Nguyễn Nghi (phần 2)
Tác giả truyện thơ QUÂN TRUNG ĐỐI
Ngôi sao và kiệt tác văn học họ Nguyễn Tiên Điền bị lãng quên
Hồi thứ Tư
Đánh Diêm cương trong trận được tin hay
Phần Đậu Tuyến Nương ngày đêm thương nhớ La Thành, nàng xin cha đi hành hương một ngôi chùa núi Tây. Trên đường về đến đồi Diêm Cương, gặp một đoàn quân người Đột Quyết, hai bên đánh nhau, nàng giải thoát được được hai viên tướng tù binh. Tra hỏi một tên là Hoa Mộc Lan, nữ cải nam tòng quân thay cha. Tuyến Nương cảm lòng hiếu thảo nên cùng nhau kết nghĩa chị em. Còn tướng kia lại là Tề Quốc Viễn từ Quan Trung đi mừng thọ La Nghệ về. Muốn tỏ tình ngay Tề trình bức thư La Thành.
Tuyến Nương xem thư mới rõ La Thành nhờ Tần Thúc Bảo, Đơn Hùng Tín mai mối cho nàng và La Thành. Biết câu chuyện không thành tựu vì hai họ đang tranh chấp thù địch, nàng không thể ngỏ với cha nên Tuyến Nương quyết hy sinh. Nàng tráo thư sửa lại là La Thành nhờ làm mối Ái Liên con Đơn Hùng Tín. Nhưng trong lòng nàng buồn khổ vô cùng.
Tình này há chỉ riêng ai,
Chung tình ắt củng có người tình chung.
Nàng từ trở ngọn cờ hồng,
Ly sầu một gánh chất chồng yên câu.
Đeo sầu về chốn trang lâu,
Ngày chày bóng ác, đêm thâu ngọn đèn.
Dấu tình ai để chiếc tên
Biết bao bể hẹn non nguyền ở đây. 240
Nhớ người quên cả tháng ngày,
Xuân qua hạ lại đã đầy hai đông.
Chước nào khuây khỏa tấm lòng,
Sầu nầy đợi gỡ cho xong còn chầy.
Có chùa nghe ở non Tây,
Thừa nhàn nàng mới định ngày hành hương.
Dưới màn thỉnh chỉ Phụ vương,
Một chi binh mã ruổi sang rừng thiền.
Cầm thông, phách suối, mõ quyên,
Tưởng chiều bát ngát, xui nên bồi hồi. 250
Tham thiền, hành lễ đã rồi,
Ra về vừa tới đỉnh đồi Diêm Cương,
Thì vừa Đột Quyết binh sang,
Giáp công một trận sấm vang nửa ngày.
Một cơn ngói vỡ tro bay,
Hai tên tướng giặc bắt ngay trận tiền.
Đem về tra hỏi họ tên,
Một tên vào trước vẻ xem khác thường.
Mảnh đào phân phất hơi sương,
Mặt hoa lóng lánh dưới gương Quảng Hàn . 260
Khấu đầu bày tỏ nguồn cơn.
Họ Hoa dòng bé, Mộc Lan tên hèn.
Nữ nhi đâu việc cung tên,
Liều mình ra chốn trận tiền thay cha.
Lạc loài chút phận dã hoa,
Muôn trông mưa tưới móc sa thế nào. »
Khen rằng : « Tên họ lạ sao !
Hoa nào hơn vẻ, lan nào đọ thanh.
Trọng vì một tấm hiếu thành.
Phòng khuê ta kết bạn lành chị em. » 270
Truyền cho đổi áo thay xiêm,
Thị tỳ ra rước nàng lên trên nhà.
Một tên sau lại hỏi tra,
Đem vào tới trước thềm hoa thoắt quỳ.
Rằng là : « Quốc Viễn họ Tề,
Tôi Đường nhỏ mọn, chức thì Hộ quân .
Nay thời làm kẻ hành nhân,
Sai sang hạ thọ lão thần Lã Công.
Lễ rồi trở lại Quan Trung.
Đường về xảy gặp giữa trong chiến trường. 280
Lượng trên dù chẳng xét tường,
Tờ La công tử rõ ràng còn đây. »
Đâu điều thốt chạm niềm tây,
Mượn điều thử lấy tờ này xem qua.
Dưới đèn vừa mở tờ hoa,
Nào hay trong ấy lại ra việc mình.
Kể từ những thuở đánh thành,
Kể từ những thuở đinh ninh thề nguyền.
Chỉ hồng chưa kẻ dắt duyên,
Vậy xin Thúc Bảo, Nhị Hiền giúp công. 290
Liền tay mở mở phong phong,
Hàng hàng chữ gấm, giòng giòng hạt châu.
Quan sơn chống vác bấy lâu.
Xa xôi ai biết còn đâu lòng nầy.
Đã điều tranh đánh bấy nay.
Hòa thân ai giúp việc này cho nên.
Dẫu mà nhắn cậy Nhị Hiền,
Tơ duyên chưa dễ trao bên mặt thù.
Tình riêng chút nỗi hẹn hò,
Dám đem làm chuyện mà thưa Phụ hoàng. 300
Thôi thôi ra sự quải gàng,
Lửa hương nguyền ấy nợ chàng thân sau.
Phận ta dầu vậy cũng dầu,
Để người chiếc bóng bên cầu sao yên.
Bạn ta có một Ái Liên,
Tuổi xanh còn chửa định nguyền thất gia.
Ví đem người ấy thay ta,
Bên tài bên sắc cũng là vừa đôi.
Tiện đây ta đổi một lời,
Lấy người nghĩa cũ đển người tình riêng. 310
Bút hoa bèn thảo vân tiên,
Cậy Tần Thúc Bảo đưa tin Nhị Hiền.
Rằng: “Xin hỏi lấy Ái Liên,
Để cùng công tử kết duyên Tấn Tần.
Thư rồi lại phó hành nhân,
Thêm cho ngân lạng, trung quân tha về.
Ai thêu ra mối tình chi ?
Dứt đi, mà lại bề bề chưa xong.
Dưới đời dễ mấy anh hùng,
Trăm năm một hội tương phùng dễ sao ? 320
Tên, cung còn dấu ước giao,
Duyên ai mà lại xe vào cho ai !
Sầu trong tỏ nét ra ngoài,
Vẻ đào nhường lợt, vóc mai thêm gầy.
Ngỗn ngang tình nọ, nỗi nầy,
Phụ Vương nay lại định ngày Tây chinh.
Nàng thời hơi dịu dịu mình,
Bàn cùng Tào hậu lấy binh giữ thành.
Chú thích:
Ly sầu: nỗi buồn rầu vì thương nhớ chia lìa cách biệt nhau.
Yên câu: yên ngựa non, hai tuổi khỏe mạnh, chạy mau.
Thừa nhàn: nhân lúc thong thà.
Hành hương: đi lễ chùa.
Tham thiền: học phép thiền định, yên lặng chuyên nhất tư tưởng.
Câu 247, 248 Đạm Trai phê:” Khổ vì tình ! Phật hay cứu khổ, nên không thể đem mối tình ra giải bày với Phật, nghĩ Đậu Tuyến Nương cũng thực đáng thương !”
Đột Quyết: giống người ở các sa mạc phía Bắc Á Châu đời Tùy Đường sau bị Hồi Hột tiêu diệt phải dời sang Trung Á rồi tiến vào Tiểu Á. Dưới đời Minh diệt Đông La Mã dựng nên nước Thổ Nhĩ Kỳ.
Giáp công : hai bên quân địch ráp gần đánh nhau.
Câu 253, 254. Đạm Trai phê: « Lần trước đánh được tên công tử La Thành, lần sau đánh được thư công tử. Đại để Tuyến Nương lợi ở đánh. Cười ! »
Dã hoa : bông hoa ngoài đồng nội.
Hộ quân : chức quan võ đời nhà Tùy, phó tướng, Hổ Bôn lang tướng.
Chiếc bóng bên cầu : lấy ở điển Vĩ Sinh, ước hẹn với một người con gái ở dưới cầu, bạn gái không tới, nước triều lên, Vĩ Sinh chết đuối. Ở đây Tuyến Nương cho rằng để La Thành phải chờ đợi mình không thể nào yên dạ.
Thất gia : Thất là nơi chổ ở của vợ chồng, gia là nói chung toàn phần ở bên trong cánh cửa.
Phó : giao cho
Ngân lạng : bạc đúc thành lượng, mỗi lạng cân 37,783 gr.
Tương phùng: gặp gỡ nhau.
Câu 323, 324: Đạm Trai phê:” Một khối tình muốn làm tan đi không được, muốn vứt bỏ điu không đành sự việc vốn phải nên như thế.”
Văn bản:
Câu 319, 320 hai bản A, B chép :
Duyên này sau có hay không,
Thời rằng trước chẳng đèo bồng phải nao.
Hồi thứ Năm
Đậu Kiến Đức một trận, bị bắt ở Hổ Lao.
Đậu Kiến Đức xuất binh Tây chinh, tiến về ải Hổ Lao, vừa qua Ngưu Khẩu bị quân Đường đánh úp. Lỡ cơ thất trận, để tránh cho ba quân không bị tàn sát Đậu Kiến Đức ra hàng và bị bắt nhốt vào xe tù. Được tin chồng bị bắt. Tào Thị dặn dò mọi việc lại với Tuyến Nương rồi uống thuốc độc tự tử.
Cho hay một ngọn lửa huỳnh,
Sáng chi là mấy, mà tranh mặt trời. 330
Tuế tinh ứng tượng có nơi,
Lòng trời nhường ấy, sức người được sao ?
Hạ Vương từ chỉ ngọn đào,
Ba quân thẳng ruổi Hổ Lao cõi ngoài.
Vừa qua Ngưu Khẩu dặm dài,
Quân Đường đâu đã ngất trời kéo ra.
Anh hùng khi đến thế sa,
Thà mình chịu khuất, chẳng thà hại quân.
Bá, Vương ra mặt hàng thần,
Hạm xa cầm ở trung quân nhà Đường. 340
Nghe tin Tào hậu kinh hoàng,
Dưới cờ đòi lại nhủ nàng đinh ninh.
Rằng : “Từ đức bác dấy binh,
Năm thu phá trận đánh thành như chơi.
Hưng vong việc ấy bởi trời,
Anh hùng ắt chẳng phải người tôi ai .
Chị thời trước xuống tuyền đài.
Đón chờ xe hạc, theo đòi dấu tiên.
Phận ai tòng nhất đã yên,
Sau này xử biến kinh quyền mặc em !” 350
Thôi thôi thay đổi áo xiêm,
Chuốc đầy chén ngọc nằm im giấc vàng.
Chú thích:
Lửa huỳnh: lửa đom đóm
Tuế tinh: Sao Mộc, sao Thái Tuế, dùng để bắt đầu tính vòng 12 năm.
Ứng tượng: điềm thiên nhiên báo trước, phù hợp một việc, một biến cố xảy đến.
Hổ Lao: tên đất xưa nay tây bắc huyện Thành Cao, tỉnh Hà Nam. Vua Mục Vương nhà Chu ra Tr(nh phố đi săn. Cao Bôn Nhung bắt sống được cọp đem dâng. Vua sai nhốt vào cũi nuôi ở Đông Ngu. Về sau đất ấy có tên là Hổ Lao.
Hạm xa: xe tù
Câu 337, 340 Đạm Trai phê: “Hạ Vương chính tự mình đem quân giúp Vương Thế Sung, thanh thế lừng lẫy, chưa từng bị thua thiệt hư hao, thế mà chỉ một phen đỗ ngã đến nổi bị cầm tù, thực là trời xanh xui khiến vậy. Nhưng Hạ Vương có bị thất bại thì Quân Trung Đối mới nên chuyện được.”
Đức bác: Đức là tôn kính, bác là cha (Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em), ở đây chỉ vua cha.
Tuyền đài: phần mộ tức hoàng tuyền: suối vàng, cửu tuyền: chín suối.
Câu 348: Tào Hậu tin chắc rằng anh hùng như Kiến Đức ắt không chịu khuất phục Lý Thế Dân đành cam một chết.
Tòng nhất: do câu Tòng nhất chi chung: người đàn bà chỉ lấy chồng một lần mà thôi.
Xử biến kinh quyền: gặp việc xãy ra khác thường, tùy ý Tuyến Nương, muốn xử theo phép thường (kinh) hay cân nhắc rồi xử trái với phép thường (quyền) cũng mặc.
Câu 347-352: Đạm Trai phê: “Tào Phi chết trong sạch, thực đáng kính mà cũng đáng thương. Tuy nhiên Phi không chết thì sau này Tuyến Nương không có chỗ vin vào để chờ mối duyên lành và để cho Quân Trung Đối thành chuyện được. Vậy đây chính là chỗ văn chương thắt nút, người đọc chớ sơ ý bỏ qua.
Văn bản:
Hai câu 329, 330 bản C chép là :
Cho hay nhửng thủa binh tranh,
Tóm thâu bầy mạnh đã sanh một người.
Sáu câu 337 -342 bản C chép:
Hạ quân khi đến thế sa,
Dẫu là tài mạnh, dầu là trí cao.
Tiếc cho một đấng anh hào,
Hạm xa cũng dễ nhốt vào như chơi.
Nghe tin Tào hậu rụng rời,
Đòi nàng dặn lại mọi lời đinh ninh.
Hai câu 345-346 bản C chép:
Số trời dấy mất là thường.
Anh hùng ắt cũng liệu đường sớm mai.
Hồi thứ Sáu
Đậu Tuyến Nương một mình vào lạy trước sân rồng
Đậu Tuyến Nương giải tán đội nữ binh và cùng Mộc Lan vào bệ kiến vua Đường để xin chịu chết thế cha. Vua đường ngợi khen lòng hiếu thảo, tha tội cho Đậu Kiến Đức, Kiến Đức tạ ơn xin đi tu. Vua Đường ban cho một cảnh chùa. Đậu Hoàng Hậu nghe chuyện đòi nàng vào. Hỏi rõ thân thế hoàng hậu nhận Tuyến Nương làm cháu. Nàng lạy tạ ơn và xin về cư tang Tào Thị. Hoàng hậu cho phép và cấp thêm hành lý và trăm lượng vàng. Tuyến Nương gặp cha, khóc lóc và chia tay.
Một cơn tang sự vội vàng,
Chợt tin đã thấy quân Đường tiến sang.
Năm trăm thị nữ sắp hàng,
Then lầu sịch mở, lịnh nàng truyền ra.
Rằng: “Năm thu dưới cờ ta,
Đông tây rong ruổi những là chúng ngươi.
Nay dầu thua được bởi trời,
Bó tay cũng chửa chịu người uổng danh. 360
Thất cơ phải khuất vì tình,
Còn toan một trận bội thành sao nên.
Nầy đây ngân lạng năm nghìn,
Cấp cho ai nấy về yên nghiệp nhà.
Rồi đây lui tới mặc ta,
Cơ trời tan hợp hoặc là mai sau. »
Vâng lời sùi sụt trông nhau,
Dưới sân răm rắp khấu đầu giở ra.
Ghé bên mới dạy nàng Hoa :
Rằng : « Trong tình nghĩa một ta với nàng, 370
Đánh liều nay đến quân Đường,
Thân ta đã vậy, ý nàng ngại chăng ? »
Lạy rồi Lan mới thưa rằng :
« Nghĩa trong thầy tớ tình bằng chị em,
Dẫu là sống thác cũng cam,
Dám đâu gặp bước gian nan ngại lòng.
”Trước sau bàn bạc vừa xong,
Áo xanh đổi lốt đều cùng ra đi.
Dần dà mới đến Đế Kỳ.
Soing song vóc liễu cùng quỳ sân đan. 380
Dưới trời đánh tiếng tỏ oan:
“Con hèn Kiến Đức, thân tàn Tuyến Nương.
Nhà Tùy khi lỗi mối giường,
Cha tôi mong cứu một phương lửa nồng.
Ngôi trời đã tỏ tượng rồng,
Chậm chân hiệu thuận ra lòng bất cung.
Gẫm rằng lời “hậu phu hung”
Lọt ngoài thanh giáo, cam trong điển hình.
Xót vì phụ tử thâm tình,
Báo ân cả dám lấy mình thay cha. 390
Muôn ngàn nhờ đức thiên gia,
Đổi cho nhất tử cũng là tái sinh. »
Ngự nghe tấu đối phân minh,
Khen rằng : « Hiếu tử Đề Oanh khác nào.
Lượng dung há có quản bao,
Ban tha Kiến Đức, cho vào trước sân.
Rằng : “Ta đất Tấn dấy quân,
Trên vâng mệnh cả dưới nhân lòng người.
Kình nghê đâu dám nép hơi.
Bốn phương đâu chẳng làm tôi một nhà. 400
Ngươi còn chống mệnh cõi xa,
Việt vàng, búa sắt, tội đà chẳng oan.
Nỗi niềm nghĩ lại nên thương,
Nhiêu sinh ta cũng tòng khoan phép thường.
Bấy lâu cờ, tán dọc ngang,
Nay làm phên dậu một phương thế nào ?”
Tâu rằng: “Che chở lượng cao,
Hiếu sinh đức ấy biết bao là ngần !