Người Việt Hải Ngoại Sau 50 Năm (1975-2025)
(Phần1)
Mùa Xuân Ất Tỵ 2025, cộng đồng người Việt Nam tị nạn lưu vong kỷ niệm 50 năm ngày thành lập, một hành trình bắt đầu từ khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Trong 50 năm qua kể từ khi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, bối cảnh chính trị và kinh tế toàn cầu đã chứng kiến nhiều thay đổi. Vào thập niên 1980 và 1990, nhất là sau khi khối Xô Viết sụp đổ, Hoa Kỳ và phương Tây giữ thế độc tôn về chính trị và kinh tế trên thế giới, do đó người Việt tỵ nạn định cư tại các nước này ở một vị thế rất ưu đãi so với người trong nước đang bị bần cùng hóa và cô lập về mọi mặt. Sau đó sự trỗi dậy của Trung Quốc và ở mức độ thấp hơn của Đông Nam Á và Ấn Độ, biến Châu Á thành một vùng kinh tế rộng lớn thách thức sự độc tôn của phương Tây. Sau khi chính sách đổi mới được ban hành ở Việt Nam năm 1986 và bang giao với Hoa Kỳ được thiết lập, sự khác biệt về kinh tế giữa Việt Kiều và người trong nước cũng từ từ giảm đi. Mặt khác, về khoa học kỹ thuật, thế giới đã đi từ giai đoạn bắt đầu của kỹ thuật số, mạng Internet toàn cầu đã lớn mạnh một cách bùng nổ để bước vào kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo hiện nay. Các điện thoại thông minh (smartphone), các nền tảng như Viber, YouTube, Facebook, TikTok làm cho các rào cản về thông tin và liên lạc giữa trong và ngoài nước càng ngày càng lu mờ mặc dù Việt Nam vẫn thuộc về thế giới cộng sản vỏn vẹn chỉ còn 5 quốc gia.
Trong năm thập kỷ đó, cộng đồng người Việt lưu vong toàn cầu này đã tăng lên gần 5 triệu người và trở thành một phần không thể thiếu của các xã hội mà họ định cư. Họ đã đóng góp đáng kể vào sự đa dạng văn hóa và kinh tế của các quốc gia, một điều kiện rất cần thiết cho sự phát triển bền vững của mỗi nước trên thế giới hiện nay, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, nơi có số lượng người Việt định cư đông đảo nhất. Những thành tựu này một phần nào được xây dựng trên nền tảng của sự kiên trì và khả năng thích ứng sở đắc bằng máu và nước mắt qua các thử thách trước đây như chiến tranh, trại cải tạo, vượt biên, trại tỵ nạn. Các kỹ năng này giúp cộng đồng người Việt lưu vong vượt qua những khó khăn ban đầu và đạt được những thành công đáng kể trong nhiều lĩnh vực khác nhau ở quê hương mới. Hiện nay, đông đảo người Việt trong nước vẫn còn tìm cách gia nhập cộng đồng người Việt hải ngoại, bằng các phương tiện hợp pháp (đầu tư, du học, cưới người nước ngoài) hay bất hợp pháp.
Bài viết này là một cố gắng cá nhân rất chủ quan, không có tham vọng là một khảo cứu tổng quan học thuật, trong mục đích nhìn lại bối cảnh lịch sử, những cố gắng thích nghi và những đóng góp của cộng đồng người Việt lưu vong trong 50 năm qua.
1. Các bước thành hình của cộng đồng người Việt hải ngoại 1 kể từ năm 1975 đến nay.
A. Ở Hoa Kỳ:
a.Từ đợt đầu di tản sau biến cố 30/4/1975, chừng 125,000 người.
Làn sóng người Việt đầu tiên đến vào năm 1975 như một phần của 140.000 người của Đông Dương được sơ tán ban đầu qua lệnh của Tổng thống Ford (1913-2016; nhiệm kỳ 8/1974- 1/1977). Những người tị nạn đó, hầu hết đều có trình độ học vấn và nói được một ít tiếng Anh, đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt từ công chúng Mỹ mong muốn được xóa bỏ ít nhiều mặc cảm tội lỗi về việc quân Mỹ đội đột ngột rời khỏi miền Nam Việt Nam. Đến năm 1978, kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái và sự chào đón nồng nhiệt này không còn nữa. 2
Những người Việt tị nạn đầu tiên ở Fort Indiantown Gap, Pennsylvania, Mỹ, tháng 5 năm 1975
Một biến cố đáng chú ý trong những ngày trước khi quân đội miền Bắc vào chiếm Sài Gòn là
Chiến dịch Không Vận Trẻ Em (Operation Babylift).
Người tổ chức chuyến bay đầu tiên khởi đầu chiến dịch này là Ed Daly, Giám đốc điều hành của công ty hàng không World Airways. Ông đã đóng một vai trò quan trọng trong việc giải cứu thường dân miền Nam Việt Nam khi miền nam sắp bị sụp đổ.
Khi lực lượng Bắc Việt tiến quân đến gần Đà Nẵng , Daly đã thách thức chính quyền Hoa Kỳ và thực hiện các chuyến bay sơ tán táo bạo từ Đà Nẵng bằng máy bay Boeing 727 của công ty mình. Bất chấp sự hỗn loạn, quá tải và nguy hiểm - bao gồm cả hỏa lực phóng tên lửa và bạo lực của đám đông - Daly đã cố gắng sơ tán gần 2.000 thường dân chỉ trong hai ngày.
Khi các quan chức Hoa Kỳ ngừng cứu hộ trên không, Daly tiếp tục các nhiệm vụ được xem là trái phép, ưu tiên phụ nữ và trẻ em nhưng thường phải đối mặt với đám đông những người lính miền nam tuyệt vọng. Trong một chuyến bay, ông ta thậm chí còn kháng cự không cho những người được võ trang lên máy bay và bị thương vì trúng đạn. Daly cũng đã tổ chức chuyến đầu tiên của "Chiến dịch Baby Airlift", biến một chiếc DC-8 của ông thành một "chiếc nôi bay" để vận chuyển hơn 50 trẻ mồ côi đến nơi an toàn ở Hoa Kỳ. Những hành động táo bạo của ông đã cứu sống vô số người và vẫn là minh chứng cho lòng dũng cảm và lòng trắc ẩn của ông.
Sau chuyến đầu tiên này hôm 2 tháng 4,1975, chính phủ Mỹ tiếp tục di tản khoảng 3.300 trẻ em từ Nam Việt Nam đến Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác từ ngày 3 tháng 4 đến ngày 26 tháng 4 năm 1975, nhằm mục đích giải cứu trẻ mồ côi và những trẻ em khác.
Một chi tiết thú vị vào thời điểm này: ngay cả Hugh Hefner, người sáng lập báo Playboy nhiều tai tiếng, đã cho mượn máy bay phản lực riêng của mình, "Big Bunny", để hỗ trợ Chiến dịch Babylift, vận chuyển 41 trẻ em mồ côi Việt Nam từ một cơ sở phân phối ở San Francisco đến những gia đình mới của chúng ở New York. Trong suốt chuyến bay, các cô gái Playboy Bunnies đã chăm sóc những đứa trẻ này. 3
Chiến dịch này được đánh dấu bằng nhiều tranh cãi và bi kịch. Một chiếc máy bay C-5A Galaxy, một phần của đợt di tản ban đầu, đã bị rơi ngay sau khi cất cánh, khiến 138 trong số trên 300 người trên máy bay thiệt mạng, trong đó 67 phụ nữ chết ( các con số thay đổi tùy theo nguồn tin tức, có lẽ vì lúc hỗn loạn và máy bay này cũng được dùng để di tản nhân viên Văn Phòng Tùy Viên Bộ Quốc Phòng Mỹ/Defense Attache Office hay DAO) (theo Vietnamwar50th.com).
Mặc dù Chiến dịch Babylift được mô tả là một nỗ lực nhân đạo thành công , nhưng đôi khi nó từng bị chỉ trích như là một hành động của Hoa Kỳ để tô điểm cho sự can thiệp của họ ở Việt Nam, cũng như về những khó khăn mà các trẻ Việt Nam phải trải qua để thích ứng với môi trường xa lạ của xã hội phương Tây. Chỉ có chừng 12 người tìm lại được cha mẹ ruột của mình.
<<Máy bay C-141 chở các em mồ côi trong các hộp carton từ Saigon đến căn cứ không quân Mỹ Clark AFB, tháng 4, 1975. Photo courtesy of U.S. Department of Veteran Affairs
Một câu chuyện đáng ghi nhận của giai đoạn quanh ngày 30 tháng 4 là câu chuyện tàu Trường Xuân, một chiếc tàu vận tải tư nhân của công ty Vishipco của ông Trần Đình Trường (1932-2012). Ông chủ đã đi cùng gia đình qua Manila trên một chiếc tàu riêng; nhưng theo ông kể lại, trước khi đi trốn ông đã dặn người thân tín dụng các tàu chuyên chở người ra khỏi Việt Nam càng nhiều càng tốt. Ông đến Mỹ với hai vali đầy vàng và đầu tư vào các khách sạn rẻ tiền ở New York. Sau ngày 30 tháng 4, công ty Vishipco bị chính quyền mới quốc hữu hóa và người thừa kế công ty phải kiện trong thời gian dài ngân hàng Chase Manhattan của Mỹ để lấy lại được tiền ký thác (tiền đồng VNCH, piastre) tại ngân hàng này trước khi Sài Gòn sụp đổ. Ông là tỷ phú người Việt đầu tiên ở Mỹ, giúp đỡ tích cực cho cộng đồng người Việt cũng như đóng góp nhiều triệu đồng cho cac cuộc từ thiện ở Mỹ và Châu Phi. 5
Tàu Trường Xuân hồi đó đang đậu ở bến cảng Sài Gòn. Vào cuối tháng 4 năm 1975, tàu do thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy chỉ huy, rời Sài Gòn mang theo 3.628 người tị nạn trong bối cảnh Sài Gòn thất thủ. Con tàu chở hàng bị quá tải, hư hỏng và bắt đầu chìm vào ngày 2 tháng 5 năm 1975. Tàu Clara Maersk của Đan Mạch, do thuyền trưởng Anton Martin Olsen chỉ huy, đã giải cứu toàn bộ hành khách và đưa họ đến Hồng Kông. Sau đó, nhiều người tị nạn đã được tái định cư ở các quốc gia như Hoa Kỳ, Canada và Úc. Cuộc giải cứu anh hùng này được ghi nhớ như một dấu mốc quan trọng trong lịch sử người tị nạn Việt Nam.
Tàu Trường Xuân chờ Tàu kéo Song An, Saigon, 30/4/1975 6
b.Đợt thứ hai là các thuyền nhân (boatpeople), cao điểm vào năm 1978-1979 (năm diễn ra chiến tranh biên giới với Cambodia và Trung Cộng) tiếp diễn cho đến giữa thập niên 1980.
Cuối cùng, Indonesia đóng cửa trại tị nạn ở Galang năm 1996; Thái Lan năm 1997; Philippines năm 1997, Hồng Kông năm 2000. Năm 2001, Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn chính thức dẹp bỏ trại tỵ nạn cuối cùng đặt tại Malaysia, chấm dứt 21 năm Cao ủy Tỵ nạn hợp tác ở nước này để giúp người vượt biển đến từ Việt Nam. 7
Riêng về người Việt gốc Hoa, ở Miền Nam, họ được các địa phương cho phép rời Việt Nam một cách “bán chính thức” trên những con tàu chứa có khi mấy trăm người, được công an giám sát (và thu tiền lộ phí bằng vàng) lúc xuống tàu, nhưng cũng có khi sau đó tàu họ bị công an ở địa phương khác bắt chận lại và cho vào tù. Ở Miền Bắc, do áp lực không chính thức từ phía chính quyền và áp lực kỳ thị, sách nhiễu mới của dân chúng địa phương mà từ trước vẫn đối xử với họ như đồng bào ruột thịt, chừng 260.000 người tị nạn gốc Hoa - chủ yếu là nông dân, ngư dân và thợ thủ công - đã trốn khỏi Việt Nam trong cuộc chiến tranh biên giới ngắn ngủi năm 1979, sau khi Việt Nam xâm lược Campuchia. Theo Cao Ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc, năm 2007, số lượng của họ hiện đã tăng lên ít nhất 300.000 người ở Trung Quốc, trở nên một trong những chương trình hội nhập địa phương thành công nhất trên thế giới. 8 Một số người sau khi đến trại tỵ nạn ở Trung quốc, đã vượt biên giới bằng đường bộ và đường biển đến Hongkong và qua một thời gian sống khắc khổ ở các trại tỵ nạn, một số bị trả về Việt nam, một số được định cư ở phương Tây. 9
c.Đợt thứ 3 vào các thập niên 1980s-1990s
Để đối phó với những khó khăn mà thuyền nhân phải chịu đựng và theo sau Hội nghị Geneva ngày 14 tháng 6 năm 1980 về Người tị nạn Đông Dương, chính phủ Hoa Kỳ đã cho phép người Việt Nam nhập cư vào Hoa Kỳ thông qua chương trình ra đi có trật tự ODP (Orderly Departure Program) của UNHCR (Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc). Các diện sau đây được định cư ở Mỹ theo các chương trình này: đoàn tụ gia đình, cựu nhân viên Hoa Kỳ, và cựu tù nhân cải tạo. Các cựu tù cải tạo nhập cư vào Hoa Kỳ thông qua chương trình con (subprogram) của ODP gọi là Chiến dịch Nhân đạo (HO).
Chương trình ra đi có trật tự đã giúp hơn 500.000 người tị nạn Việt Nam nhập cư vào Hoa Kỳ trước khi chương trình này kết thúc vào năm 1994.
Vào tháng 11 năm 2005, Hoa Kỳ và Việt Nam đã ký một thỏa thuận mở lại ODP và gia hạn Tu chính án McCain (cho phép con cái của các cựu tù nhân cải tạo được nhập cư với cha mẹ của họ). Việc gia hạn ODP kết thúc vào tháng 2 năm 2009, với Tu chính án McCain hết hạn vào tháng 9 năm 2009.
Năm 1987, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua Đạo luật Hồi hương Con Lai Mỹ-Á (Amerasian Homecoming Act) , cho phép trẻ em Việt Nam có cha là người Mỹ nhập cư vào Hoa Kỳ, cho phép ước tính khoảng 23-25.000 con lai và 60-70.000 người thân của họ nhập cư vào Hoa Kỳ.
B. Những người tị nạn Việt Nam định cư ở châu Âu:
1) Người Việt ở Pháp có xu hướng có trình độ học vấn và mức sống sung túc cao hơn những người định cư ở Bắc Mỹ, Úc và phần còn lại của Châu Âu. Điều này có thể là do họ quen thuộc với văn hóa Pháp, vì nhiều gia đình Việt giàu có đã định cư ở Pháp trước khi chiến tranh giữa Bắc Việt và Miền Nam xảy ra.
-Cộng đồng người Việt ở Pháp ước tính có từ 300.000 đến 323.000 người, là cộng đồng người Việt không nói tiếng Anh lớn nhất trên toàn cầu. Khoảng một nửa dân số này cư trú tại Paris và vùng Île-de-France, với một số lượng đáng kể cũng sống ở các thành phố như Marseille và Lyon.
-Hai trường hợp đáng chú ý: người Pháp trong nhiều lãnh vực khác nhau đã cộng tác thực hiện con tàu “Hòn đảo ánh sáng” (Ile de lumiere) , một bệnh viện nổi để cứu vớt thuyền nhân dọc theo bờ biển Việt Nam, theo lời kêu gọi của bác sĩ Bernard Kouchner, người từng sáng lập phong trào “ Thầy thuốc không biên giới” (Medecins sans frontieres). Việc thứ hai là Tổng thống Pháp đã nhận một cô gái Việt tỵ nạn làm con nuôi lúc ông còn là thị trưởng Paris năm 1979.
- Cộng đồng người Việt ở Pháp có mức độ đồng hóa với xã hội dòng chính cao hơn so với cộng đồng người Việt ở các nước nói tiếng Anh do có mối liên hệ và am hiểu về văn hóa, lịch sử và ngôn ngữ với nước sở tại. Họ hòa nhập tốt với xã hội Pháp nhưng vẫn giữ được sự gắn bó bền chặt với quê hương.
- Ngược lại, thế hệ người Việt ở Pháp sau này lại gắn bó với văn hóa Pháp hơn là văn hóa Việt, vì họ được nuôi dưỡng và giáo dục trong hệ thống Pháp là một hệ thống thuần nhất, tập trung không đa dạng, đa văn hóa và đa nguồn như hệ thống giáo dục ở Mỹ.
-Nhiều người Việt Nam đã thành lập các doanh nghiệp như nhà hàng, siêu thị và các doanh nghiệp nhỏ khác. Các trang trại lúa của người Việt cũng đã được thành lập ở phía đông nam nước Pháp .
-Một phần đáng kể tham gia vào các lĩnh vực chuyên môn như y học, kỹ thuật và học thuật. Một số người nổi tiếng như hai giáo sư sử học Lê Thành Khôi và Nguyễn Thế Anh, nhà báo Miền Bắc ly khai Bùi Tín, nhà phê bình văn học Đặng Tiến, ca sĩ Bạch Yến vừa mới qua đời trong những năm gần đây. Nhiều cựu giáo sư y khoa của trường y khoa Sài Gòn cũng như nhiều bác sĩ của VNCH định cư tại Pháp. Họ vẫn sinh hoạt với nhau và ra báo đều đặn bằng tiếng Việt sau 50 năm từ ngày mất nước. Nói chung trình độ học vấn cao của người Pháp gốc Việt góp phần vào sự thành công của họ trong các lĩnh vực này.
-Một số văn nghệ sĩ được định cư ở Pháp lúc ban đầu, nhưng sau đó dời qua Mỹ, nhất là California để sáng tác và làm ăn thuận tiện hơn. Chương trình tạp kỹ Paris by Night (PBN) rất thành công trong cộng đồng người Việt khắp thế giới, được ông Tô Văn Lai thành lập năm 1983 tại Paris để đáp ứng cho “ khoảng trống văn hóa” của người Việt qua Pháp từ những năm 1960s-1970s, nhưng sau đó dời qua Orange County ở Mỹ sau khi ông nghe đến số lượng băng nhạc rất lớn của Asia của nhạc sĩ Anh Bằng bán được ở Mỹ. 10 Sau đó PBN trở thành một hiện tượng văn hóa toàn cầu của cộng đồng người Việt. Nhạc sĩ Lam Phương (1937-2020) rời Việt Nam trên tàu Trường Xuân nói trên (sáng tác bài Con Tàu Định Mệnh), qua Mỹ, sống rất cơ cực và đi “tỵ nạn ái tình” ở Paris được một thời gian và trở về Mỹ năm 1995.
-Sau các thế hệ trước từ nửa đầu tiên của thế kỷ 20 làm công nhân nhà máy, xây dựng đường sắt và các lao động chân tay khác, các thế hệ sau đã đa dạng hóa thành các ngành nghề có tay nghề cao hơn.
Người tị nạn Việt Nam tại sân bay Roissy-Charles de Gaulle, từ Đảo Poulo Bidong ở Malaysia, ngày 7 tháng 7 năm 1979. (Ảnh: AFP PHOTO / BINH)
- Ở Pháp, gần đây người di dân bị những tai tiếng do người nhập cư từ châu Phi gây ra. So với những người nhập cư Bắc Phi, người Việt được coi là “gương mẫu”, có những khác biệt về bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh kinh tế xã hội và kinh nghiệm hội nhập. Người Việt Nam đến với tư cách là sinh viên, công nhân hoặc binh lính trong thời kỳ thuộc địa, và sau năm 1975 là người tị nạn, gồm các chuyên gia có học thức và các cá nhân thuộc tầng lớp trung lưu chạy trốn khỏi chủ nghĩa cộng sản. Họ thường được cả chính phủ và xã hội Pháp chào đón nồng nhiệt, một phần do tình trạng tị nạn của họ và mặt khác do người Pháp muốn duy trì một vai trò lãnh đạo tinh thần trong hoàn cảnh chiến tranh lạnh giữa hai thế lực quân sự chính gồm Hoa Kỳ và khối cọng sản. Họ cũng có tỷ lệ nhập tịch và kết hôn cao với dân số Pháp.
Người nhập cư Bắc Phi, chủ yếu từ Algeria, Morocco và Tunisia, có liên quan đến chế độ thực dân Pháp ở Bắc Phi và nhu cầu lao động sau Thế chiến II; họ đến Pháp với tư cách là người di cư kinh tế hơn là người tị nạn, chủ yếu là công nhân lao động được tuyển dụng cho các công việc có tay nghề thấp trong các ngành như xây dựng và sản xuất, phải đối mặt với những thách thức lớn hơn trong việc hòa nhập do sự khác biệt về văn hóa và tôn giáo, thường bị phân biệt đối xử và thiệt thòi trong xã hội Pháp. Gần đây, những người di dân Bắc Phi phải đối mặt với sự chống đối của dân bản xứ và luôn cả người gốc Việt, đặc biệt là trong thời kỳ tình cảm chống nhập cư gia tăng gắn liền với suy thoái kinh tế hoặc căng thẳng chính trị.
- Không giống như người Việt tị nạn ở Hoa Kỳ, cộng đồng Pháp chia thành hai phe phái đáng kể: những người thân Hà Nội, chủ yếu bao gồm sinh viên, công nhân và những người lưu vong lâu năm; và những người chống Hà Nội, với sự ủng hộ của sinh viên gốc miền Nam Việt nam và tầng lớp trung lưu. Hầu hết phe chống Hà Nội, nhóm nhỏ hơn trong hai nhóm, đã trốn khỏi Việt Nam sau năm 1975. Bất chấp những khác biệt, hai nhóm vẫn gắn bó sâu sắc với quê hương. 11
2)Tại Anh, cộng đồng người Việt chỉ chừng 28,000 người, đa số ở vùng thủ đô London, đa số từ miền Bắc Việt Nam và gốc Hoa, từ đợt di tản sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 và một đợt sau đó lúc chiến tranh giữa Trung Cộng và Việt Nam (năm 1979). Người Việt di dân vào Anh quốc được nhắc đến nhiều gần đây do những nhóm di dân cố gắng nhập cư bằng những phương cách nguy hiểm như trốn trong các xe tải để băng qua biển Manche từ Pháp qua Anh.
Đáng kể hơn hết, ngày 23 tháng 10 năm 2019, tại hạt Essex, Vương quốc Anh, người ta khám phá một container đông lạnh trong đó có 39 người Việt đã chết vì ngộp và lạnh sau khi họ được đem lậu từ Belgium.
Theo đài BBC (15 /7/24), Việt Nam nằm trong “top 10 nước” có nhiều công dân vượt biển đến Anh nhất, theo thống kê cho năm 2023 (tính đến cuối tháng 3/2024) của Bộ Nội vụ Anh. Với 2.338 người vượt eo biển Manche đến Anh bằng những con thuyền nhỏ, Việt Nam xếp thứ 7, chỉ xếp sau Afghanistan, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Eritrea, Syria và Iraq.
Cũng theo BBC, Tổ chức Đánh giá Di cư Cưỡng bức (Forced Migration Review - FMR) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Người tị nạn của Đại học Oxford (Vương quốc Anh) cho biết Việt Nam là một trong những quốc gia hàng đầu về số lượng người nhập cư lậu vào châu Âu. Theo thống kê của FMR, phần lớn trong số người Việt nhập cư lậu vào châu Âu là nam thanh thiếu niên đến từ một số tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ.
Một nhân vật chuyên giúp đưa người Việt vào Anh quốc tên Thanh tiết lộ với phóng viên Đài BBC của Anh rằng giá chuyến đi qua biên giới Anh là 10 đến 20 ngàn đô la Mỹ gấp đôi giá thường với các dân khác nên người Việt được ưu tiên hơn. Thanh nói anh ta muốn người ở Việt Nam hiểu rằng các cơ hội làm việc kiếm tiền ở Anh không còn tốt như trước và không hơn gì ở các nước như Đức bên đất liền Châu Âu, cũng như người trong nước nên hiểu rằng mắc nợ một số tiền lớn để chạy chọt và lén lút vào Anh quốc để làm việc trong nền “kinh tế xám” ( bất hợp pháp/ grey economy) là một việc không đáng làm. 12
C. Cộng đồng người Việt ở Úc:
-Trước năm 1975, chưa tới 2.000 người gốc Việt sống ở Úc.
-Vào ngày 26 tháng 4 năm 1976, chuyến tàu tên Kiên Giang, dài chừng 20 mét, chở 5 người tị nạn đầu tiên chạy trốn khỏi Việt Nam đã cập đảo Tiwi phía Bắc cảng Darwin sau ba tháng trên biển và người lái thuyền đi theo một bản đồ xé từ một cuốn sách bản đồ giáo khoa.
Người đại diện nhóm tên Lâm Bình tự giới thiệu về bản thân và nhóm của mình : ‘Mời quý vị xuống thuyền của tôi. Tôi tên Lâm Bình và đây là những người bạn của tôi đến từ miền Nam Việt Nam và chúng tôi muốn được phép ở lại Úc.”
Vietnamese Boat People Memorial,
Captain Burke Park, Kangaroo Point,
Queensland, Australia
(Nguồn: Wikimedia Commons)
-Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975,Thủ tướng đảng Lao Động ông Gough Whitlam chủ trương hạn chế tối đa người tị nạn Việt Nam vào Úc. Cho đến cuối năm 1975, chỉ có 400 người tị nạn được tuyển chọn từ các trại các nước trong vùng và đến Úc bằng máy bay chứ không phải bằng thuyền tàu. (Whitlam mất chức thủ tướng tháng 11 năm 1975, được Fraser thay thế).
-Cho đến năm 1978, dưới thời Thủ Tướng Đảng Cấp tiến (Liberal Party) Malcolm Fraser nước Úc mới có chương trình định cư người Việt đáng kể cho phép định cư 60,000 người Việt tính đến năm 1982.
Tại tang lễ của Fraser vào năm 2015, các thành viên của cộng đồng người Việt đã tham dự đông đảo để tỏ lòng thành kính, trong đó một nhà lãnh đạo người Việt nói rằng "Chúng tôi là những người tị nạn từ Việt Nam và gia đình tôi đã đến Indonesia với tư cách người tị nạn và nhờ chính sách của Malcolm Fraser lúc đó chúng tôi được chào đón đến Úc để tị nạn vào năm 1979”. Việc Fraser ủng hộ chủ nghĩa đa văn hóa và lòng trắc ẩn đối với người tị nạn Việt Nam được coi là một phần quan trọng của di sản thời ông làm thủ tướng.
-Sau đợt tiếp nhận người tị nạn đầu tiên vào cuối những năm 1970, có đợt nhập cư thứ hai vào năm 1983–84, là kết quả của thỏa thuận năm 1982 giữa chính phủ Úc và Việt Nam (Chương trình Ra đi Có Trật tự/the Orderly Departure Program) cho phép thân nhân của người Úc gốc Việt được nhập cảnh, rời Việt Nam và di cư sang Úc. Đỉnh điểm nhập cư thứ ba vào cuối những năm 1980 dường như chủ yếu là do chương trình đoàn tụ gia đình của Úc.
- Trong cuộc điều tra dân số năm 2021, 334.781 người Úc cho biết họ có nguồn gốc (ancestry) là người Việt Nam, chiếm 1,3% dân số Úc. Năm 2021, Cục Thống kê Australia ước tính có 268.170 cư dân Australia sinh ra ở Việt Nam.
Cộng đồng người Việt ở Úc nhỏ hơn cộng đồng người Việt ở Mỹ tuy nhiên so với dân số 26 triệu người Úc, tỷ lệ người Việt tại Úc cao hơn ở Mỹ (2,2 triệu người Việt trên dân số 333 triệu, hay 0,66%)
Khoảng 3/4 người gốc Việt sống ở New South Wales (40,7%) và Victoria (36,8%). Họ Nguyễn là họ phổ biến thứ bảy ở Úc (thứ hai sau Smith trong danh bạ điện thoại Melbourne).
Theo điều tra dân số năm 2021, tiếng Việt được 320.760 người ở Úc nói ở nhà, khiến nó trở thành ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi thứ tư sau tiếng Anh, tiếng Quan Thoại và tiếng Ả Rập. (theo Wikipedia tiếng Anh).
Nói chung trình độ học vấn và lợi tức gia đình người gốc Việt ở Úc cao hơn trung bình so với các nhóm dân di cư khác; ở Mỹ thì người Việt có lợi tức mỗi hộ (median household income) là 81,000 dollars Mỹ, thấp hơn trung bình của người gốc Châu Á. 13
Một trường hợp thành công thú vị: Ông Hiếu Văn Lê là giữ chức Thống đốc (Governor, phần lớn có tính cách nghi lễ, đại diện nữ hoàng Anh là quốc trưởng Úc) thứ 35 của Nam Úc ( South Australia) từ ngày 1 tháng 9 năm 2014 đến ngày 31 tháng 8 năm 2021, là người gốc Á đầu tiên được bổ nhiệm làm thống đốc một bang của Úc. và là người gốc Việt đầu tiên giữ chức vụ phó vương (semi-regal) trên toàn thế giới. Ông đến Úc tị nạn năm 1977 và đã hoạt động tích cực trong việc thúc đẩy chủ nghĩa đa văn hóa và hỗ trợ cộng đồng người Việt ở Nam Úc. 14
D. Cộng đồng Việt ở Canada:
Trước 1975, có chừng vài ngàn người Việt sống ở Québec nói tiếng Pháp, đa số là sinh viên.
Từ năm 1975 đến năm 1985, 110.000 người Việt được tái định cư ở Canada.
Người tỵ nạn Việt Nam đấu tiên là nữ tài tử điện ảnh Kiều Chinh. Chúng ta hãy tìm hiểu thêm về trường hợp để thấy lúc đó, năm mươi năm trước đây, trong thời gian tranh tối tranh sáng, đất nước còn dỡ sống dỡ chết, thân phận của người Việt mất nước còn bơ vơ như thế nào, không phải như người ‘di dân’ hiện nay cứ đến được biên giới các nước Mỹ, Pháp, Anh, Ý được “quyền” xin tá túc (asylum) và được tạm thời chấp nhận để chờ tòa án nhập cư của nước sở tại cứu xét. 15 Trường hợp này cũng tương tự như hoàn cảnh các nhân viên trong ban giảng huấn của trường Đại học Y khoa Sài Gòn đang tu nghiệp ở Mỹ lúc Sài Gòn mất. Nội trong một đêm, đột ngột các tước vị như giáo sư , giảng sư từ trường Sài Gòn hết được công nhận và họ bị ngưng việc, phải làm lại giấy tờ từ đầu để đủ tư cách là một bác sĩ ngoại quốc (foreign medical graduate) xin vào vị trí thấp nhất (nội trú/intern) trong bệnh viện Mỹ.
Theo đài VOA Tiếng Việt: “ Kiều Chinh đang trên một chuyến bay vòng quanh thế giới bất tận. Máy bay đáp xuống phi trường của những thành phố hoa lệ nhất thế giới, nhưng không thành phố nào mở cửa đón chào nữ minh tinh màn bạc hàng đầu của miền Nam Việt Nam bởi vì Kiều Chinh bỗng nhiên trở thành một người vô tổ quốc, mang passport ngoại giao của một chính phủ không còn được công nhận.
“Tôi hiểu rằng tôi phải ra đi. Lúc đó đi không phải là dễ, dù rằng trong tay tôi có passport diplomatique. Sang tới Singapore, ngay lập tức tôi bị tống vào tù là bởi vì cái passport diplomatique không còn hiệu lực. Họ nói cái passport đó thuộc về một chính phủ không còn power,”.... Đó là khoảnh khắc không bao giờ quên trong cuộc đời đầy thăng trầm của cựu ngôi sao điện ảnh miền Nam Việt Nam, khi Kiều Chinh nhận thức được thân phận của một người vô tổ quốc, và thấm thía nỗi mất mát to lớn của mình trong những ngày cuối cùng dẫn tới biến cố 30/4/1975. Mất hết tất cả, gia đình, tiền tài, danh vọng, Kiều Chinh trở thành người nhập cảnh bất hợp pháp tại nơi mà chỉ hơn một tuần trước, bà từng được săn đón trong tư cách là minh tinh màn bạc trong một bộ phim đình đám, vừa quay xong vào ngày 15/4/1975.
Cãi lại lời khuyên gia đình, bà trở về giữa một Sài Gòn đang hấp hối. Tất tả ra đi một tuần sau đó, bà đã phải trả những cái giá đắt cho quyết định đó. Với sự can thiệp của các nhà ngoại giao và bạn bè, Kiều Chinh được thả khỏi nhà tù với điều kiện phải lập tức rời Singapore.
Sau một chuyến bay vòng quanh thế giới dài như vô tận, Kiều Chinh đáp xuống phi trường Toronto vào 6 giờ chiều ngày 30/4/1975, và nghiễm nhiên trở thành một người tị nạn.
Như hàng trăm ngàn người tị nạn khác, Kiều Chinh đã trải qua những đắng cay của cuộc đổi đời, phải làm lại tất cả, từ hai bàn tay trắng để cuối cùng trở thành một trong những diễn viên gốc Việt được biết tiếng nhiều nhất ở Hollywood.
Kiều Chinh không bao giờ quên được cú điện thoại đã giúp bà thoát cảnh cơ cực với công việc dọn chuồng gà trong những ngày đầu tị nạn tại Canada. Dốc hết số tiền dành dụm được, Kiều Chinh gọi cho một số đồng nghiệp và bạn cũ ở Hollywood. Thất vọng vì không gặp được ai, bà đánh liều với số tiền còn lại vào một cú điện thoại cuối cùng, và bắt liên lạc được với một phụ nữ chỉ gặp qua một lần ở Sài Gòn: minh tinh màn bạc Mỹ Tippi Hedren.
Nữ tài tử Tippi Hedren và đạo diễn Alfred Hitchcock tại Liên hoan Điện ảnh Cannes ngày 9/5/1963
“Tôi gọi cầu may vậy thôi, nhưng tôi ngạc nhiên khi bà là người nhấc máy điện thoại trả lời. Tôi nói “Tippi, đây là Kiều Chinh đây, tài tử Việt Nam ở Sài Gòn. Chúng ta gặp nhau cách đây 10 năm, có nhớ không? Bà ấy nói ối tôi mừng quá mừng quá! Khi Sài Gòn thất thủ tôi có nghĩ tới you. Tôi không biết you sống hay chết, đang ở đâu. Tôi khóc òa lên, tôi nói là tôi không còn tiền để mà nói tiếp nữa, xin gọi lại. Lúc bấy giờ tôi mới kể lại tình trạng của tôi. Bà ấy nói thôi đừng khóc nữa “Everything will be OK. Bà ấy đã mở vòng tay và trái tim ra và giúp đỡ tôi. Bà mua vé máy bay cho tôi từ Toronto đi sang Hollywood,” Kiều Chinh xúc động thuật lại. 16 (Hết trích VOAtiengviet)
Sau đó, Kiều Chinh định cư ở Mỹ và xây dựng lại sự nghiệp điện ảnh tại Hollywood. Bà Tippi Hedren sẽ là người mở đường cho kỹ nghệ làm móng của người Việt tại Mỹ cũng như các nước phát triển khác. 17
Sau đây là những đợt tỵ nạn người Việt kế tiếp ở Canada:
a)Làn sóng đầu tiên tương đối nhỏ gồm những người phần lớn thuộc tầng lớp trung lưu được di tản ra khỏi Việt nam sau khi Sài Gòn sụp đổ.
“Đến cuối năm 1975, có khoảng 6.000–7.000 người Việt đến Canada. Một số là người tị nạn theo Công ước Liên hợp quốc (LHQ) năm 1951 Liên quan đến Địa vị của Người tị nạn, trong khi những người khác được đoàn tụ với gia đình và họ hàng ở Canada. Phần lớn, khoảng 65%, là những người nói tiếng Pháp có trình độ học vấn định cư ở vùng Montréal. Từ năm 1976 đến năm 1977, Canada chỉ chấp nhận 630 người tị nạn, một phần do vụ bê bối xung quanh việc cựu Tướng Đặng Văn Quang đến Montréal, người bị cáo buộc tội ác chiến tranh.” 18
Đây là một trường hợp cho thấy các nhà lãnh đạo cũ của miền Nam không phải luôn luôn được đón tiếp với tấm thảm đỏ trên đất nước của cựu đồng minh của mình.
Vào khoảng 1965, Trung tướng Đặng Văn Quang là tư lệnh vùng 4 chiến thuật (Đồng bằng sông Cửu Long) và sau đó là cố vấn an ninh quốc gia cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, làm việc chặt chẽ với các quan chức Hoa Kỳ. Sau tháng 4 năm 1975, nhờ sự giúp đỡ của Mỹ, ông và gia đình gồm bảy người con được định cư ở Mỹ và Montreal, Canada nơi người Việt nói tiếng Pháp có thể dễ dàng hòa nhập hơn. Nhưng sau khi đến thăm một người con trai của mình tại Montreal vào tháng 5 năm 1975, đơn xin thị thực nhập cảnh trở lại Mỹ của ông bị Bộ Ngoại giao Mỹ từ chối. Không có lời giải thích chính thức nào được đưa ra, nhưng vào khoảng thời gian đó, các nguồn tin tức của Canada và Hoa Kỳ bắt đầu cáo buộc rằng tướng Quang từng kiểm soát hoạt động buôn bán chất ma túy heroin ở Đồng bằng sông Cửu Long trong thời chiến tranh và đã bí mật chuyển hàng triệu đô la vào các tài khoản ngân hàng Thụy Sĩ. Ông bị coi là "người nước ngoài không mong muốn" (undesirable alien) ở Canada, và điều duy nhất ngăn cản chính phủ Canada trục xuất ông về Việt Nam là viễn tượng ông sẽ chắc chắn bị án tử hình nếu trở về quê nhà đang do cộng sản cai trị.
Trong 15 năm sau đó, tướng Quang làm nghề rửa chén và làm những công việc lặt vặt ở Montreal để nuôi vợ và hai con trai. Những lời kêu gọi của gia đình ở Mỹ và các sĩ quan quân đội bênh vực nhân cách của ông gửi đến Bộ Ngoại giao Mỹ đều bị phớt lờ. Hoa Kỳ dường như đã phủi tay với ông. Mãi đến năm 1986, cựu Trung tá Lực lượng Đặc biệt Mỹ tên Dan Marvin khám phá hoàn cảnh của Tướng Quang và sau đó đề nghị giúp ông. Lúc đầu vị tướng không thể nhận ra cái tên người Mỹ đó trong số rất nhiều sĩ quan Mỹ ông từng biết trong thời chiến. Tướng Quang đã từng ân xá cho Marvin và những người lính Hòa Hảo do ông huấn luyện bị coi như phản loạn tại huyện An Phú, gần biên giới Cambodia năm 1965, trước khi họ sắp bị quân VNCH tiêu diệt do lịnh từ trung ương muốn trừng phạt họ.. Và nay đến lúc Marvin trả lại cái ơn cứu tử đó. Marvin mở một chiến dịch minh oan cho Tướng Quang ở Mỹ chứng tỏ ông từng là một đồng minh quý giá của nước Mỹ và cuối cùng, năm 1989 đích thân lái xe chở ông về Mỹ sau 15 năm bị từ chối visa. 19
b) Làn sóng thứ hai bao gồm những “thuyền nhân” (boat people) từ miền Nam Việt Nam, và sau khi luật di trú Canada trở nên cởi mở hơn, nhất là sau vụ tàu Hải Hồng bị từ chối cập bến Malaysia.
Vào năm 1976, chính phủ Canada đã ban hành Đạo luật Nhập cư mới để cho phép nhiều nhóm người hơn trước được vào Canada và lần đầu tiên luật này bao gồm những người tị nạn như một tầng lớp người nhập cư riêng biệt. Một loại người tị nạn đặc biệt, Nhóm Được Chỉ định Đông Dương (the Indochinese Designated Class), được thành lập để đẩy nhanh quá trình xử lý hồ sơ của những người tị nạn này và đưa họ đến Canada sớm hơn.
Vào tháng 11 năm 1978, sau khi Malaysia từ chối cho tàu chở hàng Hải Hồng đem 2.500 người tị nạn vào bờ, Canada đã nhận 600 người tị nạn từ con tàu này và nhiều nước khác đề nghị tái định cư số còn lại. Điều này đánh dấu một bước ngoặt trong thái độ của người Canada.
Ngay trước hội nghị của Liên Hợp Quốc về Người Tị Nạn Và Người Bị Di Dời ở Dông Nam Á (UN Meeting on Refugees and Displaced Persons in South East Asia) ở Geneva vào tháng 7 năm 1979, chính phủ Canada tuyên bố sẽ tiếp nhận 50.000 người tị nạn từ Việt Nam, Campuchia và Lào. Một nửa số người tị nạn sẽ được chính phủ hỗ trợ và nửa còn lại sẽ được người Canada tài trợ.”
Nhiều người trong số họ là người gốc Hoa chạy trốn sự đàn áp sắc tộc do chiến tranh giữa Việt Nam (cọng sản, đã thống nhất) và Trung Cộng vào tháng 2-3 năm 1979, sau khi Việt Nam đưa quân vào Campuchia để lật đổ chính phủ Khmer Đỏ.
Trong những năm 1979–80, Canada tiếp nhận 60.000 người tị nạn Việt Nam. Họ được các nhà thờ, chùa và tư nhân bảo trợ về nhiều vùng khác nhau ở Canada, nhưng dần dần họ di chuyển lần nữa đến các trung tâm đô thị lớn.
Làn sóng di cư Việt Nam tiếp theo đến vào cuối thập niên 1980 khi cả người tị nạn và tầng lớp nhập cư của Việt Nam thời hậu chiến vào Canada. 20 Những nhóm này định cư ở khu vực thành thị như Toronto, Vancouver, Montreal, và Calgary. Đến thập niên 1990, khi kinh tế Việt Nam mở cửa và chính phủ Việt Nam thực hiện chính sách Đổi Mới, số người Việt vào Canada giảm đi đáng kể.
Tính đến năm 2021, có 275.530 người Canada gốc Việt, hầu hết cư trú tại các tỉnh Ontario, British Columbia, Alberta và Quebec, chiếm 0,7% của tổng dân số Canada là 39 triệu người.
Ông Thanh Hai Ngo ( sinh năm 1947) là người gốc Việt đầu tiên giữ chức Thượng nghị sĩ Canada ( trong chính phủ Canada, chức Thượng nghị sĩ không phải do dân bầu và không giữ vai trò lập pháp như ở Mỹ). Một nhân vật khác trong chính trường là Ève-Mary Thaï Thi Lac
(sinh 1972). Một người gốc Việt , là con gái nuôi một gia đình Quebec từ lúc 2 tuổi và lớn lên trong một nông trại, bà tự hào là người duy nhất trong cuộc tranh cử biết thiến heo, và được bầu vào hạ viện Canada năm 2007 mặc dù có bị kỳ thị. 21
Xe hoa Thuyền Nhân, Lễ hội Oktoberfest, Hội Người Việt Kitchener-Waterloo, Toronto, Canada
E. Tình trạng người Việt di cư khỏi nước hiện nay:
Theo thống kê của Tổ chức Di dân Quốc tế (IOM), mỗi năm, Việt Nam có trung bình hơn 100.000 người di cư, đa số là những người có học vấn hay lợi tức cao ở trong nước và Việt Nam đang nằm trong top 10 quốc gia có số du học sinh nhiều nhất thế giới (theo SBS, Australia)
Theo Cơ quan Lao động Quốc tế (ILO): “Tổng cộng có khoảng 80.000 người Việt Nam rời đất nước đi làm việc ở nước ngoài mỗi năm. Khoảng 400.000 lao động Việt Nam hiện đã có mặt tại hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Dòng tiền hàng năm của người di cư lao động đạt khoảng 2 tỷ USD, theo Wikipedia tiếng Anh, trong những năm gần đây, cho thấy ý nghĩa kinh tế của di cư lao động. Thật không may, cũng có những vấn đề đáng kể liên quan đến việc di cư lao động: người sử dụng lao động vi phạm quyền của người lao động, người lao động vi phạm hợp đồng và đào ngũ, mạng lưới tuyển dụng bất hợp pháp, và đáng kể nhất là vi phạm các quy định của chính phủ về thủ tục tuyển dụng.” 22
F. Nhân đây chúng ta nhắc lại một số dấu mốc lịch sử về người Việt đi ra sống ở ngoại quốc.
a.Đợt đầu tiên đông người Việt rời khỏi quê hương qua Tây phương là khoảng năm 1914-1918 của Thế Chiến thứ nhất lúc 50 ngàn thợ thuyền và 50 ngàn lính Đông Dương ( Việt Miên Lào) được gởi qua tăng cường cho lực lượng lao động và quân sự Pháp.
Tuy nhiên đa số những người nay hồi hương sau chiến tranh. Trong thập niên 1920 chỉ còn chừng 8000 người Việt ở lại Pháp đa số là quân nhân.
b. Đợt di dân thứ 2 (tạm thời và cưỡng bách) của người “lính thợ” Việt đến Pháp xảy ra vào cuối năm 1939 trước cuộc chiến tranh ngắn ngủi giữa Pháp và Đức, khi thế chiến thứ 2 bắt đầu. Tình trạng lộn xộn của thời kỳ sau khi Pháp đầu hàng Đức (Chính phủ Vichy của Thống chế Pétain) và các biến cố lúc nước Pháp được Đồng Minh giải phóng năm 1945 làm trì hoãn việc hồi hương của các lính thợ và việc hồi hương của họ chỉ kết thúc năm 1952.
c. Hiện nay có chừng 4,5 triệu người sinh tại Việt Nam hay gốc người Việt Nam sinh sống tại hải ngoại. 23 Chừng một nửa số này sống ở Mỹ (Người Mỹ gốc Việt), và điều đáng ngạc nhiên là Cambodia là nước thứ nhì về số lượng di dân người gốc Việt. Con số này ước tính chừng 500 ngàn cho đến một triệu người 24 với 90% là “vô quốc gia” (stateless) và không có thẻ căn cước hay giấy khai sinh. Sau khi Khmer đỏ chiếm Cambodia năm 1975, đa số người Việt chạy ra khỏi xứ, chỉ còn chừng 20.000 ở lại và đa số bị giết chết. Sau đó thì người Việt lại từ Việt Nam trở lại Cambodia.
Về Hàn quốc, là điểm đến số một của các cô dâu Việt Nam, “Theo số liệu 2020, trong số 2,036,075 người nước ngoài cư trú tại Hàn, người Trung Quốc chiếm 44%, tương đương 894,906 người. Ở vị trí thứ 2 là người Việt Nam với 211,243 người, chiếm gần 10,4%.” Tuy nhiên nếu chúng ta đếm luôn các con cái của trên 40 ngàn cô dâu Việt với chồng người Hàn chắc con số diaspora Việt sẽ cao hơn số này.
Cuối cùng, chúng ta cũng cần nhắc đến những cộng đồng người Việt đã có mặt đáng kể ở một số nước Đông Âu trước khi Bức tường Berlin sụp đổ năm 1989, chủ yếu là do các thỏa thuận di cư lao động giữa Việt Nam và các chế độ cộng sản trong khu vực.
Hiện có khoảng 570.000 người Việt sinh sống, làm việc tại Nhật Bản. Trong đó, 35% là các thực tập sinh, theo Asahi Shimbun. Việt Nam đang đứng đầu nhóm 15 nước đưa thực tập sinh, người lao động tới đất nước này. Họ góp phần duy trì các ngành quan trọng như xây dựng, nông nghiệp và chăm sóc sức khỏe trong khi mức sinh sản của Nhật càng ngày càng thấp và thiếu người săn sóc cho người già mà tỷ lệ càng ngày càng tăng. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều thực tập sinh người Việt bị bắt giữ ở Nhật Bản vì trộm cắp và các tội khác gây ra những lo ngại ở đất nước này cũng như báo hiệu về những vấn đề sâu xa hơn bên dưới bề mặt. 25
Tại Đông Đức (Cộng hòa Dân chủ Đức), hàng chục nghìn lao động Việt Nam được đưa vào làm lao động khách thông qua các thỏa thuận giữa hai nước bắt đầu từ những năm 1970. Họ tập trung chủ yếu ở các thành phố như Karl-Marx-Stadt (nay là Chemnitz), Dresden. , Erfurt, Đông Berlin và Leipzig. Sau khi thống nhất, nhiều người bị mất việc làm và trở về Việt Nam hoặc chuyển đến Tây Đức. 26 Một người Đức gốc Việt được nhiều người biết là Philipp Rösler, nguyên là một trẻ mồ côi gốc Việt và đã từng làm Phó Thủ tướng Đức. Ông sinh năm 1973 tại Khánh Hưng, Sóc Trăng, Việt Nam, và được một cặp vợ chồng người Đức nhận nuôi khi còn nhỏ. Rösler đã vượt qua nhiều khó khăn để trở thành Phó Thủ tướng trẻ nhất của nước Đức, đồng thời là một chính trị gia có tầm ảnh hưởng lớn trong nước.Hiện nay, Philipp Rösler đang giữ chức Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Quỹ đầu tư VinaCapital Ventures tại Việt Nam, chuyên đầu tư vào công nghệ và các doanh nghiệp khởi nghiệp
Tại Tiệp Khắc (nay là Cộng hòa Séc và Slovakia), cũng có một cộng đồng người Việt khá lớn đến làm công nhân, ước tính khoảng 60.000 người trước năm 1989, hiện nay trên 83,000 người (kể cả những người đã nhập quốc tịch sở tại).
Ba Lan có một trong những cộng đồng người Việt lớn nhất trong khu vực trước năm 1989; ước tính từ 20.000 đến 40.000 người đến đây với tư cách là sinh viên hoặc nhân viên hợp đồng theo thỏa thuận với chính quyền cộng sản.
Các quốc gia Khối phía Đông khác như Hungary, Bulgaria và Romania cũng tiếp đón các cộng đồng công nhân và sinh viên người Việt nhỏ hơn trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh do các thỏa thuận tương tự với Việt Nam. 27
Cuối cùng cũng nên nhắc đến trường hợp Trung Quốc. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chừng 250,000 người gốc Hoa, đa số là nông dân, ngư dân và thợ thủ công, trốn qua Trung quốc do áp lực bài Hoa của chính quyền Việt Nam. Họ được đưa vào sống và làm việc tại các nông trường do nhà nước quản lý tại phía nam Trung Quốc và hội nhập vào đời sống địa phương.
Ngược lại, còn có một cộng đồng người gốc Việt, vẫn nói tiếng Việt ở nhà , hát quan họ Bắc Ninh và ăn nước mắm. Họ chủ yếu là người Kinh, đã theo đường biển di dân từ Đồ Sơn, Hải Phòng, miền bắc Việt Nam qua Trung quốc từ 500 năm trước. Họ định cư tại khu vực Tam Đảo, thuộc xã Giang Bình, thị trấn Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây, cách cửa khẩu Móng Cái của Việt Nam hơn 25 km. Ước tính có khoảng 32,000 người Kinh tại Trung Quốc, chủ yếu sinh sống trên ba đảo là Vạn Vĩ, Sơn Tâm và Vu Đầu. Dần dần, 3 hòn đảo bị bồi lấp thành bán đảo Tam Đảo như hiện nay. Cộng đồng này vẫn duy trì ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, bao gồm việc nói tiếng Việt và tổ chức các lễ hội truyền thống. Họ thường mời những bậc cao niên từ Trà Cổ (TP Móng Cái) sang để hướng dẫn tổ chức các lễ hội và cúng đình. Mỗi năm có bốn đợt lễ lớn, là dịp để mọi người chung vui và cầu may mắn.
Người Kinh ở đây cũng là một trong những dân tộc giàu bản sắc trên đất Trung Quốc, với sự hỗ trợ từ chính quyền trong việc học tiếng Việt và duy trì truyền thống văn hóa. 28 Trước đây họ được phép có hai con ( thay vì một con cho người Hán) và thị vào đại học được thêm điểm khuyến khích giống như “affirmative action” đối với người Da màu ở Mỹ. ( Theo Phuong China Vlog).
(Còn tiếp)
Hồ Văn Hiền
Ngày 21 tháng 5 năm 2023
Ngày 7 tháng 3 năm 2025
1 Theo Wikipedia tiếng Anh
2 https://www.history.com/news/vietnam-war-refugees
3 https://coffeeordie.com/operation-babylift
4 https://casetext.com/case/vishipco-line-v-chase-manhattan-bank-n-a
5 https://www.britishempire.co.uk/article/vietnameserefugees.htm?utm_source=perplexity
6 Nguồn: http://www.vietvungvinh.com/2015/04/giao-chi-san-jose-tau-truong-xuan.html
7 Theo Wikipedia
8 https://www.unhcr.org/news/vietnamese-refugees-well-settled-china-await-citizenship
9 https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-47292219
10 https://theworld.org/stories/2014/02/10/if-you-are-vietnamese-paris-night-cultural-tradition
11 The Christian Science Monitor, 25/11/1980
12 https://www.bbc.com/news/articles/ce3yzq6px3eo
13 Thu nhập hộ gia đình trung vị (median household income) của người Mỹ gốc Việt vào năm 2019 là 69.800 đô la, trong đó người Mỹ gốc Việt sinh ra tại Hoa Kỳ kiếm được 82.400 đô la và người sinh ra ở Việt Nam kiếm được 66.000 đô la. Đối với người Mỹ gốc Hoa, thu nhập hộ gia đình trung bình là khoảng 85.229 đô la vào năm 2019. Người Mỹ gốc Ấn Độ có thu nhập hộ gia đình trung bình cao nhất trong số các nhóm này, vào khoảng 119.000 đô la vào năm 2019. Những con số này phản ánh sự chênh lệch kinh tế giữa các cộng đồng người Mỹ gốc Á khác nhau tại Hoa Kỳ.Mức thu nhập trung bình của các hộ gia đình ở Hà Nội và Sài gòn chừng 9000-10000 USD mỗi năm.
14 https://www.governor.sa.gov.au/vice-regal/speeches/vietnam-australia-centre?t&utm
15 Những người di cư xin tị nạn tại biên giới của một quốc gia có các quyền cụ thể được xác định theo luật pháp quốc tế:
Quyền chính của người xin tị nạn:
• Quyền xin tị nạn: Được quy định tại Điều 14 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR), mọi người đều có quyền xin tị nạn khỏi bị đàn áp ở các quốc gia khác.
• Không trục xuất: Các quốc gia không thể trả lại những người xin tị nạn đến các quốc gia nơi tính mạng hoặc tự do của họ sẽ bị đe dọa do chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, tư cách thành viên trong một nhóm xã hội cụ thể hoặc quan điểm chính trị. Nguyên tắc này là trung tâm của Công ước về người tị nạn năm 1951 và là một phần của luật tập quán quốc tế.
• Đánh giá cá nhân: Người di cư có quyền được đánh giá cá nhân về nhu cầu bảo vệ của họ, đảm bảo đối xử công bằng và tránh bị trục xuất tập thể.
• Tiếp cận các dịch vụ cơ bản: Người xin tị nạn phải được cung cấp nhà ở, chăm sóc sức khỏe, giáo dục và các dịch vụ thiết yếu khác trong quá trình tị nạn.
Định nghĩa Luật Quốc tế:
1. Công ước về người tị nạn năm 1951 và Nghị định thư năm 1967: Những điều này cung cấp khuôn khổ pháp lý để bảo vệ người tị nạn, bao gồm định nghĩa về người tị nạn và các biện pháp bảo vệ như không trục xuất.
2. Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền (UDHR): Điều 14 thiết lập quyền cơ bản để xin tị nạn.
3. Các công cụ khu vực: Các ví dụ bao gồm Hệ thống tị nạn chung châu Âu của EU và các thỏa thuận khu vực như Tuyên bố Cartagena.
Những luật này cùng nhau đảm bảo rằng những người di cư xin tị nạn được đối xử với phẩm giá và quyền lợi của họ được duy trì.
16 https://www.voatiengviet.com/amp/kieu-chinh-hanh-trinh-chong-gai-cua-mot-nguoi-ti-nan-den-hollywood/5395381.html
17 Tippi Hedren, một nữ diễn viên nổi tiếng trong phim The Birds của đạo diễn Alfred Hitchcock, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ những người tị nạn Việt Nam chiếm lĩnh ngành công nghiệp chăm sóc móng tay ở Mỹ. Năm 1975, khi tình nguyện tại Hope Village, một trại tị nạn ở California, Hedren nhận thấy rằng phụ nữ Việt Nam rất thích các móng tay được cắt tỉa cẩn thận của mình. Để giúp họ có một sinh kế mới, bà đã cho thợ làm móng cá nhân của mình, Dusty Coots, đến dạy cách chăm sóc móng tay cho một nhóm 20 phụ nữ tại trại.
Hedren cũng tuyển dụng một trường làm đẹp địa phương để hỗ trợ đào tạo và giúp những phụ nữ này có được giấy phép và việc làm trên khắp Nam California. Sáng kiến này đã giúp họ trở nên độc lập về tài chính và truyền bá kỹ năng của họ trong cộng đồng người Việt. Theo thời gian, người Mỹ gốc Việt thống trị ngành công nghiệp làm móng, ngành mà họ đã cách mạng hóa bằng cách cung cấp các dịch vụ giá cả phải chăng.
Ngày nay, người Mỹ gốc Việt chiếm khoảng 45% thợ làm móng ở Hoa Kỳ và 80% ở California. Hedren được tôn vinh là "Mẹ đỡ đầu của ngành công nghiệp làm móng Việt Nam".
18 https://parks.canada.ca/culture/designation/evenement-event/arrivee-vietnamiens-arrival-vietnamese
19 https://www.newsreview.com/sacramento/content/the-trial-of-general-dang/884223/
20 Theo Wikipedia tiếng Anh.
21 https://peoplepill.com/i/eve-mary-thai-thi-lac
22 https://www.ilo.org/hanoi/Areasofwork/labour-migration/lang--en/index.htm
23 Các báo ở VN cho con số cao hơn, chừng 5,3 triệu người Việt định cư tại nước ngoài, ví dụ báo Nhân Dân năm 2020, do Wikipedia trích dẫn).
24 theo Wikipedia, nhưng theo website minorityrights.org, thì mặc dù con số chính thức của chính phủ Cambodia là dưới 15,000 người (0,1% dân số), trên thực tế số người Việt chừng 400.000-700.000
25 Theo VOA Tiếng Việt ngày 30 tháng 8, 2024.
https://www.asahi.com/sp/ajw/articles/15363669
26 The Little Vietnam in Berlin https://www.berlinglobal.org/index.php
27 http://www.ceemr.uw.edu.pl/vol-4-no-1-june-2015/editorial/vietnamese-communities-central-and-eastern-europe-part-global).
28 https://nld.com.vn/thoi-su-quoc-te/lang-nguoi-kinh-o-trung-quoc-2023041420502083.htm?t&utm