"Con nhà tướng không được khiếp nhược trước quân thù." ** Bùi Thị Xuân **

Người Việt Hải Ngoại Sau 50 Năm (1975-2025)
(Phần 2)

1) Bối cảnh chính trị xã hội:

Người Việt nhập cư Hoa Kỳ trước 1975 không đáng kể. Vào những năm 1950's, dân số người Việt nhập cư sống ở Hoa Kỳ chỉ ở mức thấp hàng trăm người. Những người nhập cư trước 1975 này thường là sinh viên, cô dâu có chồng Mỹ trong chiến tranh hoặc những người có nghề nghiệp trình độ cao chẳng hạn như bác sĩ. Dân số này không tăng cho đến gần cuối thập niên 1970 số người Việt tăng đột biến. Chiến tranh Mỹ tham gia ở Việt Nam cũng là thời kỳ hoang mang và chia rẽ đối với người dân Hoa Kỳ.

Là một trong những cuộc chiến dài nhất và bị ghét nhất của Hoa Kỳ, cho nên những người Việt nhập cư sau cuộc chiến này lại càng gặp khó khăn. Với tình cảm phản chiến vẫn còn mạnh mẽ và nước Mỹ vẫn còn quay cuồng đối phó với những thương vong của một cuộc chiến gây tranh cãi như vậy, những người nhập cư Việt Nam thấy mình phải đối đầu với "sự phân biệt chủng tộc, phân biệt đối xử và loại trừ”, nói theo ngôn ngữ hiện nay của những người phe tả “racism, discrimination, exclusion”.

Hồi đó. chúng ta từ trại tỵ nạn mới đến Mỹ, đối với không ít người cảm giác tựa như 'được lên thiên đàng" rồi, và cảm tình chính là lòng biết ơn với đất nước này đã cưu mang chúng ta, cho chúng ta một cuộc sống tự do, sung túc. Nên chúng ta không nhận thức những phân biệt đối xử, nếu có chúng ta cũng thông cảm, dễ bỏ qua, hoặc chịu không nổi thì tìm đi ở chỗ khác.

Tuy nhiên, kỳ thị thật sự xảy ra như trường hợp người tị nạn ở Alamo Bay, Texas phải đối mặt với một số thách thức đáng kể:

- Cạnh tranh kinh tế: Họ đe dọa sinh kế của ngư dân địa phương trong ngành đánh bắt tôm.
- Phân biệt chủng tộc và thù nghịch, càng trầm trọng hơn do sự tham gia của các nhóm như Ku Klux Klan giúp huấn luyện quân sự cho phía da trắng kỳ thị.
- Xung đột văn hóa: Sự hòa nhập vào một cộng đồng chủ yếu là người da trắng đã dẫn đến những hiểu lầm và xung đột văn hóa, làm phức tạp thêm quá trình định cư của họ.
Thời đó có phim Alamo Bay (1984) nổi tiếng, do Louis Malle (người Pháp) đạo diễn, nói về cuộc xung đột 4 năm trước. Vai người thanh niên tranh đấu tên Dinh chống lại người cựu chiến binh Mỹ kỳ thị do một người Việt gốc là một nhà nghiên cứu ADN chuyển qua làm diễn viên. Đạo diễn đã gặp phải một vấn đề to lớn trong việc tìm diễn viên phù hợp ngay cả những người có kinh nghiệm, vì vậy ông đã quảng cáo tuyển diễn viên trên nhiều tờ báo và trên các đài phát thanh ở một số thành phố của Mỹ. Mặc dù không có bất kỳ kinh nghiệm diễn xuất nào, Ho Nguyen đã thử vai và đã gây ấn tượng với các giám đốc tuyển diễn viên và chính Malle. Sự nghiệp điện ảnh cua Ho Nguyen cũng rat ngắn ngủi. 1

Rất may là cuốn phim khá thuận lợi cho hình ảnh người Việt, phim thách thức các khuôn mẫu (stereotypes) tiêu cực về người tị nạn Việt Nam, miêu tả họ là những cá nhân chăm chỉ phấn đấu vì "Giấc mơ Mỹ", thay vì là nạn nhân thụ động hay là mối đe dọa cho dân Mỹ.
Nhưng cuối cùng về lâu dài, người Việt Nam không chỉ tiếp tục bám biển mà còn phát triển mạnh mẽ. "Chúng tôi thích thời tiết ở đây, chúng tôi thích đánh bắt tôm, chúng tôi thích cơ hội bắt đầu công việc kinh doanh của riêng mình,” một người nói với The Washington Post vào năm 1984. Tờ báo gọi đó là "câu chuyện cổ điển về người nhập cư của Mỹ. Họ đến, họ làm việc vất vả, họ hy sinh, họ vượt qua sự thù địch và bạo lực, họ đã chiến thắng.”
"Nhưng đây chính xác là nỗi sợ hãi mà [ông] Beam [thuộc nhóm kỳ thị KKK] đã 'vũ khí hóa' (weaponized): ‘Người da trắng đã thua cuộc. Đến năm 1984, một ngư dân kể rằng trong số 150 chiếc thuyền cập cảng, có thể 25 chiếc thuộc sở hữu của người Mỹ. 'Hãy đối mặt với nó,' ông nói, 'họ đã xóa sổ chúng ta.'('they’ve wiped us out'.)” 2

NguoiVietDiTan2 1 HVH

Fig 1: Nhân vật Dinh (Ho Nguyen) trong phim Alamo Bay quyết tâm bảo vệ cộng đồng người Việt chống sự kỳ thị của dân địa phương.

Sau Chiến tranh Việt Nam, có hai làn sóng người nhập cư khác nhau đến Hoa Kỳ. Làn sóng đầu tiên diễn ra sau khi Sài Gòn thất thủ vào tháng 4 năm 1975; 125.000 người tị nạn Việt Nam chạy sang Hoa Kỳ. Những người nhập cư này là những người làm việc chặt chẽ với quân đội Hoa Kỳ hoặc có các vị trí nổi bật trong chính phủ miền Nam Việt Nam và sợ bị chính quyền cộng sản miền Bắc Việt Nam hành quyết. Làn sóng di cư đầu tiên này phải đối mặt với một cuộc di tản hỗn loạn ra khỏi nước và họ thường bị tách khỏi các thành viên trong gia đình. Khi đến Hoa Kỳ, những người nhập cư này được đưa đến làm thủ tục tại các trại tạm cư rải rác trên nước Mỹ, ở California, Pennsylvania, Arkansas và Florida. Sau đó, họ được chuyển đến ở gần những người bảo trợ, nhận “đỡ đầu” họ (sponsors) đáp ứng các nhu cầu căn bản. Quá trình di tản khỏi đất nước mình và được tập trung ở các trại tạm thời trong nước Mỹ trong khi chờ đợi một người bảo lãnh là một trải nghiệm độc đáo cho tới thời điểm đó chỉ xảy ra với những người nhập cư Đông Nam Á.( Năm 2022, sau khi Mỹ đột ngột rút ra khỏi Kabul, Afghanistan, 76000 người tỵ nạn nước này cũng tạm thời ở trong các căn cứ quân sự Mỹ trong nhiều tháng, có người phải ở trong các khách sạn một thời gian trước khi được bảo lãnh định cư.)

Làn sóng người nhập cư thứ hai diễn ra vài năm sau đó từ cuối những năm 1970 cho đến giữa những năm 1980. Những người nhập cư này rời Việt Nam sau khi chế độ cộng sản tìm cách thay đổi mọi mặt cuộc sống ở nước Việt Nam mới được thống nhất. Những người nhập cư này được cho là mối đe dọa đối với chính phủ cộng sản đã phải đối mặt với các trại cải tạo, thực tế là những trại lao động khổ sai. Cùng với làn sóng di cư thứ hai là những người vì lý do tín ngưỡng hay thuộc thành phần kinh tế được coi như có tội với chế độ ( ví dụ tư sản mại bản).

Vô số người tị nạn chạy trốn khỏi Việt Nam trên những chiếc thuyền nhỏ, nguy hiểm đến các nước lân cận như Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Philippines hoặc Hồng Kông để chờ được chấp nhận trong các trại tị nạn. để đi đến Hoa Kỳ, Úc, Pháp hoặc Canada. Tuy nhiên, do các con thuyền này không an toàn, và do nạn hải tặc cướp bóc trên biển, khoảng 200.000 đến 400.000 người Việt Nam đã bỏ mạng trên đường vượt biển. Đối với một số người Mỹ, đi tìm một đời sống tốt hơn không phải là lý do chấp nhận được để nhập cư vào Mỹ, do đó họ có một cái nhìn tiêu cực và võ đoán về thuyền nhân đến Hoa Kỳ. Tuy nhiên, việc thuyền nhân sẵn sàng rời bỏ quê hương và liều mạng để cố gắng đến được các nước tự do cho thấy sự tuyệt vọng mà người Việt Nam phải trải qua trong những năm sau khi Sài Gòn sụp đổ và làm cho người ta có cảm tình với thuyền nhân hơn, kể cả những người nổi tiếng phe tả trước đây chống chính phủ VNCH như triết gia Jean Paul Sartre.
Một vấn đề lớn đối với làn sóng người tị nạn Việt Nam đặc biệt làn sóng thứ hai (thuyền nhân) là “Rối loạn căng thẳng sau chấn thương” (PTSD) do những nỗi kinh hoàng mà họ phải đối mặt khi rời đất nước để đến Hoa Kỳ. Những người bị PTSD thường không tìm kiếm sự giúp đỡ vì sự kỳ thị tiêu cực liên quan đến bệnh tâm thần trong những năm 1970 và 1980. Họ thường trải qua những cơn ác mộng, trầm cảm và họ thể hiện những hành vi có vẻ như chống đối xã hội. Các triệu chứng mà họ gặp phải tương tự như các triệu chứng của người lính Mỹ mắc PTSD từng tham chiến ở Việt Nam. Căn bệnh tâm thần này khiến một số người tị nạn càng khó hòa nhập với văn hóa Mỹ, kiếm việc làm hoặc hòa nhập với cộng đồng mới của họ ở Hoa Kỳ. Theo một nghiên cứu năm 2006 của Viện Tiểu đường, Tiêu hóa và Bệnh thận Quốc gia, khoảng 70% người tị nạn Đông Nam Á được chăm sóc sức khỏe tâm thần được chẩn đoán mắc chứng rối loạn căng thẳng sau chấn thương. 3

Một khó khăn lớn trong việc thích ứng với môi trường mới là sự tản mát ban đầu của những người nhập cư Việt Nam. Những người nhập cư được bảo trợ đã di chuyển khắp nước Mỹ, gây khó khăn cho chúng ta là những người từ một nền văn hóa phụ thuộc quá nhiều vào gia đình và cộng đồng. Trường hợp điển hình là nhân vật truyền thông nổi tiếng Leyna Nguyễn, năm 1975 cô 5 tuổi, cùng theo gia đình di tản qua Hoa Kỳ và định cư tại tiểu bang Minnesota, nơi rất vắng vẻ và không có người Việt . Một hôm gia đình cô tìm được sau vườn một rau gì đó giống rau ở Việt Nam, đem về nấu ăn, ngon quá nên ngủ say. Đến lúc “sponsor” (người bảo trợ) về thấy tưởng là cả nhà bị ngộ độc thực phẩm. Tuy nhiên đây cũng là yếu tố giúp cho cô nói đúng giọng Mỹ và thành công trong môi trường rất cạnh tranh của kỹ nghệ truyền thông truyền hình dòng chính của Mỹ.

Như chúng ta đã bàn ở trên, nói chung dân Mỹ rất bất mãn về Chiến tranh Việt Nam. Những người nhập cư Việt Nam thường phải đối mặt với sự phân biệt chủng tộc và phân biệt đối xử từ công dân Mỹ, đặc biệt là trong những năm sau Chiến tranh Việt Nam. Tình cảm bài châu Á này bắt đầu từ cuối thế kỷ 19 (với người Tàu) và tiếp tục kéo dài đến những năm 1970 và 1980.
Theo một cuộc thăm dò năm 1975 của Gallup, hơn một nửa công chúng Hoa Kỳ không đồng ý với việc tái định cư của người Việt sang Hoa Kỳ. Thái độ này đối với việc người Việt Nam nhập cư ào ạt là do dân Mỹ đã chán ngấy cuộc chiến ở Việt Nam, trong khi có những dữ kiện thống kê cho thấy xu hướng ở Mỹ coi người Việt Nam là “kẻ thù”, mặc dù hầu hết người tị nạn Việt Nam đã từng đứng về phía Mỹ trong chiến tranh, có lẽ họ hiểu sai đây là cuộc chiến giữa Mỹ và Việt Nam, thay vì thực chất là một cuộc nội chiến giữa người Việt miền Nam đồng minh với Mỹ và người Việt miền Bắc được thế giới cọng sản hổ trợ. Không có giải thích chính xác lý do đằng sau dữ liệu từ cuộc thăm dò, nhưng nó khiến việc tái định cư cho những người nhập cư Việt Nam sau chiến tranh trở nên vô cùng khó khăn.
Một số quân nhân cao cấp của VNCH cũng gặp khó khăn với chính phủ và báo chí Mỹ như trường hợp Trung tướng Đặng Văn Quang bị Mỹ từ chối visa trong 15 năm mà chúng ta đã nhắc đến ở trên. Một nhân vật khác là Tướng Nguyễn Ngọc Loan.
Khi Sài Gòn thất thủ năm 1975, Tướng Nguyễn Ngọc Loan và gia đình đã trốn thoát trên một chiếc máy bay của Không lực Việt Nam Cộng hoà. Sau đó, Sở Di trú và Nhập tịch Hoa Kỳ đã cố gắng trục xuất ông vì cáo buộc tội ác chiến tranh liên quan đến việc xử tử tại chỗ một tù binh cọng sản tên Nguyễn Văn Lém (Bảy Lốp) ngày 1 tháng 2 năm 1968 trong biến cố Tết Mậu Thân ở Sài Gòn và việc này được ghi lại trên một bức ảnh thời sự nổi tiếng khắp thế giới do nhiếp ảnh gia Mỹ Eddy Adams chụp và đoạt giải Pulitzer năm 1969 . Tuy nhiên, Tổng thống Jimmy Carter cho rằng “thái độ xét lại lịch sử như vậy là điên rồ” và đã đích thân can thiệp để tạm dừng thủ tục trục xuất, cho phép tướng Loan ở lại Hoa Kỳ. 4
Ông Lém bị cáo buộc đã tàn sát gia đình của Trung tá VNCH Nguyễn Tuấn, bao gồm vợ, mẹ và sáu đứa con của ông. Chỉ có một người con trai, Huân Nguyễn, 9 tuổi, sống sót mặc dù bị thương nặng vì bị bắn 3 lần và chứng kiến mẹ mình chết vì mất máu. Huân sau đó trốn khỏi Việt Nam sau năm 1975 và di cư sang Hoa Kỳ. Ông trở thành Chuẩn Đô đốc (Rear Admiral) người Mỹ gốc Việt đầu tiiên của Hải quân Hoa Kỳ năm 2019
Mặc dù công chúng Mỹ nói chung phản đối việc người tị nạn Việt Nam nhập cư, chính phủ Mỹ trong nhiệm kỳ đầu (và là nhiệm kỳ duy nhất) của Tổng Thống Carter (1/1977-1/1981) đã ban hành một số chính sách giúp đỡ người tị nạn trong những năm sau Chiến tranh Việt Nam. Cựu tổng thống Carter là một trong những chính trị gia hiếm hoi đã dám chọn một chính sách nhân đạo nhưng bất lợi về mặt chính trị, đặc biệt trong thời điểm tranh cử. Lúc ông mất, ngày 29/12/2024, người Việt tỵ nạn vẫn còn nhớ ơn của ông. 5  Ngày 28/10/1977, TT Carter ký ban hành Đạo Luật HR 7769, cho phép những người Đông Dương (Việt Nam, Lào, và Cambodia) được thay đổi tình trạng “tạm dung” (parolee) để trở thành “thường trú nhân” (legal resident alien status) chính thức định cư tại Hoa Kỳ, và được những giúp đỡ phụ trội từ chính phủ liên bang để học tiếng Anh, được giáo dục, học nghề, tìm việc. 6 Ông nói: “Trong suốt cuộc đời mình, tôi chưa bao giờ thấy có bất cứ nhóm người tị nạn nào mà tôi biết, bị chiến tranh ảnh hưởng dữ dội, như những người Việt Nam, Lào, và Cambodia.” Trước đó, người tị nạn Đông Dương tại Hoa Kỳ được cấp quy chế nhập cư tạm thời được gọi là quy chế “parolee” theo Đạo luật Hỗ trợ Người tị nạn và Di cư Đông Dương năm 1975 (Indochina Migration and Refugee Assistance Act). Quy chế này cho phép họ vào Hoa Kỳ và nhận hỗ trợ tái định cư nhưng không cung cấp lộ trình thành thường trú nhân. Năm 1977, luật đã được sửa đổi để cho phép những người tị nạn này điều chỉnh tình trạng của họ từ người được “tạm dung” thành thường trú nhân.

NguoiVietDiTan2 2 HVH

Fìg 2: Ngày 9 tháng 7 năm 1979, báo The New York Times đăng trên trang nhất tựa đề “Người tỵ nạn được Hạm đội thứ Bảy vớt nói rằng ‘Chỉ thị của TT Carter [ra lệnh vớt người vượt biển] thúc đẩy việc di tản khỏi Việt nam’” với hình các trẻ em người Việt vừa được một chiến hạm Mỹ vớt từ vịnh Thái Lan.

Năm 1980, khi TT Carter tranh cử cho nhiệm kỳ thứ nhì, kinh tế nước Mỹ đang khủng hoảng,, với nạn thất nghiệp và lạm phát cao, và vị thế chính trị của chính bản thân ông cũng đang bị thách thức từ trong nước (Thượng nghị sĩ Edward Kennedy tranh cử với Carter đang tại vị) cũng như ngoài nước (người Mỹ bị bắt làm con tin ở Iran). Nhận thêm người nhập cư có thể làm cho người Mỹ thấy việc làm của họ bị đe dọa. Tuy vậy, TT Carter vẫn cố gắng thuyết phục cử tri Mỹ chấp thuận nhận thêm “thuyền nhân” tại các trại tị nạn ở Đông Nam Á. Năm 1979 ông ra lệnh cho Hạm đội thứ 7 vớt các thuyền nhân trên biển, tạm thời tăng mức tối đa số thuyền nhân được chấp nhận vào Mỹ đến 14000 người mỗi tháng, đồng thời khiến các quốc gia hàng đầu khác thực hiện tương tự.
Ngày 17/5/1980, TT Carter ký ban hành Đạo Luật Tị Nạn (Refugee Act of 1980), cho phép gia tăng gần gấp ba lần số thuyền nhân vào Mỹ, từ 17,400/năm lên 50,000/năm. 7
Đây là đạo luật quan trọng đầu tiên, được tạo ra để đối phó với số lượng ngày càng tăng người tị nạn đến từ Đông Nam Á vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980. Đạo luật này xác định chính xác ai có thể được phân loại là người tị nạn ( tiêu chuẩn chính: “well founded fear of persecution”: người có cơ sở vững chắc để sợ bị ngược đãi nếu họ trở về nước gốc của họ). Đạo luật cũng quy định việc nhập quốc tịch cho người tị nạn. Sau một năm sống ở Hoa Kỳ, những người tị nạn được phân loại là công dân thường trú (được cấp thẻ xanh). Sau 5 năm ở Mỹ, người tị nạn có thể nộp đơn xin quốc tịch. Người nhập cư Việt Nam đã tận dụng lợi thế đáng kể này, thể hiện qua thực tế là người nhập cư Việt Nam có tỷ lệ nhập quốc tịch cao nhất so với các nhóm nhập cư khác. Số liệu này cho thấy người Việt nhập cư vào thời điểm này chưa có ý định trở về quê hương của họ và Mỹ là quê hương mới của họ (mặc dù cho tới nay nhiều người Việt hải ngoại vẫn gọi Mỹ là đất “tạm dung”).

2) Những thay đổi trong đời sống của người Mỹ gốc Việt qua 50 năm.

Sau một vài năm ở Mỹ và đã quen hơn với vùng đất mới của họ, những người nhập cư Việt Nam đã chuyển đến các khu vực đô thị lớn để tạo ra các “biệt khu dân tộc” (ethnic enclaves) với những người Mỹ gốc Á khác. Ví dụ nổi bật nhất của những vùng đất này là “Little Saigon” ở Quận Cam, California. Gần đây hơn, dân số người Mỹ gốc Việt vào khoảng trên hai triệu người (2.200.000), đây là số người Việt Nam lớn nhất sống ngoài Việt Nam. Việc tái định cư của người Việt nhập cư vào một cộng đồng người Mỹ gốc Á giúp họ dễ dàng thích nghi với một nền văn hóa mới như vậy.

Little Saigon, California, thuộc Orange County, dân số có chừng 190.000 người gốc Việt, với các thành phố Westminster 43.000 và Garden Grove 54.000. Cách Los Angeles khoảng 45 dặm (72 km) về phía nam, Westminster từng là một thành phố ngoại ô thuộc tầng lớp trung lưu chủ yếu là người da trắng của Quận Cam (Orange County) với nhiều đất nông nghiệp, nhưng thành phố này sau đó đã xuống dốc vào những năm 1970.
Năm 1975 50.000 người Việt đáp máy bay xuống phi trường El Toro ở Camp Pendleton Marine Corps Base. “Lính Thủy quân lục chiến dựng một thành phố lều đồ sộ trên sườn đồi bụi bặm của Trại Pendleton và múc ra những bát phở bò, mì phết bơ và cơm trắng với dưa chuột thái lát. Một số TQLC mở ví bỏ tiền mua đũa cho người tỵ nạn. Nhưng không phải ai cũng chào đón họ như vậy. Lúc đầu, Quận Cam bảo thủ có vẻ không phù hợp với nghững người Việt mới đến này. Gần như ở mọi ngã rẽ, họ đều bị hắt hủi, đổ lỗi và bị bảo là “hãy giống người Mỹ hơn”. Nhưng hóa ra chính trị chống cộng, tinh thần cạnh tranh và trái tim kinh doanh của họ cũng giống như người Mỹ.” 8 

NguoiVietDiTan2 3 HVH

Fig 3: Khu chợ Phước Lộc Thọ (Asian Garden Mall), Tết, ở Little Saigon, Orange County, năm 2008 (Source Wikimedia Commons)

Từ năm 1978, trung tâm của Little Saigon từ lâu đã là Đại lộ Bolsa. Những người tiên phong như Danh Quách mở một nhà thuốc tây với vốn 37 ngàn đô la và Frank Jao buôn bán nhà cửa. Tên Việt của Frank Jao là Triệu Như Phát, ông người Việt gốc Hoa ở Hải Phòng , di cư vào Đà Nẵng năm 1954 và theo học lớp về địa ốc tại một trường đại học cộng đồng sau khi tới Mỹ. Ông hiện là một trong 4 tỷ phú gốc Việt tại Mỹ, và là chủ nhân nhiều cơ sở thương mại lớn ở Little Saigon, hoạt động từ thiện và là chủ tịch của Quỹ Giáo dục Việt nam (Vietnamese Education Fund). Cũng năm đó, Nhật báo Người Việt nổi tiếng cũng bắt đầu xuất bản từ một tư gia ở Garden Grove.

Những người Mỹ gốc Việt mới đến khác đã sớm hồi sinh khu vực bằng cách mở cơ sở kinh doanh của riêng họ tại các cửa hàng cũ trước đây thuộc sở hữu của người da trắng và các nhà đầu tư đã xây dựng các trung tâm mua sắm lớn có nhiều doanh nghiệp kinh doanh. Cộng đồng và doanh nghiệp Việt Nam sau đó đã lan sang Garden Grove, Stanton, Fountain Valley, Anaheim và Santa Ana lân cận.
Năm 1988, một biển báo đường cao tốc tắt được đặt trên Xa lộ Garden Grove (Quốc lộ 22) chỉ định các lối ra dẫn đến Little Saigon.

Cộng đồng người Việt ở San Jose, California. Những người tị nạn lúc ban đầu được định cư rải rác khắp Hoa Kỳ theo các hội đoàn và tư nhân bảo trợ cho họ, nhưng sau một thời gian nhiều người chuyển đến San Jose do khí hậu ấm áp, nhà ở giá cả phải chăng và cơ hội việc làm trong ngành công nghiệp công nghệ đang phát triển của Thung lũng Silicon, những việc làm như lắp ráp trong nhà máy sản xuất computer không đòi hỏi kiến thức nhiều và tiếng Anh lưu loát. Vào cuối những năm 1970 và 1980, một vùng quy tụ nhiều người Việt được thành hình ở Đông San Jose, với các doanh nghiệp và tụ điểm văn hóa. Ngày nay, San Jose là nơi sinh sống của hơn 180.000 người Việt, 9 chiếm hơn 10% dân số của thành phố. Về mặt kinh tế, người Mỹ gốc Việt đã thành lập nhiều doanh nghiệp nhỏ, đặc biệt là trong lĩnh vực bán lẻ và ăn uống, đóng góp đáng kể cho nền kinh tế địa phương. Bất chấp những thách thức như đại diện chính trị hạn chế và chênh lệch kinh tế, cộng đồng vẫn tiếp tục phát triển và định hình bối cảnh văn hóa và kinh tế của San Jose.

NguoiVietDiTan2 4 HVH

Fig 4:10 vùng đô thị Hoa Kỳ có nhiều người Việt nhất, năm 2019 (Nguồn Pew Research Center)

Vùng đô thị Washington (Washington Metropolitan Area) là một nơi khác được những người nhập cư Việt Nam đến định cư ưa chuộng vì nhiều lý do. Nhiều người Việt Nam trong làn sóng nhập cư đầu tiên có quan hệ với chính phủ hoặc đại sứ quán Hoa Kỳ.
Bắc Virginia nổi lên như một địa điểm thích hợp trong khu vực để tái định cư vì nhiều lý do. Các quan chức Đại sứ quán đã hướng những người tị nạn về phía Bắc Virginia, và quận Arlington có các nhà tài trợ như Giáo hội Công giáo. Sau khi làn sóng người nhập cư đầu tiên định cư ở vùng Clarendon, thuộc Arlington phía bên này sông Potomac, đối diện với Washington, DC, các mối quan hệ gia đình và xã hội có sẵn tạo nên mạng lưới để những người nhập cư trong tương lai gia nhập nhóm dân cư này. Lúc đầu, 15% (3.000 người) dân số Việt Nam ở Mỹ cư trú tại khu vực Washington, D.C. và nhiều người khác tham gia sau đó. Các khu vực đông người Việt định cư nhất ở Bắc Virginia là khu phố Clarendon dọc theo Đại lộ Wilson và Columbia Pike, kéo dài về phía tây tới Falls Church và Annandale. Sau đó một thời gian, vì khu Clarendon được chỉnh trang và xây dựng lại sau khi có đường metro đi ngang qua, các cơ sở kinh doanh của người Việt phải dời đi chỗ khác, và nơi đến mới là Trung Tâm Eden, ở khu Seven Corners, thành phố Falls Church, thuộc Fairfax County. Một luật sư người Việt ông Nguyễn Văn Gioan mướn lại một siêu thị Grand Union đã đóng cửa từ lâu, gia đình ông hùn hạp, chia ra làm nhiều ngăn nhỏ cho ngừoi Việt thuê. Tên EDEN được chọn vì lý do giản dị là chỉ gồm có 4 chữ cái nên làm bảng hiệu ít tốn kém hơn, theo lời bà Gioan kể lại.

NguoiVietDiTan2 5 HVH

Fig 5: Trung tâm mua sắm Eden Center, Falls Church, Bắc Virginia, trong vùng đô thị thủ đô Washington DC.

Năm 1984, trung tâm mua sắm Eden Center khai trương, mang lại 20.000 sf không gian bán lẻ giá cả phải chăng cho khu vực. Năm 1997, chủ Do Thái lấy lại khu địa ốc này và 32.400 square feet đã được thêm vào Trung tâm Mua sắm Eden, cũng như một tháp đồng hồ mang tính biểu tượng nhắc đến tháp đồng hồ chợ Bến Thành, một cổng chào và vào thời điểm đó, đây là một trong những khu mua sắm lớn nhất của người Việt ở Hoa Kỳ. Trung tâm Eden trở thành một trung tâm thương mại và hoạt động của người Việt Nam. Năm 2007, "Ra khỏi Sài Gòn, Vào Little Saigon," (Exit Saigon, Enter Little Saigon) một cuộc triển lãm lưu động của Trung Tâm Người Mỹ Gốc Châu Á Thái Bình Dương thuộc viện Smithsonian, trong chuyến du hành khắp nước Mỹ trong 3 năm, tạm thời được đặt tại Trung tâm Eden để kể câu chuyện về trải nghiệm di cư và thích nghi của người Mỹ gốc Việt ở Mỹ. Trung tâm Eden hiện nay được coi là nơi tập trung các dịch vụ và hàng hóa của Việt Nam tại Bắc Virginia, cũng như toàn bộ Bờ Đông. Vào năm 2014, Eden Center là nơi có 120 cửa hàng và nhà hàng, hầu hết đều là của người Việt Nam.

NguoiVietDiTan2 6 HVH

Fig 6: Bảng ghi lại lịch sử cuộc định cư của người di dân gốc Việt trước cổng vào Trung tâm Eden, Falls Church City, nơi có mặt trên 120 cửa hàng và tiệm ăn và là nguồn cung cấp sản phẩm Việt Nam lớn nhất bên bờ đông nước Mỹ. (Nguồn BS Hồ Văn Hiền)

Có những căng thẳng giữa lực lượng cảnh sát của Falls Church, một thành phố nhỏ nhưng giàu có bậc nhất nước Mỹ với chừng 15 ngàn dân, và giới buôn bán ở Trung Tâm Eden. Vào ngày 11 tháng 8 năm 2011, các đặc vụ liên bang, Cảnh sát Bang Virginia và cảnh sát địa phương đã cùng nhau đột kích vào một số cơ sở kinh doanh ở Trung tâm Eden, thu giữ hơn 1 triệu đô la tiền mặt từ một cơ sở kinh doanh và một lượng nhỏ từ các cơ sở kinh doanh khác. Ngoài ra họ còn thu giữ một số “máy đánh bạc”; và 19 người bị bắt vì tình nghi phạm tội cờ bạc và rượu (gambling and alcohol crimes). Cảnh sát đổ lỗi cho băng đảng Dragon Family, một băng nhóm tội phạm người Mỹ gốc Việt hoạt động tại các trung tâm của người Mỹ gốc Á trên khắp Bắc Mỹ. Không có cáo buộc trọng tội (felony) nào được đưa ra, và cuối cùng, mặc dù một số bị cáo đã nhận tội, nhưng nhiều người đã bị hủy bỏ vụ án trước khi xét xử (cases dismissed). Ít nhất một bị cáo đã ra tòa và được tuyên vô tội. Cuộc đột kích đã gây ra căng thẳng giữa các cơ sở kinh doanh của Trung tâm Eden và chính quyền Thành phố Falls Church. Sau cuộc đột kích thứ hai, 5 tháng sau, các nghi phạm đã bị bắt giữ với nhiều tội danh đánh bạc và rửa tiền, nhiều người trong cộng đồng cáo buộc cảnh sát phân biệt chủng tộc và điều tra yếu kém.

NguoiVietDiTan2 7 HVH

Fig 7: TT Trump viếng thăm một tiệm ăn Huế ở Eden Center năm 2024 để vận động bầu cử vào thượng viện cho ứng viên gốc Việt Hung Cao.

Hiện nay khu Eden đóng góp trên một triệu đô la thuế mỗi năm cho ngân quỹ thành phố Falls Church. Thành phố vừa công bố một dự án lâu dài để nâng cấp khu Eden cùng với vùng nhỏ bao quanh. Người Việt địa phương cũng đang tự tổ chức để có tiếng nói mạnh mẽ hơn vào quá trình cải thiện khu phố này đồng thời bảo vệ bản sắc Việt nam cũng như ngăn ngừa đừng để quá trình “gentrification” làm cho các tiểu thương người Việt bị loại bỏ khỏi khu phố này vì giá cả tăng quá nhanh.

NguoiVietDiTan2 8 HVH

Fig 8: Nhà hàng Tàu Harvest Moon và các cơ sở thương mại chung quanh của người Việt sẽ được thay thế bằng một trung tâm y tế đồ sộ của Mỹ.

Một số khu thương mại khác có nhiều người Việt làm ăn mấy chục năm nay sẽ dần dần bị thay thế bằng những cơ sở thương mại tầm mức lớn và thuộc dòng chính. Như Graham Plaza ở góc đường Arlington Boulevard và Graham Road trước đây có nhà hàng Tàu Harvest Moon là một nơi sinh hoạt cộng đồng, tổ chứa đám cưới giá rẻ rất thịnh hành, tiệm tạp hóa Nha Trang nổi tiếng trên 40 năm và gần đây tiệm phở Golden Cow có tiếng ngon. Tất cả các cơ sở này sẽ bị thay thế bằng một trung tâm y tế lớn gồm phòng khám ngoại chẩn và nhiều chuyên khoa của Virginia Hospital Center (VHC). 10 Tết năm nay (2025), đoạn đường trước Eden Center được đặt tên là Saigon Boulevard, đánh dấu một cột mốc của sự hiện diện của cộng đồng người Việt tại Virginia. Một điểm đáng chú ý đối với vùng Hoa Thịnh Đốn gần thủ đô Mỹ, là khác với những nơi khác như ở Cali, người Việt ở đây chỉ sinh hoạt thương mãi tập trung ở khu Eden; tư gia của họ không quy tụ về một nơi mà họ sống xen kẽ cùng với các sắc dân khác, đặc biệt là người da trắng trong các vùng ngoại ô có tính cách cư dân (residential). Những khu chung cư apartments tương đối giá thấp được người Việt mới đến từ các trại tỵ nạn thuê mướn thời thập niên 1980s, 1990s ở sát nách trung tâm Eden nay đã trở thành nơi cư trú ưa chuộng của đông đảo người gốc Mỹ Latinh đến trong những thập niên sau đầu thế kỷ 21. Người Việt chỉ còn lui tới đây để buôn bán, sinh hoạt cộng đồng và nhà riêng của họ thì ở những khu condo, townhouse hay biệt thự khá giả hơn và có trường học tốt hơn.

NguoiVietDiTan2 9 HVH

Fig 9: Một đoạn đường Wilson Boulevard của Eden Center được đổi tên thành “Saigon Boulevard.” (Nguồn BS Hồ văn Hiền)

Houston, Texas có một trong những cộng đồng người Mỹ gốc Việt lớn nhất ở Hoa Kỳ. Theo Điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2010, có khoảng 85.000 người Mỹ gốc Việt sống ở Houston, nhưng con số này có thể lên tới 150.000 người, vì một số người có thể không được tính vào con số chính thức.

NguoiVietDiTan2 10 HVH

Fig 10: Đường phố Houston, Texas với tên Việt Nam (nguồn NPR) 11

Phần lớn cộng đồng người Việt ở Houston cư trú ở phía tây nam Houston, đặc biệt dọc theo Đại lộ Bellaire, được gọi một cách trìu mến là “Little Sài Gòn” hay Vietnam Town, Viettown, nằm trong Khu Quản Lý Quốc Tế (International management District). Vì khu phố này tiếp giáp với Chinatown nên bị hiểu lầm rằng đây là sự tiếp nối của Chinatown. Nhưng Little Saigon tự nó là một khu phố đặc biệt. Đoạn Đại lộ Bellaire được Thành phố Houston chính thức đặt tên là Đại lộ Sài Gòn và các con phố giao nhau cũng được đặt tên Việt Nam. Khu vực này tràn ngập các doanh nghiệp, nhà hàng, chợ và trung tâm văn hóa do người Việt làm chủ.

Hồ Văn Hiền
Ngày 21 tháng 5 năm 2023
Ngày 16 tháng 3 năm 2025

 

1 https://www.imdb.com/name/nm0629013/bio/?ref_=nm_ov_bio_sm
2 https://timeline.com/kkk-vietnamese-fishermen-beam-43730353df06
3 https://www.nbcnews.com/news/asian-america/wartime-trauma-vietnamese-refugees-subject-new-study-rcna12759
4 Nguyễn Ngọc Loan - Wikipedia https://en.wikipedia.org/wiki/Nguyen_Ngoc_Loan
5 https://www.nguoi-viet.com/hoa-ky/cuu-tong-thong-jimmy-carter-tu-tran-huong-tho-100-tuoi/
6 https://www.presidency.ucsb.edu/documents/remarks-signing-into-law-bills-concerning-indochina-refugees-and-prisoner-transfers-with
7 Theo báo Người Việt:”TT Jimmy Carter hy sinh vận mệnh chính trị chọn giải cứu thuyền nhân” ghi công của TT Carter nhân ngày ông qua đời 29/12/2024 ở tuổi 100.
https://www.nguoi-viet.com/little-saigon/tt-jimmy-carter-hy-sinh-van-menh-chinh-tri-chon-giai-cuu-thuyen-nhan/#google_vignette
8 https://www.ocregister.com/2015/05/01/how-they-became-us-orange-county-changed-forever-in-the-40-years-since-the-fall-of-saigon/
9 Theo Wikipedia. Theo Pew Research Center năm 2019 con số này là 143,000 người.
10https://wjla.com/news/local/new-healthcare-facility-replace-graham-center-falls-church-displacing-small-businesses-pho-golden-cow-moving-relocating-restaurant-short-notice-vhc-health-community-resources-virginia-redevelopment
11 https://www.npr.org/2018/11/25/669857481/decades-after-clashing-with-the-klan-a-thriving-vietnamese-community-in-texas

Thống-Kê Vào Làng

Viet Nam 49.4% Viet Nam
United States of America 22.9% United States of America
Italy 10.5% Italy
Germany 8.5% Germany
Canada 2.6% Canada
Australia 1.4% Australia
France 1.0% France

Total:

68

Countries