"Nếu bệ-hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng!" ** Trần Quốc Tuấn **

BUCOLIQUES (BÀI I)

MỤC CA

TIẾNG HÁT NGƯỜI MỤC TỬ

KIỆT TÁC THI CA ĐẾ QUỐC LA MÃ

THI HÀO VIRGILE (71-19 trước JC)

           

            Virgile tên thật là Publius Vergilius Maro, sinh năm khoảng năm 71-69 và mất năm 19 trước Jésus Christ. Thi hào La Tinh vĩ đại nhất thời thời Đế Quốc La Mã.

           Cuộc đời  Virgile được biết chung quanh ba tác phẩm. Ông viết  Bucoliques – Thơ Mục Tử viết trong 3 năm (42 đến 39 trước JC). Géorgique- Thơ Đồng Áng viết trong 7 năm (42 đến 39 trước JC) và Énéides viết trong 11 năm (29 đến 19 trước JC). Người ta không biết gì nhiều về cuộc đời Virgile. Ba tác phẩm được đặt viết bởi ba nhà «Mạnh Thường Quân» khác nhau.

            Bucoliques được đặt viết bởi Asinius Pollion.

            Géorgiques bởi Mécène

            và Énéide bởi vua Auguste.

            Bucoliques được viết cho Asinius Pollion là người cộng tác với César rồi Marc Antoine khi thiết lập Tam đầu chế năm 43, ông giữ trách nhiệm cai trị Cisalpine cho đến năm 40 trước JC. Ông thương thuyết hòa bình Brindes bên cạnh Mécène người đại diện cho quyền lợi Octave, ông cũng là một thi sĩ mới ‘poeta novus’ như Catulle, một trong những thi sĩ mới La Mã, làm thể thơ alexandrinisme  (thể thơ 12 chữ) mà ngày nay chúng ta xếp vào loại «baroque». Ông tụ họp chung quanh ông một tao đàn có khán giả riêng và danh tiếng đương thời. Các tác phẩm các tác giả viết tặng ông đã góp phần làm tăng uy tín của Pollion. Ông trả công tác phẩm, giúp đỡ đời sống vật chất các thi sĩ và bù lại hưởng nguồn lợi tinh thần do thi ca mang lại. Ông đặt hàng cho Virgile, khi chàng thi sĩ mới đến Rome đầu tiên, một trường thiên thể loại thi ca này.

            Trong số những thi khách của Pollion, còn có những người bạn Virgile là Caius Cornelius Gallus gốc Forum Julius, có thể là một người Gaulois ở Fréjus tên được La Mã hóa. Sự ủng hộ của Pollion trong một giai đoạn nhiều biến động, ông một vai trò chính trị tiêu biểu, nhưng rồi đi đến kết cuộc bi thảm. Giữa cuộc tranh chấp giữa Octave và Antoine đã chấm dứt chế độ tam đầu chế, Pollion theo phe Octave, là một sĩ quan trong quân đội Octave, ông là Tổng Tham mưu đánh chiếm Alexandrie và trở nên Tỉnh trưởng đầu tiên cai trị Ai Cập thuộc Đế Quốc La Mã, ông giữ chức cho đến năm 27-26 trước JC, do cuộc tranh chấp quyền lực đương thời ông bị tố cáo tham nhũng và cai trị như một vị vua Ai Cập, quên bổn phận, Pollion bị Thượng Viện La Mã kết án và ông đã tự tử. Bucoliques lại được đỡ đầu bởi nhà hảo tâm Gallus, bạn của Virgile cũng là thi khách của Pollion, nhưng sự nghiệp chính trị lại mạnh hơn cả Pollion trong bước đường thăng tiến trong phe Octave và không thù oán với các cơ sở chế độ Cộng hòa. Ông không giữ một chức vụ nào, không có một vai trò xã hội quan trọng, nên không bị ganh ghét. Gallus không như Pollion, vị trí ông không làm lẫn lộn giữa quyền lực và thi ca, ông thành tâm ủng hộ Virgile với tác phẩm Bucoliques. Gallus còn là một thi sĩ làm thơ tình, ông cho ấn hành 4 tập thơ viết cho Volumnia người yêu và vợ ông, còn gọi là Cythéris, nhân vật này mang tên Lycoris trong thi ca khúc X Bucoliques, giữa vườn hoa nguyệt quế và bầy cừu, Virgile hát ca tụng nàng trong đối thoại với thần Apollon và Pan.

            Nếu Énéide biểu tượng một tác phẩm cổ điển duy ý chí, một vẻ đẹp lạnh lùng và tráng lệ nguy nga như thành Rome của vua Auguste mới xây dựng bằng cẩm thạch, thì Bucoliques và Géorgiques được sáng tác trước cuộc cách mạng thi ca cổ điển, khi thành phố còn là những con đường hẻm hẹp như bàn cờ đông đúc, còn nhiều cây vả, đường lầy lội, heo chạy ngổn ngang, Virgile dẫn dắt trí tưởng tượng ta đến một thiên đường xanh tươi, đồng quê của tổ tiên. Tác giả Bucoliques và Géorgiques dẫn ta về giấc mơ quê cha đất tổ, lòng hoài hương tình cảm người nông dân gieo hạt làm vườn đơn giản chất phác và người mục đồng thổi sáo bên đàn súc vật đầy thơ mộng, tương tự với người Việt Nam nghiêu ngao hát «Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chớ, ngồi mình trâu phất ngọn cờ lao và giọng hát nghiêu ngao». Có thể gọi hai tác phẩm của Virgile là khởi đầu chủ nghĩa môi trường ngày nay, mỗi đợt Tây phương đô thị hóa nhanh chóng, thu hẹp những cảnh đẹp đồng quê là mỗi lần những người theo chủ nghĩa môi trường chống lại.

            Bucoliques có nguồn gốc Latin từ chữ bucolicus là thơ các mục tử. Victor Hugo viết: «Tôi sống trên cánh đồng, tôi yêu và tôi mơ mộng tôi là người thơ ‘bucolique’ và là mục tử.»

            Tự điển Pháp-Việt Lê Khả Kế. ACCT 1971 dịch Bucoliques là Thơ Điền Viên.

            Tự điển Pháp-Việt Thanh Nghị. Khai Trí Sài Gòn 1967 dịch Bucoliques là Mục thi, Mục ca.

            Tại Việt Nam ngày xưa không có nghề chăn nuôi cừu để lấy len, với những cánh đồng cỏ bạt ngàn, mùa lạnh dân chúng mặc áo bông, áo dạ lót bông gòn, cũng không có nghề chăn nuôi lợn có quy củ như Hy Lạp, mô tả trại chuồng có người cai quản và người làm việc của Ulysse trong Odyssée, không có nghề chăn nuôi bò, nuôi dê để lấy sữa, phú ông có ba bò, chín trâu đ̃ã là giàu có, nên chỉ có những đứa trẻ chăn trâu, mỗi đứa chăn vài con trâu của nhà mình. Ruộng cày trồng lúa nước, một mãnh vài ba sào nho nhỏ, hay vườn trồng cây ăn trái. Việt Nam không có đồi cỏ bạt ngàn nuôi súc vật, cho nên ông Lê Khả Kế dịch Bucoliques thành ra thơ điền viên.

            Trước Virgile thời Hy Lạp Cổ Điển cũng đã có Bucoliques của Théocrite, «Công việc và Ngày của Hésiode», là người thành phố viết cho người thành phố. Virgile là một mắt xích trong một chuổi dài tiến trình nhân loại, mỗi một thi sĩ dựa trên người đi trước và tái tạo lại những điều thích hợp với thời đại mình để truyền lại văn hóa tổ tiên. Nếu tại Việt Nam có ca dao: «Tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng hai trầu đậu trồng khoai trồng cà..» thì Hésiode thời Cổ Đại qua thi ca trường thiên đã thiết lập một nông lịch làm việc đồng áng cho tất cả các kinh thành Hy Lạp hát lên trong buổi lễ hội, ca tụng nông nghiệp là một hoạt động căn bản của con người, văn minh Hy Lạp không những có những ông tổ của triết học, khoa học, y học, văn chương, nghệ thuật.. mà có thể gọi Théocrite và Hésiode là ông tổ của nông nghiệp. Virgile đã nối tiếp công việc này vinh danh việc đồng áng và chăn nuôi trong nền văn minh nhân loại bên cạnh các hoạt động chiến tranh, hiến tế vật hy sinh, chiêu đãi, thi đua thể thao, thi đua ca hát..

            Bốn trăm năm sau Hésiode trong Ai Cập cai trị bởi Ptoplémée, Théocrite sáng tác thể loại thơ mục tử, một hình thức thơ thẩm mỹ tiêu biểu «alexandrines» thơ 12 chữ, bởi các trí thức chuyên nghiệp trao dồi lòng yêu thương thiên nhiên. Alexandrines, có gốc nguồn từ tên vua Alexandre Đại Đế, từ Macédoine Hy Lạp chinh phục thế giới đến tận Ấn Độ đã lập nhiều thành phố mang tên mình thành phố lớn nhất tại Ai Cập. Trước đó có «tưởng tượng arcadiens» mô tả một Hy Lạp trước khi có thành phố, một thế giới các mục tử, bảo vệ bởi thần Pan có đặc tính giữa man dại và ngây thơ, nhưng Théocrite mang giấc mơ đó vào Sicile, làm khung cảnh sáng tác thi ca hát diễn ra điệu bộ: thi ca mục tử. Họ dùng một số kỹ thuật kịch nghệ, hai bên ra bộ hát đối đáp nhau. Théocrite đã sáng tạo một thể thi ca mới gọi là «tiểu truyện hát bởi các mục tử»

            Giữa «thơ alexandrin» và « thơ arcadien» có mối liên hệ là lòng yêu quê hương. Arcadisme là một cách người Hy Lạp sáng tác theo nguồn gốc thần thoại huyền bí. Arcadiens là những mục tử và chỉ là mục tử, văn hóa mục tử không thích ứng với Hy Lạp xứ có nhiều biển và nông nghiệp trồng cây trái. Arcadie huyền bí là một không gian giả tạo, một xã hội tưởng tượng chỉ có trong thi ca, thi ca các mục tử dường như mơ hồ, man khai và cũng là văn minh do hình ảnh vị thần bảo vệ Pan nửa người, nửa thú luôn tuôn tay cầm ống sáo. Thi ca mục tử Hy-La khác biệt với thi ca Ly Tao, Ly tao thi sĩ tả tâm tình mình, tả cảnh.. Thơ mục tử, thi sĩ hoàn toàn vắng mặt trong bài hát, cũng như vắng mặt trên sân khấu các thi sĩ kịch nghệ, thi sĩ mang mặt nạ một nhân vật và hòa đồng với nhân vật đó.

            Tái tạo lại Hésiode và Théocrite, Virgile xác định ít nhất trong hình thái chính thức văn hóa La Mã đồng nhất với văn hóa Hy Lạp mặc dù khác biệt lãnh thổ.

            Thơ Mục ca Bucoliques là một tập thơ gồm 10 thi ca khúc. Năm thi ca khúc là đối thoại và năm thi ca khúc độc thoại, người diễn thơ trình bày trên sân khấu bằng lời hát ca ra bộ, diễn tả tình cảm bằng tay chân theo lời thơ, nhưng văn bản chép tay trên giấy da cũng dành để đọc. Tất cả nhân vật trong thi ca được sáng tạo bởi Théocrite gồm người chăn cừu, người chăn dê, chăn bò, người yêu đương, người hát tất cả đều mang tên Hy Lạp. Trước đó thơ Odyssée và Iliade của thi hào Homère, kể chuyện cuộc chiến thành Troie xãy ra khoảng gần một ngàn năm trước JC và sự trở về của Ulysse, người anh hùng đầy mưu kế. Hai chuyện được kể bởi một người du tử, đi từ làng này sang thành phố khác, vừa kể vừa đệm bằng đàn lyre, Odyssée được kể liên tục trong ba ngày ba đêm và Iliade được kể trong bốn ngày bốn đêm.

            Virgile đã tổng hợp tái tạo làm lẫn lộn các thần thoại Hy Lạp vào La Mã. Jupiter (Zeus) bên cạnh Pan trong những lời cầu nguyện các mục tử. Các Nymphes, tiên nữ Hy Lạp các nguồn suối gặp gỡ Palès tiên nữ trong thần thoại Ý cổ xưa. Điệu múa Satyres nửa người nửa dê, các bà lên đồng trong cúng tế thần Rượu Vang, cúng tế Cérès thần Mùa màng, vũ khí của Mars thần Chiến tranh và bồ câu của Chaonie đều xuất hiện trên cánh đồng tưởng tượng. La Mã không còn phân biệt với Hy Lạp. Tuy nhiên sự đồng hóa này ngừng lại trong biên giới không gian Bucoliques: Mantoue, Crémone và Rome, nơi các trung tâm quyền lực các lãnh chúa nước Ý, mà Lãnh sự Pollion giữ tên và danh hiệu cũng như Varus. Giữa hai không gian gặp gỡ, các thi sĩ quá khứ và hiện tại cùng gặp nhau bên cạnh Orphée và Linus, các danh ca huyền thoại Hy Lạp ta còn thấy Gallus. Daphnis thi sĩ đã chết và được thần thánh hóa là cái bóng trong thế giới mục tử, César ông hoàng đã chết và được thần thánh hóa.

            Virgile nói rõ ràng trong dự định thi ca mình:

Thần nữ Thi ca tôi không hổ thẹn cư ngụ trong rừng,

Cho tôi vinh dự ca diễn trước tiên với câu thơ Sicilien.

            Thần nữ Thi ca của Virgile là Thalie, Thi thần của bi kịch, người thứ năm trong chín Thi Nương. Chín thi nương trong thần thoại Hy Lạp gồm: Calliope, Erato, Euterpe, Pothymnie, Thalie,   Terpsichore, Clio, Melpomène và Uranie.

Nàng Calliope cầm đàn lyre truyền thi hứng cho sử thi, anh hùng ca, thơ tự sự và diễn thuyết.

Nàng Erato cầm đàn cithare truyền thi hứng cho thơ mỹ tình dục.

Nàng Euterne cầm sáo truyền thi hứng cho thơ trữ tình.

Nàng Pothymnie trầm tư mặc tưởng truyền thi hứng cho thơ tán mỹ (hynme), nhã ca và kịch câm (pantomine)

Nàng Thalie cầm cây gậy cong mục đồng và chiếc mặt nạ truyền thi hứng cho thơ mục tử, điền dã, thơ trào phúng, ca dao và hài kịch.

Nàng Terpsichore cầm đàn lyre truyền thi hứng truyền thi hứng cho nghệ thuật ca múa.

Nàng Clio cầm tấm thẻ truyền hứng cho sử học.

Nàng Melpomène cầm mặt nạ Héraclès truyền hứng cho bi kịch.

Nàng Uranie cầm quả địa cầu truyền hứng cho Thiên văn học.

Chín nàng đều là con Thần Zeus (Jupiter) và Nữ Thần Mémosyne – Ký Ức .

Nàng Calliope thường vẽ sánh đôi với Thần Apollon cũng cầm đàn lyre hay đàn cithare là vị thần của nghệ thuật, âm nhạc. Các thần thường họp nhau trên đỉnh núi Parnasse hay bên dòng suối Hipokren. Địa danh Montparnasse Paris xuất phát từ nguồn gốc này vì nơi đây qua nhiều thế kỷ là nơi ở và có nhiều quán cà phê nơi tụ tập các thi sĩ, văn sĩ, triết gia, họa sĩ..  Thần thoại kể lại Thần Zeus đắm say ân ái với nữ thần Ký Ức suốt 9 đêm, sau đó nữ thần sinh ra 9 quả trứng và nở ra 9 nàng Muses, được Zeus trao nhiệm vụ cùng với Apollon chăm lo đời sống tinh thần của Thế giới Olympe và thế giới loài người, các nàng Muses thường ca múa trong bữa tiệc các thần. Tại Trung Quốc và Việt Nam, thi ca còn gọi là Ly Tao, thơ Tao đàn lấy từ tên tác phẩm Ly Tao của Khuất Nguyên nước Sở thời Xuân Thu Chiến Quốc, ông là một đại thần khuyên răn vua Sở, nhưng vua không nghe nên mất nước, ông lang thang bên sông Tương cài bông hoa lan trên đầu, viết khúc Ly Tao nói lên niềm u uất của mình và trầm mình xuống sông Mịch Giang ngày mùng 5 tháng 5, về sau khúc Ly Tao được gọi chung thi ca. Do đó thơ Ly Tao chỉ một người ngâm nga và không có hình thức diễn kịch.

            Thần nữ Thi Ca của Virgile là Thalie, người truyền cảm hứng cho thơ mục tử, thơ đồng  áng và Virgile ca diễn với thể thơ ‘syracusain’, thơ vùng đảo Sicile trong kịch nghệ La Mã, nhưng thơ Mục Tử còn dành cho người đọc chép tay trên các cuộn giấy da. Hai phương cách phổ biến thơ Mục tử là diễn kịch và đọc văn bản. Nền văn minh Hy Lạp, nơi ra đời Odyssée và Illiade của Homère.. cực thịnh với thư viện Alexandrie ở Ai Cập ngày nay, chứa đựng hơn 700 000 cuộn sách bằng giấy da chép tay, có cả một xưỡng chuyên sao chép, mỗi ngày có hơn một ngàn quyển sách được mượn sao chép lại, công trình này được tiếp nối bởi các thư viện La Mã là chứng nhân sự trưởng thành của văn hóa La Mã. Khi chinh phục thế giới đương thời, kinh thành La Tinh đã tiếp nối phương đông các ông hoàng Hy Lạp, nắm trọng trách gìn giữ chính thức gia tài văn hóa. Rome đã thay thế Alexandrie, Antioche hay Pergame với các thư viện và với các thi sĩ như Virgile, Ovide, Horace.. họ viết anh hùng ca, trường ca, tình ca, hài kịch, bi kịch.. Chính Rome là nơi tổng hợp nền văn hóa cổ điển Hy-La. Thơ Mục tử là một chứng minh cụ thể sự tổng hợp này. Chung quanh Pollion rồi Mécène các thi khách La Mã hội tụ thành tao đàn, và nàng Cythéris xinh đẹp thành nguồn cảm hứng ca tụng của các thi sĩ. Mécène trở thành một danh từ chung như Mạnh Thường Quân thời Xuân Thu Chiến Quốc.

            Kịch nghệ và thi phẩm Virgile đã được phổ biến rộng rãi, các sử gia thành Rome cũng đã phê bình, phân tích và ca tụng thơ Mục tử, từ thời Đế Quốc La Mã đã đặt các tác phẩm Virgile vào lịch sử văn hóa. Các nhà phê bình nhìn tác phẩm Virgile như tấm gương phản chiếu cuộc đời ông và từ đó xây dựng những hình ảnh về tiểu sử thi sĩ.

            Các tác phẩm văn học đều ảnh hưởng những biến cố chính trị trong thời đại mình. César bị ám sát ngày 15 tháng ba năm 44. Một hiện tượng thiên văn sao chổi xuất hiện trên bầu trời trong dịp Đại Hội Thể Thao vinh danh chiến thắng của cháu và cũng là con nuôi César vào tháng 7 năm 43. Tham vọng chế độ quân chủ của César đã xuất hiện ở Brutus và nhiều nơi khác, làm cho nhiều Thượng Nghị Sĩ hy vọng ám sát César để cứu vãn chế độ Cộng Hòa. Nhưng Lãnh Sự Marc Antoine và Lépide, chỉ huy Kỵ binh của César hợp với Octave chống lại họ. Cuộc chiến tranh nội bộ bắt đầu các phe phái và chỉ chấm dứt với chiến thắng quân Octave đánh bại quân Antoine, và nữ hoàng Ai Cập Cléopâtre, ngày 4 tháng 9 năm 31 tại Actium. Cicéron, nhà chính trị hùng biện, triết gia với diễn văn Philippiques, chống Antoine bị tử hình cùng ba trăm nhân vật chính trị.  Thi ca khúc thứ nhất Virgile trong Bucoliques là chứng nhân sự xáo trộn xã hội bởi việc tịch thu đất đai các điền chủ nhỏ để thiết lập các lãnh địa lớn thưởng công cho các tướng lãnh trung thành. Cuộc chiến Pétrouse từ mùa thu 41 đến tháng hai năm 40 gây nên bởi anh em Antoine, để thiết lập những người thân tín, dẫn đến việc tàn sát dưới lệnh Octave ba trăm nhân sĩ thành phố đi theo Antoine.

            Thi ca khúc thứ nhất trình bày một nông dân làm chủ mảnh đất mình Mélibée đối thoại với Tityre, đã giữ được tài sản mình nhờ một nhân vật có thế mạnh ông gọi là «thần của tôi» «người thanh niên trẻ» Octave về sau sẽ thành vua Auguste. Virgile là Mélibée hay Tityre?

            Thi ca khúc thứ hai, Corydon than thở về sự hờ hững của người đẹp Alexis, mà chàng ta theo đuổi như đi săn con thú dưới trời nắng gắt. Trong một bữa tiệc dưới nhà người hảo tâm Pollion, Virgile say mê một chàng trai nô lệ: tên Alexandre, Pollion rộng lượng đã ban cho Virgile chàng trai trẻ này. Bài thơ làm trong hoàn cảnh phong tục thời Cổ Đại La Mã, chuộng sắc đẹp của thanh niên trai trẻ, khó có thể biết tình cảm Virgile với chàng trai nô lệ, vì đã là nô lệ thì không từ chối ông chủ. Có lẽ Virgile đã làm khúc ca này để cảm ơn món quà tặng của Pollion.

            Thi ca khúc thứ ba mối quan hệ với người vợ Vanus. Servius mang lại gì trong nhân vật nào đó Damète đã đánh cắp con dê đực của Darmon trong một đoạn thơ «Varus là một thi sĩ bi kịch, một phụ nữ giàu văn hóa có học thức, có mối quan hệ ngoại tình với Virgile, thi sĩ viết một bi kịch, và người phụ nữ này trao lại cho chồng, cũng như tác phẩm nàng đã viết. Vurus đọc tác phẩm này trước công chúng và tự nhận mình là tác giả, Virgile có nhắc đến việc này.

            Thi ca khúc thứ tư trong thơ Mục ca, ca ngợi sự trở lại của thời Hoàng Kim, hy vọng hòa bình lập lại trong hiệp ước Brindes. Mặc dù lúc đó bắt đầu sự đối đầu giữa Octave, chúa tể Phương Tây và Antoine, chúa tể Phương Đông, tình nhân nữ hoàng Ai Cập Cléopâtre. Năm 27 trước JC «chàng thanh niên thần thánh» Octave đã chiến thắng trận Actium, nhận Thượng Viện chức danh Auguste và trở thành vua Auguste một thời đại thanh bình, thịnh trị suốt hai trăm năm,

Thật lạ lùng Thi ca khúc IV còn là một lời tiên tri về sự ra đời của Jésus Christ bốn mươi năm sau:

Đây là chấm dứt thời đại mang dấu ấn bởi Sibylle.

Một thời đại mới, một thời đại lớn sẽ sinh ra.

Người trinh nữ trở lại và các luật lệ của Saturne

Và từ trời cao gửi xuống cho chúng ta một nòi giống mới.

Ban phép, Lucine trinh trắng, một đứa trẻ ra đời

Thời đại đồ sắt thay thế bởi thời đại hoàng kim.

            Thời Trung Cổ đã vinh danh Virgile là một người Tiền Thiên chúa giáo (préchrétien) đã viết  về Jésus trước khi ngài ra đời, Virgile là một nhà tiên tri và  họ nghiên cứu tìm kiếm các tiên tri khác, nối dài các giải thích đến tận thời Cổ Đại. Saturne ở đây là trái đất.

Trong Bucoliques VIII người ta còn cho Virgile nói đến nghi lễ phù thủy Alphésibée là nói bóng gió đến Chúa Ba Ngôi:

Sự quyến rũ tôi dẫn Daphnis đến thành phố,

Chiếc khăn ba màu tôi quấn thân hình chàng.

Tôi dẫn chàng chung quanh bàn thờ ba lần.

Ba lần mà Trời thưởng thức số lẻ cúng lễ.

NIÊN BIỂU VIRGILE

(TRƯỚC JÉSUS CHRIST)

NĂM

71-69 (?)  Virgile ra đời ngày 15 tháng 10 gần Mantoue.

63. Thời Lãnh sự Cicéron

      Octave ra đời, sau trở thành vua Auguste.

60. Tam đầu chế Đế Quốc La Mã: César, Pompée, Crassus.

56. Hiệp ước Lucques.

54. Virgile đến thành phố Rome.

49. César vượt qua Rubicon,

      Virgile đến Naples.

45. Virgile trở về Mantoue.

44. César bị ám sát ngày 15 tháng ba.

43. Tam đầu chế thứ hai: Octave, Antoine và Lépide.

      Ám sát Cicéron.

     Asinius Pollion trở thành thống đốc Cisalpine.

42-39.  Sáng tác 9 thi ca khúc Bucoliques.

41. Trưng thu điền thổ nông dân để phong cho lãnh chúa.

      Hiệp ước hòa bình Brindes.

37. Sáng tác Thi ca khúc Bucoliques X. Tập thơ viết tặng cho Octave.

37-29. Dưới sự tài trợ hảo tâm của Mécène. Virgile sáng tác Géorgiques (thơ Đồng áng), Virgile cư trú vĩnh viễn tại Campanie.

Varron ấn hành De re rustica.

31. Trận chiến Actium ngày 2 tháng 9.

29. Virgile tặng cho Mécène và Octave một văn bản Géorgiques.

      Dưới sự tài trợ của  Octave, Virgile bắt đầu viết Énéide.

27. Octave nhận được danh phong từ Thượng Viện La Mã danh hiệu Auguste ngày 16 tháng giêng.

23. Virgile trao tặng nhiều thi ca khúc Énéide cho gia đình hoàng gia Auguste.

19 (?). Virgile mất tại Brindes ngày 20 tháng 9, sau một chuyến du hành Phương Đông.

            Niên biểu về Virgile vẫn còn nhiều nghi vấn tập trung chung quanh ba tác phẩm chính, ngoài ra vì thiếu tư liệu chính xác, ta không biết gì nhiều hơn. Hiện nay tại Brindes vùng Pouille nước Ý còn ngôi nhà nơi Virgine từ trần, tôi có đến thăm nơi này năm 2024.

Bucoliques được dịch bởi Paul Veléry năm 1956 và in chung với Géorgiques dịch bởi Jacques Delille. Gallimard. Paris xuất bản năm 1997. Bản in song ngữ La Tinh và Pháp được trình bày và chú thích bởi Florence Dupont. Giáo sư Đại Học Paris VII. Tôi dịch theo văn bản này.

THI CA KHÚC I

TITYRE

MÉLIBÉE, TITYRE

MÉLIBÉE

Tityre  hỡi! khi ngồi dưới gốc cây sên vui thú,

Anh tìm trên cây sáo anh một chút điệu đồng quê,

Chúng ta, chúng ta bỏ đất mầu quê mẹ dịu hiền,

Chúng ta trốn tổ quốc, và anh yên lành trong bóng mát.

Anh cất tiếng hát trong rừng mang tên Amaryllis.                                       5

TITYRE

Ấy một vị thần* cho tôi niềm vui thú, Mélibée!

Vâng, thần tôi luôn luôn!  vị thần trên bàn thờ

Thường uống máu các con cừu thịt mềm chúng ta dâng hiến tế.

Hãy nhìn đàn bò tôi, nhờ nó thảnh thơi, và tôi

Vui chơi theo sở thích với ống sáo sậy này hoang dã.                                 10

MÉLIBÉE

Tôi kinh ngạc hơn nữa, mà điều tôi không ganh tị anh:

Lẫn lộn khắp cánh đồng ta và tất cả đều buồn bã,

Tôi phải đuổi ra xa bầy dê, mà tôi luôn chăm nom

Ngay luôn cả con dê cái con song sinh vừa mới đẻ,

Bao nhọc nhằn, trong một bụi rậm, trên tảng đá.                                         15

Điều khổ đau thường đoán trước nếu ký ức tôi không lầm.

Bởi Trời sấm sét xuống, các cây sồi tiên tri,

Nhưng anh, hãy nói cho tôi nghe vị Thần này, Tityre?

TITYRE

Lòng tôi quá đỗi ngây thơ, tôi cứ tưởng, Malibée,

Thành phố gọi tên là Rome có giống như là cái                                           20

Nơi chúng ta thường dẫn bầy cừu, chúng ta  kẻ chăn chiên,

Tôi tưởng thấy đàn dê con, giống như là mẹ nó,

Nhìn những con nhỏ bé, tôi suy luận lúc chúng lớn lên.

Nhưng thành phố này nuôi dưỡng, giữa các nơi thành phố khác,

Trước mặt một cây bách cao, vượt trên vòm nguyệt quế xanh.                   25

MÉLIBÉE

Nhưng điều to tát nào thành Rome quyến rũ anh?

TITYRE

Tự do! mà về sau, lúc đầu tôi không để ý đến.

Nhưng sau đó cuối cùng, càng nghĩ tôi vui thích hơn.

Râu tôi đà nhuốm trắng bạc. Để lại bởi Galatée.

Amaryllis đã chọn lựa tôi làm tình nhân.                                                      30

Trước thời của Galatée không có, tôi thú nhận rằng,

Không hy vọng được tự do, không âu lo tiền bạc,

Dù thành phố dèm sẻn làm cho bao người thành nạn nhân.

Nhiều nơi, ở đây người ta làm bánh sữa ngon.

Vật quà tôi mang về mà chẳng bao giờ thấy nặng.                                      35

MÉLIBÉE

Ôi Amaryllis buồn, biết bao lời cầu nguyện?

Tôi nói gì đây, cho người dâng cúng bao trái cây?

Mà Tityre ra đi! Tityre anh ơi!

Trong các dòng suối, rừng thông, cây rừng lên tiếng gọi.

TITYRE

Tôi phải làm sao? Không thể nào thoát ra vòng lệ thuộc.                            40

Không nơi khác nào tôi tìm thấy các thần thánh hộ trì.

Mà nơi đây, Malibée, tôi đã thấy một thanh niên.

Mười hai lần trong năm, đốt lửa cúng tất cả bàn thờ.

Tôi vừa thăm hỏi, và nghe điều anh nói:

«Ông ơi, như người xưa, cầu đàn súc vật được an lành.»                           45

MÉLIBÉE

Ôi thật hạnh phúc thay, tuổi cao anh còn mạnh khỏe,

Anh tự hài lòng như đá và hoa trên mặt đất.

Và như đầm lầy đầy bùn, lao sậy cản lối con thuyền.

Bầy dê anh không thể thay đổi cánh đồng.

Bầy thú bên cạnh cũng ngại ngùng gặp gỡ.                                                 50

Vâng, thật hạnh phúc cho tuổi già anh được vui trong mát,

Trên bờ nước thân quen các nguồn suối chúng ta thiêng liêng.

Nơi đây, như luôn luôn trên anh nguồn hứng rung động triền miên.

Các bầy ong Hybla*, hút nhụy từ ngàn hoa cho mật.

Lời hát của người làm vườn vang vọng tiếng trong không gian,                 55

Và bầy bồ câu thân yêu cất tiếng gáy giọng khàn khàn.

Anh hãy ngừng đi, lời âu lo dưới cây sồi ngồi than vãn.

TITYRE

Rồi anh sẽ thấy từ trong không gian con nai nhanh hiển hiện,

Và làn sóng cuốn trôi theo bầy cá bên bờ,

Xứ Parthe nơi Avare* hay Germain nơi sông Tigre                                     60

Rời cõi biên cương mình đến nơi, uống nước trong dòng suối,

Trước khi vị thần mở cửa trái tim tôi.

MÉLIBÉE

Rồi chúng ta, sẽ nhọc nhằn cơn nắng khát Phi Châu,

Chúng ta sẽ đến Scythe trên thuyền buồm Oxus,*

Hay nơi người Bretons* hoàn toàn cô lập với thế gian,                              65

A! nếu tôi tìm lại sau một cuộc lưu đày lâu năm,

Mãnh đất quê hương tôi và mái tranh đầy rêu phong phủ,

Tôi có còn đề tài để chiêm ngưỡng văn hóa tôi?

Cho người chiến sĩ nghịch đạo mà tâm hồn còn trĩu nặng.

Gieo hạt giống cho người man rợ? Ôi điều ta bất đồng.

Niềm đau khổ là kết quả!  ta nhọc nhằn cho kẻ khác!

A! tôi thật vui sướng ghép cây lê và trồng cây nho!

Hãy đi! cùng dê, bầy dê, bầy đàn tôi vui sướng tự bao giờ,

Tôi sẽ không thấy anh nữa, anh nằm trong bóng xanh mát,

Ở từ xa, vài dãy đá vươn lên chất chồng đá nhọn.

Anh chẳng còn nghe tiếng gậm cỏ, không thấy tôi.

Cây hoàng lan  đang nở hoa vàng và hàng liễu buông lơi.

TITYRE

Hãy ở lại thêm một đêm nay. Ngủ bên cạnh tôi.

Trên tàng lá mát, chúng ta có nhiều trái ngọt,

Có bánh sữa dồi dào và hạt dẽ thơm mềm.

Nhìn:  ̀ xa xa khói trang trại nhà ai lên êm đềm,

Và bóng các ngọn núi lan đến gần bên ta dần lớn.

CHÚ THÍCH

6. Vị Thần Thời La Mã tương tự như Á Đông xem vua là Thiên Tử, con Trời, Vua được kính trọng như vị Thần. Virgile kính trọng Auguste khi chưa làm vua, vốn dòng dõi Énée từ thành Troie, và tuổi trẻ đã lập nên nhiều chiến công hiển hách.

54. Núi Hybla ở Sicile nổi tiếng mật ong ngon.

60. Avare là sông Saône

65. Scythie là Russie nước Nga, Oaxis là một dòng sông đảo Crète.

Bretons người vùng phía tây nước Pháp ngày nay.

THI CA KHÚC II

ALEXIS

Cho Alexis xinh đẹp, người chủ tôi tha thiết,

Chàng mục tử Corydon thương nhớ chẳng mong gì,

Hắn vất vưỡng vất vơ như ma ám dưới cây rừng sồi dày,

Các ngọn núi và khu rừng âm vang không tiếng vọng.

Lời than vãn không nghệ thuật biến vào nơi trống rỗng.                             5

“Ôi Alexis tàn nhẫn, nàng khinh thường lời tôi hát:                       

Nàng chẳng xót thương gì tôi. Nàng muốn tôi chết chăng ?

Bầy súc vật giờ này đang kiếm tìm nơi cây bóng mát,

Con dông xanh tìm trú ẩn dưới bụi gai dầy nằm.

Kẻ phát lúa hua lưỡi hái, trời chang chang nắng bức,                                  10

Thestylis treo chùm tỏi, và ngâm lá thơm trong dầu,                                  

Còn tôi dưới nắng oi bức từng bước, từng bước lang thang về đâu ?

Tôi cất tiếng, lời hòa trong tiếng hát ve sầu,

Nhưng nào đủ giảm bớt đi nỗi niềm đớn đau thống thiết.

Rừng Amaryllis tối, và lời khinh khi nàng thật tuyệt ?                                15

Ménalque an ủi vỗ về lòng cũng tối, mà nàng sáng trong ?             

Lóng lánh da trắng ngần, ôi người đẹp, tôi ân cần,                         

Như hoa trắng rơi rụng, đắm say được hái.

Nàng khinh thường tôi, nàng không biết đến tôi, Alexis !

Nàng có biết chăng tôi giàu đàn súc vật, với sữa vắt tươi.                          20

Ngàn con cừu tôi dưới núi Sicules chăn nuôi,

Mùa đông cũng như mùa hạ sữa tươi không bao giờ thiếu.                        

Và tôi cũng hát cùng lời hát ca tụng Amphion*

Khi nơi Arcynthe tụ họp bầy thú đồng.

Tôi không xấu trai gì, khi soi mình bên bóng nước                                      25

Bóng nước ao hồ lặng yên trong, tôi nhìn thấy bóng mình

Trong nước lặng yên phản chiếu bóng, soi thay gương.                             

Tôi xét tự mình tôi, không sợ kém thua gì Daphnis.

                                              

“Hay chỉ một điều là tại nơi làng quê tôi nghèo khổ

Ngụ dưới mái tranh đơn sơ, nơi người đến để săn nai.                                30

Đuổi bầy hoảng chạy đi với chùm lá cây xanh.

Nàng hãy đến, hai ta cùng bắt chước bài ca săn đuổi,                                            

Của thần Pan*,  bảo vệ mục tử, và bầy thú đồng.

Hãy nối các ống sáo sậy đầu tiên với sáp ong,

Nàng không còn than vãn, hôn ngọn sáo tôi thổi.                                        35

Như Amyntas cho tôi, để công bằng tài chơi ?

Chiếc sáo tôi bảy ống không bằng nhau :                            

Do Damoetas thầy xưa nàng được trao truyền dạy.

Ông nói trước khi chết  “Ngươi sẽ là người kế vị,

Ta dạy tất cả.” và cuồng điên Amyntas  khao khát tặng tôi.                                    40

Vừa rồi trong thung lũng tôi tìm thấy hai con hoảng con.                          

Trên da lông chưa hiện ra đốm trắng,

Mỗi ngày cần hai vú sữa bú chăm,

Tôi gìn giữ nó cho nàng, hơn là Thestylis

Chớ có kêu ca gì bảo tôi mang trả lại hắn,

Tôi sẽ làm việc này, trước việc coi thường tài nghệ của tôi.                                    45

“Hãy đến đây, nàng đẹp xinh, tôi tặng nàng đầy hoa huệ.

Nhìn bầy quạ đen tiên nữ khiến sai về,

Naïade* trắng tiếp cùng hoa sắc tím,

Nhạt, và vài hoa thủy tiên, mùi hương củ tóc tiên.

Tiên thắt bính cho nàng hương thơm nội cỏ.                                                           50

Kết màu sắc hoa hiền dịu thanh tao thành bó.

Tôi, tôi sẽ chọn trái xoan mềm mại lông tơ

Như hạt dẽ, hột noa mà Amaryllis yêu,

Và nàng tôi hái tặng nàng cùng trái sim, cành quế.

Lòng đắm mê hương nàng, ngây ngất mùi thơm.                                        55

“Ôi thô bạo! dâng nàng, Alexis vẫn dững dưng trước nó !

Iollas thắng trong cuộc thi mang biếu tặng quà,

Than ôi ! tôi muốn gì, kéo theo lòng thua nặng

Trong bão tố ngàn hoa, tôi khô cạn suối ngàn.

Thật điên rồ, nàng trốn tôi! Nơi các thần sinh sống.                                    60

Pâris và Dardanus*. Mà Pallas*  xây dựng.

Sống trong phố thành, mà tôi chỉ thích cánh rừng.

Sư tử con đuổi chó sói, và chó sói đuổi dê,

Và dê kích thích chạy tìm cây hoàng lan

Anh, anh muốn Alexis, mỗi người một đam mê .                                         65

Nhìn, mặt trời lặn, buổi chiều bóng dài ngã lê thê.

Đôi bò mộng kéo lê ách  nặng nhọc cày bừa .

Nhưng tôi, tình yêu đang bốc cháy, làm sao lòng hạ nhiệt ?”

“Corydon, Corydon, làm sao mà sa sút trí tuệ ?

Anh, vườn nho đợi chờ, bên rào cây dẽ xén bằng.                                      70

Hãy làm trước tiên những điều thiếu được chăng ?

Thay vì kết lòng những cành mềm như cây liễu rũ,

Không Alexis, một người khác sẽ yêu anh.”                                                73

CHÚ THÍCH

23. Amphion, anh hùng lập nên thành Thèbes ở Béotie. Aracythe là ngọn núi nơi biên giới Boétie và Attique.

33. Pan, thần Hy Lạp trong rừng, nửa người, nửa thú cầm ống sáo.

47. Naïade  hoa mang tên một tiên nữ Hy Lạp cai quản các nguồn suối.

61. Pâris và Dardanos là hai anh hùng Troyens.

      Pallas là thần nữ Athéna, thần chiến tranh và hoà bình, thần bảo hộ sự khéo tay xây dựng.

THI CA KHÚC III

PALÉMON

MÉNALQUE, DOMOETAC, PALÉMON

MÉNAQUE

Bầy thú, này Damoetas có phải là của Mélibée ?                                         1

DAMOETAS

Không, bầy súc vật của Egon đấy, ông nhờ tôi chăn giữ.

MÉNALQUE

Lũ vật tội nghiệp ! đây là điều may mắn, Egon đáng ngại.

Dù tôi vẫn thích Néère, bởi hắn yêu thương.

Giao chúng cho mục tử gặp gỡ, vắt sữa chăm nom

Các cừu mẹ một giờ hai lần và làm sữa thiếu cho con.                                5

DAMOETAS

Hãy nói lời dịu dàng dù khi người khiển trách ai !

Chúng tôi biết là ai nhìn người.. dưới con mắt lườm lườm dê đực.

Và trong hang nhỏ đó đây, các tiên nữ* cất tiếng cười..

MÉNALQUE

Vâng, có thể là tôi, người ta thấy dưới phát chiếc liềm

Tàn phá Mycon, cây trồng và vườn nho ?                                                    10

DOMOETAS

Và anh, khi Daphnis, bên cạnh cây sồi già,

Anh bẻ gảy chiếc nỏ và các mũi tên của Ménalque tai quái,

Ganh tỵ những mọn quà tặng cho chàng mục tử trẻ,

Thay vì trả thù, anh đã chết với cuồng điên.

MÉNALQUE

Làm thế nào các người chủ chống được kẻ trộm thế này ?                         15

“Tôi đã thấy anh, tôi,  đánh cắp một con dê nhỏ của Damon.”

“Đồ vô lại !  Sủa to như con chó cái Lycisque.”

Và  tôi thét lên : “Mày chạy đâu bây giờ ?

Tityre, canh chừng!” “Mày, mày chạy trốn để tìm nơi cất dấu.’

DAMOETAS

“Vì chịu thua cuộc bởi lời hát của tôi, mà hắn đã tặng cho tôi,                   20

Con dê nhỏ được trao tặng bằng âm thanh tiếng sáo tôi ?

Nó thuộc về tôi, anh có biết ! chính Damon đó

Công nhận,  nói rằng hắn có quyền tặng cho tôi.”

MÉNALQUE

“Anh, kẻ thắng Damon ? Sao chẳng bao giờ cầm cái

Ống sáo kết nối bằng sáp ong, thổi tiếng sáo trên đường

Âm chát chúa ống sáo anh nghe thật thảm thương !”

DAMOETAS

“Anh có muốn cùng tôi lần lượt thi đua tài sức ?                                        25

Tôi đặt cược con bò cái này : nó là phần thưởng cuộc thi,

Sữa vắt hai lần một ngày, hai con nhỏ bú nhâm nhi,

Và anh có cái gì để mà đánh cược ?”

MÉNALQUE

“Tôi không dám đánh liều dù con vật nào của tôi cả :

Cha tôi ở nhà và bà mẹ kế khó khăn                                                            30

Mỗi người mỗi ngày đếm đàn thú hai lần.

Nhưng để phải đáp lại việc điên rồ anh thách đố.

Tôi sẽ đặt cược (cho thấy nhiều hơn giá trị vật của anh)

Hai chiếc cúp chạm của Alcimédon danh tiếng,

Chung quanh trang trí chùm nho với lá cây leo.                                          35                              

Vây quanh thanh tao chính giữa cúp mang

Một cái chân dung Conon*, và trong cái khác

Kẻ vẽ địa cầu và cái thước đo

Phân định tháng cày bừa, mùa màng, thời của họ

Tôi hứa giữ lời hai chiếc cúp này mà tôi giữ lâu nay.”                                 40

DAMOETAS

“Ngay cả Alcimédon không làm hai cái giống nhau:

Một cành cây ô rô bên hai chiếc quai,

Nhìn trong đáy, thấy Orphée lất lây trong rừng thẳm.

Tôi trân trọng chiếc cúp này, tôi thích lắm.

Nhưng so với con bò cái tôi, tôi vẫn thấy đôi cúp ít giá trị hơn.”                45

MÉNALQUE

“Anh không thoát được đâu. Cuộc thi nào anh muốn,

Trước mặt bất cứ ai.” “Người qua đây : chính là Palémon !

“Không nên phiền lụy ai tiếng hát của anh !”

DOMOETAS

“Anh hãy hát  ca khúc anh và rồi đến lượt tôi !

Tôi chấp nhận mọi trọng tài,  Hãy đợi, ô Palémon !                                     50

Sự kiện quan trọng hãy lắng tai nghe chăm chú.”

PALÉMON

Hãy hát lên ! Trước tiên chúng ta đang ngồi trên cỏ mượt.

Tất cả cánh đồng đều xanh, cây cối đang nẩy mầm.

Đây là thời kỳ đẹp nhất trong năm,

Hãy bắt đầu đi Damoetas ! Và anh, Ménalque tiếp theo sau đó.

Tiếng ca luôn phiên làm vui lòng các Thi nương Camènes.*                       55

DAMOETAS

Cho Jupiter trước tiên, chúa tể thế gian, ôi Thi nương !

Ngài yêu trái đất ta, và bằng lòng với lời ta hát.

NÉNALQUE

Tôi, Phoebus yêu thương tôi, với ngài tôi luôn luôn cúng tế,

Cành nguyệt quế và hoa thủy tiên thần yêu thương.

DAMOETAS

Tấn công tôi bằng một quả táo, ôi cô gái tính như con trai Galatée !          60

Hướng về rặng liễu tôi chạy nhanh, nhưng nóng lòng nhìn thấy.

MÉNALQUE

Nhưng riêng tôi vừa dâng tặng Amyntas, người tình tôi,

Như chạy đến bầy chó tôi khi nhận ra Délie.

DAMOETAS

Hiện tại tôi sẵn sàng cho nàng Vệ nữ  tôi, tôi biết

Nơi bầy bồ câu làm tổ trên không.                                                              

MÉNALQUE

Tôi có thể chọn mười trái trên cây táo trong rừng,                                      65

Mười trái vàng cho trẻ con, và các trái khác để ngày mai.

DAMOETAS

Ôi tất cả lời nàng nói dịu dàng với tôi, Galatée..

Vào tai các thần, như cơn gió bấc thổi qua !

MÉNALQUE

Amyntas, tôi  phải làm gì khi nàng khinh thường tôi,

Nếu trong lúc nàng chạy,  tôi, tôi canh chừng tấm lưới ?                            70

DAMOETOS

Ấy là ngày sinh nhật của tôi Iolas. Hãy cho tôi

Phyllis, nhưng hãy đến tự mình một ngày tặng quà trong sáng.

MÉNALQUE

Tôi thích yêu Phyllys của tôi, nàng khóc lúc tôi ra đi,

Và nàng không ngừng nói: “Vĩnh biệt, chàng, vĩnh biệt !”

DAMOETAS

Đàn súc vật sợ chó sói, trái cây chín sợ mưa rào,                                        75

Cây sợ gió bấc và tôi sợ  Amaryllis giận.

MÉNALQUE

Cánh đồng thích cơn mưa, con hoảng thích bụi rậm,

Và đàn cừu, cây liễu và tôi, chỉ thích riêng Amyntas.

DAMOETAS

Pollion* thích thưởng thức thơ tôi, dù nó chất phác.

Thi Nương ơi, hãy cho người đọc này, tránh một nạn nhân.

MÉNALQUE

Nhưng Pollion, chính ông trong nghệ thuật ta canh tân,                             80

Một con bò mộng báng ông, nhọn sừng, dậm chân trên cát.

DAMOETAS

Ai yêu ông, ôi Pollion, cầu được sung sướng như ông !

Mà cho ông thơ như mật trào tuôn và bụi cây hoa nở..

MÉNALQUE

Ai không ghét Bavius* thưởng thức các vần thơ, ôi Moeve* !

Hắn làm thơ như thể vắt sữa con dê đực và dạy dỗ lũ chồn.                                              85

DAMOETAS

Anh kẻ đi tìm các bông hoa và trái dâu đầu tiên.

Hãy trốn đi lũ trẻ : trong cỏ một con rắn lạnh đang ẩn náo.

MÉNALQUE

Hãy ngừng lại, đàn cừu tôi, bờ sông không chắc chắn,

Con cừu đực phơi ẩm ướt bộ lông.

DAMOETAS

Tityre, hãy đuổi bầy dê anh xa dòng sông này,                                                        90

Và chính tôi, lúc thuận tiện, tôi tắm cho chúng tất cả.

MÉNALQUE

Hãy lùa bầy cừu anh về, mục tử ơi; nếu trời nóng bức

Làm sữa cạn khô, nhọc công vắt cũng như không.

DAMOETAS

Than ôi ! Con bò mộng tôi gầy còm giữa đồng đầy cỏ ..

Như thiếu tình yêu thương giữa mục tử và bầy thú.

MÉNALQUE

Nhưng không có tình yêu chỉ còn xương xẩu,                                             95

Bầy cừu này, nếu tôi không biết cái nhìn làm quyến rủ chúng thôi.

DANOETAS

Hãy nói cho tôi (nếu anh muốn trở thành một Apollon cho tôi)

Ở nơi nào tất cả bầu trời không bằng ba thước ?

MÉNALQUE

Và anh, hãy nói với tôi trên đất nơi nào loài hoa biết đọc.

Tên các vị vua, thì tôi sẽ nhường cho anh Phyllis.

PALÉMON

Nó không còn tùy thuộc cách ngăn giữa các anh,                                        100

Cả hai đều chiến thắng  – với tất cả những ai trong tình yêu

Lo ngại sự dịu dàng, và biết mùi cay đắng,

Hãy dừng suối thơ đi, các chàng ơi! mặt đất uống thấm nước hết rồi.        103

CHÚ THÍCH

8. Tiên nữ Nymphes là tiên, chủ một dòng suối, con sông, khu rừng khác với déesse là thần nữ do Thần Zeus sinh ra, là thần cõi Olympe.

37. Conon là một nhà địa lý và thiên văn Hy Lạp thế kỷ thứ III trước JC.

37. Phoebus một danh hiệu của thần Apollon.

78. Asinius Pollion, Thống đốc Cisalpine, đặt cho Virgine viết Bucoliques.

84. Bavius và Moevius là hai nhà thơ trường phái cũ, bị công kích bởi Horace trong Thi ca khúc X.

THI CA KHÚC IV

POLLION

Hãy cất cao âm thanh hơn nữa, hỡi Thi nương Sicile..                                            1

Những lời hát cho cây cỏ tầm thường không xứng đáng.

Hãy ca tụng những khu rừng cho xứng danh người chấp chính.

Giờ đây đã hết thời ghi dấu bởi Sibylle*.

Một thời đại mới, thời đại lớn sắp sinh ra.                                                               5

Trinh nữ trở về với chúng ta và các luật lệ Saturne*,

Từ trời  gửi đến chúng ta một nòi giống mới.

Ban phúc, nàng Lucine* trong trắng, một đứa bé sắp chào đời.

Sẽ làm thay đổi thời đồ sắt ra thời hoàng kim

Thần Apollon của người đã cai trị chúng ta hiện nay.                                             10

Ông chấp chính, Pollion, vinh quang này báo hiệu.

Dưới uy quyền người sẽ sinh ra một thế kỷ tôn kính,

Và dù vẫn còn vài dấu vết tội lỗi chúng ta.

Khủng bố chẳng bao giờ đè nặng thế gian

Sống như các thần, đứa trẻ này sẽ thấy như thế.                                                     15

Các thần và các anh hùng sẽ nhìn thấy chính ngài.

Ngài, chúa tể một thế giới bởi cha ngài sai xuống.

Mặt đất rồi đây, đứa trẻ, bao lời ca ngợi cho ngài.

Cây trường xuân bất tử, món ăn cho tự nhiên.

Cây khoai môn lẫn lộn và cây ô rô vui vẻ,                                                               20

Con dê cái trở về vú sữa căng đầy,

Đàn súc vật không còn sợ hãi bầy sư tử.

Trong chiếc nôi ngài, những đóa hoa xinh xắn điểm tô.

Con rắn tiêu tan cùng các cây nấm độc

Tất cả cũng tiêu tan và khắp nơi cây hương liệu nẩy sinh.                                      25

Trong khi những lời dạy anh lòng cao thượng đấng cha lành,

Các sách vở chỉ dạy những điều giá trị,

Tất cả bông lúa chín vàng trên đồng nội

Và các bụi cây chùm trái đỏ đong đưa.

Từ cây sên cứng rắn nhất, mật ong rỉ ra,                                                                  30

Vài dấu vết đau vẫn còn tồn tại.

Người ta phải còn vượt sóng và cùng xây dựng*,

Các lũy thành, và trên mặt đất những luống cày.

Người ta sẽ thấy Tiphys một xứ Argo mới*

Mang bởi các anh hùng, và sẽ thấy cuộc chiến khác xãy ra,                                               35

Và những câu thơ mới thành Troie, Achille* tham chiến.

Nhưng đến lúc mà anh đến tuổi thành người.

Người thủy thủ rời biển cả và tất cả buôn bán.

Trên sóng nước đều ngừng, mặt đất sản xuất tất cả.

Mặt đất và vườn nho làm lãng quên cái bừa, lưỡi hái                                              40

Dưới chiếc ách người nông phu tháo các con bò ra.

Cuộn len không còn nhuộm màu giả dối,

Nhưng màu đỏ sáng chói và bộ lông cừu vàng

Con cừu trên cánh đồng tự nhuộm lông lấy nó,                                                      

Và sắc đỏ thay bằng lông trắng của đàn cừu.                                                          45

Hãy ngừng số phận các thần Parques định đoạt

Nói với con thoi : “Hãy luôn phóng nhanh với thời gian,”

Nhận lấy (giờ sắp đến) vinh dự từ trên trời cao.

Từ ân huệ các thần, công trình của Jupiter,

Hãy nhìn thấy vươn lên sức nặng toàn thế giới                                                       50

Mặt đất và biển cả và vòm các tầng trời.

Hãy nhìn thấy niềm vui thế kỷ báo tin mừng.

Ô ! tôi tự gìn giữ để có một cuộc sống lâu dài.

Và tâm hồn phải hát để ngợi ca sự kiện cao cả này !

Tiếng hát tôi hơn cả khúc hát Orphée                                                                      55

Dù mẹ chàng là Thi nương Calliope,

Tôi sẽ thắng cả chàng Linus*, con trai hùng tráng của Apollon,

Cả thần Pan, nếu công bằng người ta sẽ lấy Arcadie,

Pan, trước Arcadie sẽ thú nhận điều thất bại.

Có biết chăng bởi nụ cười anh tiếp đón bởi người mẹ này                                      60

(Người, mười tháng ròng, mang anh trong lòng)

Cho người mẹ này, kẻ không hề có nụ cười này

Không phải là thức ăn các thần, chẳng phải giường thần nữ.                                  63

CHÚ THÍCH

4. Sibylle là một nữ tiên tri Hy Lạp, có nhiều nữ tiên tri ở Ý.

6. Trinh Nữ, Vierge là một chòm sao, trước khi là tinh tú, bà là thần Công lý trên thế gian. Saturne đây là trái đất.

8. Lucine là Jono Lucina thần chăm nom sự sinh đẻ tại Rome.

32, Nhắc lại chuyện Énée bỏ thành Troie, vượt sóng qua nhiều vùng trong Địa Trung Hải và đến định cư tại Italie,

34. Con thuyền Argo đưa Jason và người Argonautes đi chinh phục bộ lông cửu vàng, Tiphys là thuyền trưởng,

36. Achille, anh hùng Hy Lạp tham gia trận chiến thành Troie,

57. Linus: du tử ca hát và cũng là tiên tri huyền bí.

THI CA KHÚC V

DAPHNIS

MÉNALQUE, MOPSE

MÉNALQUE

Ôi Mopse, tại sao duyên nào mà ta gặp gỡ.                                                             1

Anh, thổi sáo tài năng và tôi giọng ấm ngâm thơ.

Ngồi nơi đây, trên cỏ giữa hai hàng cây du ?

MOPSE

Ménalque, anh cả ơi, tôi phải vâng lời anh.

Nào, cùng ngồi dưới bóng mát, gió thổi nhẹ thanh thanh,                                      5

Chổ tốt nhất góc này: trông thấy cả vườn nho.

Màng tơ mỏng  các chùm nho hoang dại.

MÉNALQUE

Một mình Amyntas, đang ở nhà, anh có thể cùng thổ lộ .

MOPSE

Ô hay ! Chống lại chính thần Phoebus hắn có dám tranh ?

MÉNALQUE

Anh bắt đầu đi : nếu tôi còn nhớ điệu ca anh                                                                      10

“Lòng hăng say Phyllis” hay “Vinh quang của Alcon”,

Bắt đầu đi : đàn súc vật chúng ta có Tityre coi chừng.

MOPSE

Không, tôi thích hát hơn câu thơ mà ngày nọ,

Tôi viết trên vỏ cây và để hát lần hồi sau,

Lúc anh kích động Amyntas đấu nhau.                                                                    15

MÉNALQUE

Bao cây ô liu nhường cho một cây liễu mềm,

Và  cây la-văn tím đơn sơ nhường cho hoa hồng đỏ chói

Biết bao điều cho Amyntas mà Mopse nhường cho.

Chàng trai trẻ, đã nói nhiều, chúng ta giờ đây trong hang động.

MOPSE

Cái tang đau thương, Daphnis chết, bao tiên nương than khóc chàng                    20

Ôi suối nguồn, cây phỉ, nhân chứng  việc đau thương.

Khi ôm thân thể đứa con bất động,

Người mẹ chàng nguyền rủa cả trời độc ác!

Daphnis, chẳng một ngày nào không mang nguồn nước mát,

Đàn bò chàng đến đây gậm cỏ, và chẳng súc vật nào còn muốn gậm                     25                              

Ngay cả luôn các cỏ mềm trên đồng.

Cái chết chàng làm gầm vang đến các sư tử Phi Châu.

Tiếng rống vang vọng âm thanh trong rừng núi.

Daphnis dạy chúng tôi chinh phục lũ cọp,

Nhảy điệu Thyase* lên đồng, thần Bacchus vinh danh                                           30

Trang trí lá và chùm nho trên gậy thông cong.

Bầy bò mộng và cánh đồng lúa chín.

Anh là niềm kiêu hãnh chúng ta, nhưng mới vừa vui thích,

Palès* cũng như Apollon đã vội vã rời xa ta.

Rượu lúa mạch cuồng điên tai họa say sưa,                                                             35

Chiếm ngự cả cánh đồng vàng đại mạch chín.

Nơi người thấy nở hoa thủy tiên và hoa tím,

Cây gai dại và cây cúc gai đã phủ đầy gai.

Hãy trải đầy hoa trên mặt đất và bóng mát suối chảy dài,

Mục tử ! Daphnis ra lệnh và mong muốn quang vinh nào danh dự !                      40

Hãy xây lên nấm mồ và khắc lên dòng chữ :

“Tôi nơi đây Daphnis người ưu tú của đất và trời,

Mục tử của bầy thú đẹp nhất và đẹp hơn cả là tôi.”

MÉNALQUE

Lời hát anh thi sĩ thánh thần, lời thật dịu dàng thấm vào tôi.

Cho tôi giấc ngủ ngon trên cỏ thân tôi mệt nhoài,                                                   45

Một làn nước mát cho mùa hạ đang khát.

Bởi tiếng sáo đối thủ của bậc thầy anh và tiếng hát.

Anh sẽ là đứa con xứng đáng của thầy anh sau ông.

Và đến phiên tôi,ca tụng Daphnis đến tận các hành tinh.

Tôi sẽ làm điều tốt nhất, theo cách tôi cho anh,                                                       50

Vâng, tôi sẽ ca tụng chàng, chàng sẽ yêu tôi như anh.

MOPSE

Vâng, chẳng có gì vui thú hơn cho tôi điều đó ?

Daphnis được xứng đáng thay được hát bởi anh :

Kích thích bởi thơ tôi, thành lời tán tụng thơ anh.

MÉNALQUE

Daphnis mặc đồ trắng trên ngưỡng cửa Olympe,                                                    55

Chiêm ngưỡng dưới chân các tinh tú và mây vần.

Bởi vì thế cánh đồng và khu rừng đều vui vẻ.

Không chỉ các mục tử, Pan và các Dryades*,

Chó sói không rình rập súc vật, bẩy bắt chẳng cần.

Con nai. Chân phúc Daphnis yêu hòa bình.                                                             60

Núi cây phủ, đá cao dựng và bụi rậm.

Tất cả vọng vang lời : “Nénalque ! một vị thần !” Ấy đúng một thần !..

Hãy ban ơn cho chúng tôi, tài năng.. Anh có thấy bốn bàn thờ chăng ?

Hai cho anh và Daphnis, cái khác cho thần Phoebus.

Ở trên đó sữa nóng còn bốc khói, hai chiếc cúp, mỗi năm.                                      65

Và hai bình dầu cho anh sẽ hiến dâng,

Bên bếp lửa mùa đông và dưới tàng cây mùa hạ.

Tôi rót cho anh phong phú tiệc đãi đằng.

Rượu mới Arusie và rượu bồ đào đảo Chypre,

Và tôi sẽ hát Aegon và Damoetas                                                                            70

Trong lúc Alphésibée bắt chước thú vật làm trò.

Lễ hội được mùa trên đồng, lễ hội các tiên nương.

Trong long trọng chúng ta tế lễ.

Vinh quang này luôn luôn chúng ta từ lâu cúng tế.

Anh thấy chăng đàn cá trên sóng nước tung tăng.                                                  75

Bầy ong yêu bông hoa thơm, trên núi heo rừng.

Như Bacchus, như Cérès, các người cày cấy.

Chúc tụng anh lời chúc kết liên anh.

MOPSE

Món quà nào, cho lời thơ này, tôi có thể tặng anh ?

Không, không cơn gió nào thổi qua buổi ban trưa,                                                 80

Không tiếng sóng thầm thì trên sông

Và không cả tiếng thác đổ điếc tai không ai nghe hát nữa.

MÉNALQUE

Nhưng trước tiên hãy để tôi tặng anh chiếc sáo mong manh

Để hát khúc ca : Corydon cháy lòng bởi Alexis…

Và điệu hát này : Đàn súc vật này có phải của Mélibée ?..                                     85

MOPSE

Và anh, hãy cầm lấy cây gậy này, thèm có bởi Antigène,

Dù thế nào xứng đáng với lòng yêu mến, nó không còn thuộc về tôi,

Nhưng hãy xem cây gậy đẹp thế này, nút thắt nơi đầu cong chạm đồng.               88

CHÚ THÍCH

30. Thyase hay thiase :  tiếng Hy Lạp là Thiasos là điệu nhảy múa lên đồng của người tế thần Rượu Vang Dionysos.

34. Palès là một thần La Mã của mục tử.

58. Dryades là các thần cây cổ thụ Hy Lạp.

(Còn tiếp)

Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh  chuyển ngữ thể thơ Alexandrines

Thống-Kê Vào Làng

Viet Nam 49.4% Viet Nam
United States of America 22.9% United States of America
Italy 10.5% Italy
Germany 8.5% Germany
Canada 2.6% Canada
Australia 1.4% Australia
France 1.0% France

Total:

68

Countries