD). Trong đó, sự phát triển trẻ bị rối loạn nhiều mặt.
Một số hiểu biết về lĩnh vực này đã thay đổi lớn quan niệm tâm lý, phát triển và giáo dục trẻ em.
Phát triển của trẻ
Mỗi trẻ có tính cách và nhịp phát triển khác nhau. Phát triển ngôn ngữ là khía cạnh quan trọng. Từ 6 đến 12 tháng, trẻ hiểu một số từ; lúc 1 tuổi hiểu mệnh lệnh ngắn hay câu ngắn (ngôn ngữ thụ động). Khoảng 12 tháng bắt đầu nói từ đơn giản; từ 2 đến 3 tuổi ngữ vựng 200-400 từ, dùng 2-3 từ trong câu; 3-4 tuổi ngữ vựng phát triển nhanh; đến 4 tuổi phần lớn nói đủ để người lạ hiểu.
Chậm phát triển ngôn ngữ
Một số trẻ phát triển ngôn ngữ chậm hơn, còn nhiều nghiên cứu. Một số trẻ khó khăn lúc đọc chữ (dyslexia) nhưng học dễ dàng hơn lúc nghe. Một số cuối cùng phát triển ngang trẻ khác. Thống đốc bang California Newsom học rất dỡ vì mắc chứng dyslexia và mẹ ông không cho ông biết vì sợ đứa bé dùng nó như là một cái cớ để biện minh sự thất bại của mình; ông vào được đại học nhờ chơi baseball giỏi. 5 Một số ít chậm nói vì nghe kém, nên không nghe rõ lời người khác, trở ngại tập nói. Hiện Virginia và nhiều tiểu bang quy định kiểm soát nghe sơ sinh và theo dõi khả năng nghe mỗi lần khám định kỳ.
Những trường hợp này dễ bị lầm lẫn với tự kỷ.
Rối loạn Phổ Tự kỷ
Một số trẻ chậm phát triển ngôn ngữ là dấu hiệu đầu của ASD, như không bập bẹ lúc 7-8 tháng; nói rất ít lúc lên 3 tuổi; trả lời theo cách lặp lại từ người hỏi (echolalia); hoặc phát âm tiếng khó hiểu.
Ngôn ngữ là một mặt, trẻ ASD thường hững hờ, không thích tiếp xúc, không thích nhìn mắt người bồng ẵm, thích đưa tay đòi bồng, bị đụng người thì người cứng đơ hay phản ứng khác thường. Lớn lên chơi một mình, như sống thế giới riêng biệt, thiếu hứng thú xã hội. Một số động tác lặp đi lặp lại như múa, vỗ tay, búng ngón, quay đồ vật; bị ám ảnh một mặt đồ vật; chú ý trật tự đồ vật nhỏ nhặt; rất gắn bó với thói quen, nếu thay đổi gây stress, bực mình.
Tương quan xã hội rộng lớn bị rối loạn sâu sắc. Trẻ như người máy, nét mặt không tình cảm, không hiểu hay biểu đạt cảm xúc. Ăn, ngủ thất thường; có thể gây tổn thương bản thân như đập đầu, tự cắn tay.
Trẻ cô độc, không bạn, chỉ thích bám vào một đồ vật vô tri. Trí nhớ phần nào xuất sắc, có thể nhớ chi tiết nhỏ như từ điển sống; thiên tài âm nhạc, hội họa có thể nghe/vẽ lại tức thì. Đây gọi là autistic savant thay cho idiot-savant cũ. Trẻ này có trí thông minh tổng thể thấp nhưng tài năng hẹp đặc biệt.
Các trường hợp trên cho ta hiểu sự đa dạng và tương phản trong biểu hiện ASD, từ rất nhẹ đến nặng. Nhiều dấu hiệu tinh tế, đôi khi chính người bệnh mới nhận ra.
Michael Fitzgerald, giáo sư tâm thần học, cho rằng một số "thiên tài" như Einstein có khả năng mắc hội chứng Asperger dựa trên các hành vi ghi nhận; nhưng không nên chẩn đoán hồi cứu (ngược thời gian).
Einstein có những dấu hiệu như: chậm nói đến 5 tuổi; khó trong tương tác xã hội; tập trung cao độ vào vật lý, toán học; bất tuân quy ước xã hội; thói quen kỳ lạ và lập dị; được gọi là "Hội chứng Einstein" bởi Thomas Sowell để mô tả trẻ chậm nói nhưng năng khiếu cao.
Bill Gates, sinh năm 1955, có thể mắc ASD dạng nhẹ (Asperger). Ông thừa nhận nếu ông lớn lên hôm nay vào thời đại này ông có thể được chẩn đoán như vậy. Con gái ông cũng xác nhận. Trong hồi ký 2025, ông mô tả sự tập trung mạnh, khó khăn để hiểu tín hiệu xã hội,những hành vi không phù hợp của mình.
Elon Musk, người giàu nhất thế giới, công khai nhận mình mắc hội chứng Asperger, tiết lộ trong chương trình “Saturday Night Live” 2021.
Tim Burton là một nhà làm phim và biên kịch, nổi tiếng với những tác phẩm nghệ thuật kỳ quặc và đáng sợ. Những tác phẩm nổi tiếng của ông bao gồm Beetlejuice, Edward Scissorhands, The Nightmare Before Christmas, Sweeney Todd, Corpse Bride. Ông đã giành được nhiều giải thưởng danh giá. Ông mắc chứng tự kỷ và nhiều người cho rằng thiên tài sáng tạo của ông chính là nhờ chứng tự kỷ.
Hình 3: Nhân vật kinh dị của Tim Burton: Beetlejuice là một tên trộm mộ trong thời kỳ Đại dịch Đen (The Black Plague), hắn đã kết hôn với một tín đồ tà giáo Dolores, người đã đầu độc hắn. Để tự vệ, hắn đã giết Dolores, nhưng chất độc mà hắn uống vào đã khiến hắn có ngoại hình kỳ dị và dẫn đến cái chết ở thế giới bên kia.
Andy Warhol (1928-1987) là một nghệ sĩ thị giác (visual artist) và đạo diễn phim, đồng thời là một nhân vật hàng đầu trong phong trào nghệ thuật thị giác được gọi là "nghệ thuật đại chúng". Các tác phẩm của ông nằm trong số những tác phẩm nghệ thuật bán chạy nhất, với giá trị lên tới 195 triệu đô la cho một tác phẩm. Bảo tàng Andy Warhol lưu giữ bộ sưu tập lưu trữ vĩnh viễn các tác phẩm của ông và là bảo tàng nghệ thuật cá nhân lớn nhất ở Bắc Mỹ.
Các chuyên gia nghiên cứu tác phẩm nghệ thuật, sổ tay và thư từ cá nhân của Warhol đã chẩn đoán ông mắc chứng khó khăn đọc chữ và tự kỷ. Họ tin rằng khuynh hướng lặp lại (repetition) trong hệ thần kinh đi ngoài lề (neurodivergence) của ông chính là nguyên nhân tạo nên những tác phẩm nghệ thuật vĩ đại của ông. 6
Hình 4: Campbell’s Soup Cans của Warhol, là một loạt 32 bức tranh được thực hiện từ tháng 11 năm 1961 đến tháng 6 năm 1962. Mỗi bức tranh cao 51 cm (20 inch) và rộng 41 cm (16 inch) và chứa một bức tranh vẽ một lon súp Campbell.
Về nghiên cứu mới về gen di truyền của tự kỷ: Phân loại Rối loạn Phổ Tự kỷ (ASD) dựa trên Gen và Đặc điểm Phát triển
Một nghiên cứu mới, do Aviya Litman và Olga Troyanskaya (Đại học Princeton) 7 thực hiện, cho thấy các biểu hiện khác nhau của phổ tự kỷ (ASD) liên hệ tới nguồn gốc di truyền phức tạp trong di truyền của nó. Mặc dù ASD có tính di truyền cao (60-80%), việc xác định nguyên nhân trên gen cụ thể cho từng cá nhân vẫn còn khó khăn, chỉ rõ ràng ở khoảng 20% người mắc ASD được xét nghiệm. Hiện tại, hàng trăm gen liên quan đến ASD đã được xác định, do đó nếu một cá nhân được chứng minh có một số gen liên quan tới ASD nhất định, khả năng người đó được chẩn đoán ASD sẽ cao hơn nhiều. Tuy nhiên, các nhà khoa học vẫn chưa thể kết nối một cách đáng tin cậy giữa các gen này với các đặc điểm của chứng tự kỷ và đường hướng phát triển cụ thể của nó.
Để làm sáng tỏ thêm những vấn đề này, nhóm nghiên cứu đã phân tích dữ liệu từ một nghiên cứu lớn theo dõi thông tin di truyền (genetic information), đặc điểm lâm sàng (traits) và sự phát triển (development) của 5.392 trẻ em mắc ASD trong độ tuổi từ 4 đến 18. Các nhà nghiên cứu đã đánh giá các em về khả năng giao tiếp xã hội, hành vi hạn chế và lặp lại (restrictive and repetitive behaviors), các mốc phát triển (developmental milestones) và nhiều yếu tố khác. Sử dụng mô hình máy tính (computer model), kiểm định thống kê và đánh giá lâm sàng, nhóm đã phân loại các em thành bốn nhóm chính dựa trên các mẫu đặc điểm và sự phát triển:
- Thử thách về Xã hội và Hành vi (Social and Behavioral Challenges): Chiếm 37% số người tham gia, nhóm này gặp nhiều khó khăn hơn trong giao tiếp xã hội và các hành vi bị hạn chế, lặp lại. Họ cũng có nhiều thách thức hơn về hành vi gây rối, sự chú ý và lo lắng, nhưng không có sự chậm trễ đáng kể trong phát triển.
- ASD hỗn hợp với Chậm phát triển (Mixed ASD with Developmental Delay): Chiếm 19% số người tham gia. Nhóm này có sự đa dạng hơn về giao tiếp xã hội và hành vi hạn chế, lặp lại, đồng thời thể hiện một số chậm trễ phát triển so với trẻ không mắc ASD.
- Thử thách nhẹ (Moderate Challenges): Chiếm 34% số người tham gia. Nhóm này đồng loạt có ít khó khăn hơn trong giao tiếp xã hội, hành vi hạn chế, lặp lại và các đặc điểm cốt lõi khác của ASD so với các trẻ mắc ASD khác, dù vẫn khó khăn hơn trẻ không mắc ASD. Nhóm này không có chậm trễ phát triển.
- Ảnh hưởng bao quát (Broadly affected): Chiếm 10% số người tham gia. Nhóm này có những khó khăn nghiêm trọng và rộng khắp hơn trong giao tiếp xã hội, hành vi hạn chế, lặp lại và các đặc điểm cốt lõi khác của ASD, bao gồm cả chậm trễ phát triển, so với các trẻ mắc ASD khác.
Trong mỗi nhóm này vẫn có sự đa dạng nội tại, nhưng các thành viên trong cùng một nhóm lại tương đồng với nhau hơn so với các thành viên ở nhóm khác. Bốn nhóm này cũng được tìm thấy trong một quần thể trẻ mắc ASD nhỏ hơn là nhóm nói trên.
Điều đáng ngạc nhiên là khi các nhà nghiên cứu phân tích sự khác biệt di truyền giữa bốn nhóm, họ phát hiện ra rằng mỗi nhóm có một hồ sơ gen rất riêng biệt. Giáo sư Olga Troyanskaya nhận định: "Đối với tôi, điều bất ngờ lớn nhất là bốn phân nhóm lại khác nhau đến vậy... Nền tảng di truyền và sinh học của chúng rất khác biệt." Ví dụ, các gen khác nhau trở nên hoạt động vào những thời điểm khác nhau trong quá trình phát triển – một số có liên quan thời gian trước khi sinh ra, những gen khác lại liên quan đến giai đoạn sau khi sinh. Nhóm (a) bị "Thử thách về Xã hội và Hành vi" có nhiều đột biến gen hoạt động sau khi sinh, điều này có thể giải thích tại sao những người này không bị chậm trễ phát triển và có xu hướng được chẩn đoán muộn hơn so với các nhóm còn lại.
Nghiên cứu này cho thấy sự khác biệt sinh học giữa các phân nhóm là rõ rệt hơn nhiều so với dự kiến ban đầu, với rất ít sự chồng chéo về mặt sinh học. Mặc dù các phân nhóm này có vẻ tương tự với nhiều phát hiện trong các nghiên cứu trước đây, điều mới mẻ là sự kết nối các phân nhóm với các yếu tố di truyền, làm cho kết quả này trở nên đáng chú ý.
Đọc tới đây có thể độc giả bắt đầu nhận ra một nét quen thuộc nào đó trong nhiều người mà mình từng gặp. Một nhà khoa học nào đó tuy bằng cấp treo đầy tường nhưng lại rất "gàn", một người nào đó tuy viết văn thì lưu loát văn hoa nhưng lúc đứng lên nói vài lời giản dị thì lại lọng cọng không nói được, một chàng trẻ tuổi nào đó thì tuy học rộng, khảo cứu hay nhưng lại hơi "tốc", lập dị không ai chịu được (tốc: do tiếng Pháp “toqué”, khùng). Một số danh nhân có trí thông minh siêu đẳng hoặc thành công vượt bậc như Elon Musk, Bill Gates và Einstein cũng từng được "chẩn đoán" là mang “Hội chứng Asperger” (hiện nay nằm trong phổ tự kỷ). Do đó, những hội chứng, những cái gọi là bệnh được phân loại, (classified) một cách khoa học nêu trên chỉ là một cố gắng cho thuận tiện việc chẩn đoán và điều trị của người trị bệnh (therapist), mặc dù gần đây có những khảo cứu cho thấy sự liên hệ giữa các phân nhóm của phổ tự kỷ với những nhóm gen khác nhau.
Thật ra, chúng ta vẫn quen với quan niệm “có tật có tài” (nhân vô thập toàn) và nay chúng ta có thể nhìn dưới một góc cạnh khác và xem cái tật và cái tài chỉ là những biểu hiện khác nhau, ở mức độ khác nhau của cùng một bản chất thiên phú (hay do di truyền) của một người nào đó.
Nhìn vấn đề như vậy chúng ta có thể tránh bi quan hấp tấp, tránh thái độ vội vàng dán những "nhãn hiệu" không tốt ảnh hưởng đè nặng lên suốt cuộc đời em bé, đồng thời với sự giúp đỡ của các nhà chuyên môn, nâng đỡ em trong những lĩnh vực được phát hiện yếu kém, khai thác những tiềm năng nhiều khi cần đến một người biết thông cảm, không thành kiến như Chu Nguyên Tố trong câu chuyện A Lưu mới khám phá ra được.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền
Ngày 5 tháng 10, năm 2025
1 https://imagine.jhu.edu/blog/2022/10/05/neurodivergence-at-a-glance/
2 https://www.psychologytoday.com/us/blog/the-politics-autism/201807/autism-and
3 Trích: "Cái cười của thánh nhân", tác giả Nguyễn Duy Cần, trang 228.-diagnosing-dollars
4 https://www.barrierfreemd.com/blog/neurodiversity-vs-neurodivergence-understanding-the-differences
5 Trường trung học thậm chí còn tệ hơn. "Điểm số rất kém, lòng tự trọng của tôi bắt đầu sụp đổ, và tôi nhớ mình đã giả vờ ốm suốt để tránh lớp toán, điều mà tôi không thể chịu đựng được." Nhưng vì được kỳ vọng sẽ học đại học, Newsom bắt đầu tham gia các lớp học hè để bắt kịp, biết rằng mình sẽ không bao giờ vào được "một trường đại học nghiêm túc. Tôi đã thi SAT và đó là một thảm họa hoàn toàn, và họ thậm chí còn không tranh luận để tôi thi lại, vì nó quá căng thẳng. Và tôi sẽ thành thật: nếu không có mẹ tôi và một số khóa đào tạo bổ sung, tôi sẽ không bao giờ vào được đại học." Nhờ những điều đó và khả năng xuất sắc của mình trong môn bóng chày, Newsom bắt đầu nhận được học bổng từ một số trường đại học và theo học Đại học Santa Clara ở California với học bổng bóng chày một phần.”
https://dyslexia.yale.edu/story/gavin-newsom/
6 https://studentnews.manchester.ac.uk/2024/03/18/successful-people-with-neurodivergent-disabilities/
7 https://www.nature.com/articles/s41588-025-02224-z
https://www.princeton.edu/news/2025/07/09/major-autism-study-uncovers-biologically-distinct-subtypes-paving-way-precision