Nghịch Lý Của Sự Lựa Chọn
“Và cậu Hoàng Bé cảm thấy thật khổ sở. Hoa của chàng từng kể cho chàng nghe là nàng là đoá hoa duy nhất trong giống hồng trong hết vũ trụ, và bây giờ ở đây có cả năm ngàn đoá đều giống nhau, chỉ trong một vườn thôi!”
(Trích từ "Le Petit Prince" của Antoine de Saint Exupery, lúc cậu Hoàng Bé đến trái đất của chúng ta, lần đầu tiên thấy được một vường hoa hồng, trong lúc trước đến nay, cậu chỉ sở hữu và chăm sóc mỗi ngày cho một đoá hồng duy nhất trên hành tinh nhỏ bé của mình.)
Ngày xưa có nhà hiền triết phái khuyển nho (cynic) Hy Lạp tên là Diogenes, sanh ra năm 412 TTC ở Sinope, nay thuộc về Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy cha ông là người đúc tiền, sau khi dính líu vào việc đúc tiền giả, ông bị đày ra khỏi thành phố, mất quyền công dân và mất hết tài sản. Ông chuyển qua sinh ống ở Athens, từ bỏ mọi xa hoa, phù phiếm, theo phái khắc kỷ (stoic) và chọn sự nghèo khó như là cơ sở của đạo đức. Ông ngủ trong một cái lu giữa chợ, ban ngày thì đi ăn xin, và cầm một cây đèn dầu, bảo rằng ông đang đi tìm "một người ngay thẳng". Ông thách thức các nhà hiền triết lớn cùng thời như Plato và Socrates, và châm chọc luôn Đại Đế Alexander.
Diogenes nổi tiếng với một giai thoại khác. Ông chỉ có một chén bằng gỗ để ăn uống. Một hôm ông thấy đứa trẻ chụm hai bàn tay lại để uống nước, ông bèn nghĩ ra: "Mấy lâu này, mình thật khờ quá, đi đâu cũng phải mang theo món đồ vướng bận này", bèn bỏ cái chén gỗ đi không thèm dùng nữa.
Đa số chúng ta không phải là Diogenes. Lúc còn sống ở trại cải tạo, cũng như nhiều người khác, chúng tôi không có một chén ăn cơm, chỉ có cái lon sữa Guigoz đề ăn, uống dội nước lúc tắm, nấu nước uống, làm bánh mì và để dành chút thức ăn dành cho ngày mai lúc quá đói. Lúc ra khỏi trại, tuy vương vấn với món đồ từng chia sẻ ngọt bùi với mình qua bao năm tháng, chúng ta vũng vui vẻ để lại cho những anh em còn "học tập" dùng, hoặc nếu khá hơn thì đem cái lon nhôm giữ đâu đó làm kỷ vật sau này có đề tài nói chuyện cho con cháu nghe.
Xuất thân từ một nơi như thế, lúc chúng ta đến một nơi trù phú như nước Mỹ chúng ta không khỏi bàng hoàng.
Như trong phim Heaven and Earth của Oliver Stone, Lê Thị Hiệp trong vai người phụ nữ Việt từng lớn lên đói khổ trong vùng xôi đậu của chiến tranh Việt Nam, mới theo chồng qua Mỹ. Cô gái nhà quê sững sờ trước số lượng hàng hoá mình có thể lựa chọn trong siêu thị cũng như những thức ăn khác nhau nằm trong tủ lạnh của người Mỹ trung bình. Kết cuộc cuốn phim là một kết cuộc buồn, và trong phần buồn đó có một mẫu số chung. Tự do ở quê hương mới giàu có đến với quá nhiều lựa chọn. Người con gái quê chưa bao giờ được lựa chọn gì cả, mọi sự đều được người khác áp đặt lên mình, toàn là "cũng liều nhắm mắt đứa chân, thử xem con tạo xoay vần đến đâu". Người lính Mỹ trong quân ngũ cũng không có nhiều lựa chọn, đời lính nơi xứ lạ, cô đơn, nay sống mai chết có chăng chỉ là quyết định chọn nàng làm vợ và đem về Mỹ. Người con gái đói nghèo nay muốn ăn gì thì ăn, làm gì thì làm, hay không làm gì cũng được. Người lính chiến nay không còn phải nhận lịnh của ai, không cần bước đều theo nhịp quân hành nữa, sống đời bình thường tự do, cảm thấy mất phương hướng khi từ bỏ đời quân ngũ nề nếp, định hướng…
Họ có quá nhiều lựa chọn, như con lừa của Buridan. Jean Buridan là một ông thầy tu người Pháp vào thế kỷ thứ 13, là người mở đẩu cho nền vật lý hiện đại sau này. Ông đề ra ý niệm về impetus (động lực) tồn tại trong vật đang di chuyển, đi đến ý niệm về momentum sau này của Newton. Nhưng, trong câu chuyện về sự lựa chọn này, chúng ta không nhớ đến ông vì thiên tài khoa học của ông, mà nhắc đến Buridan qua câu chuyện ngụ ngôn về con lừa mang tên ông. Dù có đúng ông là tác giả hay không, có lẽ tên ông sẽ còn sống mãi nhờ con lừa này, biểu tượng của sự tự do chọn lựa, không ít thì nhiều, lúc nào chúng ta cũng có, và lúc nào cũng sẽ bận tâm chúng ta. Con lừa Buridan sắp chết vì đói và khát, nó được người ta cho một bên là thùng nước, bên kia là thùng rơm lúa mạch. Vì không biết chọn nên ăn cỏ rơm hay nên uống nước, nó vừa chết đói vừa chết khát.
Mỗi ngày chúng ta chứng kiến giới trẻ của chúng ta khổ sở về vấn đề chọn lựa này. Ngày xưa , vào được trường công là mừng quá rồi, ngày nay cha mẹ bỏ công bỏ sức, điều tra , nghiên cứu xem trường nào tốt. Có khi cha mẹ phải dọn nhà đến khu học chánh đó, giá nhà đắt hơn nhiều, theo kiểu bà mẹ Mạnh tử ngày xưa dọn nhà hai lần để cho con học tánh tốt.
Rồi học đàn ở đâu, chơi thể thao gì, giày thể thao hiệu gì kẻo bạn con mỉnh nó cười. Lên đại học, xem trường nào tốt, trường công hay trường tư, khung cảnh ra sao, thành thị hay nơi nhà quê, sinh viên trắng hay đen, bao nhiêu da vàng, xếp hạng US News hạng thứ mấy...Trẻ mới 18 tuổi bâng khuâng trước các lựa chọn trước ngưỡng cửa cuộc sống, lựa chọn đã rắc rối rồi, cọng thêm các bậc phụ huynh là đà theo sau như trực thăng nữa (helicopter parents), nếu tính tổng số lựa chọn có thể có cho một người tân sinh viên đại học chắc đi tới số vô tận.
Các nhà tâm lý học cũng từng nghiên cứu hiện tượng này. Barry Schwartz, giáo sư khảo cứu về tâm lý học và xã hội học ở Swarthmore College, là tác giả cuốn sách "Nghịch lý của lựa chọn, tại sao càng nhiều [lựa chọn], lại càng ít [hạnh phúc]" (The Paradox of Choice,Why More Is Less)
Ông nhận xét rằng:"Tự chủ và khả năng tự do lựa chọn tối cần cho hạnh phúc chúng ta, và lựa chọn là tối cần cho tự do và tự chủ. Mặc dù vậy, dù người Mỹ hiện đại có khả năng lựa chọn hơn bất cứ nhóm người nào khác trước đây, và theo đó, cứ tạm giả định như vậy, có nhiều tự do và tự chủ hơn, chúng ta có vẻ như không được hưởng lợi trên bình diện tâm lý từ khả năng đó."
Người ta cho rằng có hai yếu tố làm con người khổ sở lúc quá nhiều lựa chọn.
Thứ nhất, nếu chọn giữa hai, ba món, mình cảm thấy hạnh phúc vì mình thực hiện , hay sở đắc được ý nguyện, tham vọng của mình. Nếu có nhiều lựa chọn quá, sự lựa chọn trở nên một quá trình quyết định mệt nhọc, có khả năng làm mình tê liệt luôn, gây trầm uất, không muốn, hay không có ý chí để lựa chọn nữa. Ví dụ, người nhân viên lúc quyết định đầu tư cho tiền hưu liễm của mình, nếu cho họ chọn một số “mutual fund” chừng 10 món trở xuống, đa số sẽ đầu tư trong một số fund nào đó mà họ chọn. Nếu đưa cho họ một danh sách 50 fund khác nhau chẳng hạn, lúc đó, chỉ một số ít quyết định đầu tư vào mutual fund (nói chung sẽ đem lại lợi tức cao hơn về lâu dài), lúc đó họ chỉ bỏ tiền vào những phương tiện giản dị như money market, hay CD, có tiền lời thấp hơn, nhưng giản dị hơn, để tránh cho họ cái khổ sở chọn lựa.
Điểm thứ hai làm cho người quá nhiều lựa chọn khổ sở là, dù họ có kén chọn bao nhiêu đi nữa, họ sẽ có cơ nguy thất vọng rất cao. Là vì, người kén chọn mong đợi cao quá, mong là sự chọn lựa của mình sẽ toàn hảo, mà trên cỏi đời này, khó tìm thấy được sự toàn hảo, nhất là sự toàn hảo vừa ý mình, bền vững qua thời gian.
Hiện nay có phong trào "Sống giản dị", giảm bớt các lựa chọn của cuộc sống "văn minh" cho cuộc đời bớt phiền toái. Chúng ta có thể nghĩ đến triết lý "tri túc" (biết thế nào là đủ) của Á Đông, nếp sống hippies thời thập niên 1960's, cách ăn mặc và làm việc của Gandhi , Ấn độ, nếp sống người Amish ở Mỹ (lao động tay chân, không dùng xe hơi, máy điện).
Ngoài ra, sự lựa chọn hợp lý còn có một khía cạnh "chiến lược" khác.Trong bài thơ ngụ ngôn của La Fontaine, con cò (Le Héron) lúc đầu thì nhìn thấy bao nhiêu cơ hội, đủ thứ cá to, béo, ngon, nhưng chê (không thèm, chưa tới giờ,...), cho đến khi đói quá, cá đi hết rồi, chị cò "sung sướng , thoải mái mừng gặp được con ốc tai" (La faim le prit, il fut tout heureux et tout aise / De rencontrer un limaçon.)
Bài thơ kèm theo, nói về một thiếu nữ cũng kén chồng, rồi cuối cùng các chàng trai đi hết, chị ta cũng "sung sướng, thoải mái mừng gặp một anh nhà quê". Bài học có lẽ cũng không khác gì câu "già kén, kẹn hom" (2) của chúng ta. Nói chung là đừng khó khăn quá, chê bai quá. Hơn nữa , mình chê người ta thì người ta cũng biết chê mình.
Trong câu chuyện về nghịch lý của sự lựa chọn hôm nay, chúng ta có thể kết hợp vài điểm như sau có thể nên để ý tới lúc chúng ta phải, hoặc được, lựa chọn giữa nhiều món:
- Nên biết mình cần gì, muốn gì trước khi mình lựa chọn (nếu chúng ta chỉ cần mua chiếc xe đi chợ thì không việc gì phải xem hiệu Mercedes nào sang nhất, hay cần thầy giáo dạy piano cho con 4 tuổi thì chắc không cần phải đói hỏi người ta tốt nghiệp trường âm nhạc số một Juilliard)
- Chỉ cần chọn trong môt số option giới hạn thôi, càng nhiều option càng làm cho người chọn "tê liệt".
- Nên mong đợi một cách thực tế, đừng mơ tưởng quá, sẽ thất vọng (realistic expectations).
- Nên nhớ các cơ hội khác nhau mà mình có thể chọn lựa sẽ không tồn tại mãi mãi.
- Nên nhớ chính mình cũng thay đổi; món, người mình chê hôm nay cũng có thể là người mình thương, quý, thích, muốn, trong tương lai (đương nhiên người kia cũng có thể thay đổi theo chiều hướng tốt hơn).
- Không nên "đốt cầu" (“ to burn our bridges”). Những người, những nơi mình chê hôm nay có thể mình sẽ cần tới trong hoàn cảnh khác.
- “Chúng ta đừng khó khăn quá ,
Người thích ứng giỏi là người khôn khéo nhất.
Tham quá có thể làm mình mất mát,
Đừng chê bai, khinh thị gì ai..”.
(Ne soyons pas si difficiles :
Les plus accommodants ce sont les plus habiles
On hasarde de perdre en voulant trop gagner.
Gardez-vous de rien dédaigner..
La Fontaine)
BS Hồ Văn Hiền
Ngày 17 tháng 9 năm 2014
- “Autonomy and Freedom of choice are critical to our well being, and choice is critical to freedom and autonomy. Nonetheless, though modern Americans have more choice than any group of people ever has before, and thus, presumably, more freedom and autonomy, we don't seem to be benefiting from it psychologically.—quoted from Ch.5, The Paradox of Choice, 2004”
- Tìm hiểu về từ ngữ "già kén kẹn hom", có cách giải thích sau đây là thú vị hơn cả, xin phép tác giả ẩn danh đăng lại sau đây: “Có ít nhất là hai cách hiểu sau đây:
- Khi tằm chín nhả tơ làm thành kén, con tằm hóa thành nhộng nằm gọn trong kén tơ đó. Nếu để kén lâu ngày thì nhộng hóa thành con ngài (con bướm) cắn thủng kén bay ra, đẻ trứng. Loại kén "già" này khi kéo tơ thì tơ chẳng róc ra được (tơ bị kẹn). Già kén kẹn hom là như vậy. Song, ở cách hiểu này, người ta chẳng giải thích được từ hom là gì. Hom vẫn là một ẩn số.
- Vẫn là người thợ thủ công nghề tơ tằm cho biết, trong nghề tằm tơ có một công đoạn là dùng né cho tằm làm kén. Người ta đan những thanh tre, nứa thành phên có chân đứng tựa như tấm liếp nhưng đan thưa tạo ra những ô trống hình vuông để cài rơm vào cho tằm làm kén. Đó là cái né. Làm nghề tằm tơ "sẵn nong sẵn né là thế"! còn những thanh tre, thanh nứa dùng để đan né được gọi là hom như nghĩa của hom trong hom gianh, hom sắn, hom dâu... Tằm chín được thả trên né để tùy ý chọn nơi nhả tơ kết kén. Nếu kén trên né mà to, mật độ lại dày (già kén) thì sẽ kẹt vào hom, khó gỡ (kẹn hom).
- Già kén kẹn hom vốn nghĩa là như vậy. Từ kẹn trong thành ngữ này có thể là dạng thức cổ của kẹt hay nghẹt chăng?. Vì trong tiếng Việt thấy có sự tương ứng về âm (âm đầu k -ng và âm cuối t-n) và nghĩa giữa kẹn với nghẹt, kẹt với nghẹt, nghẹn...
- Cách lý giải nguồn gốc và nghĩa của thành ngữ "già kén kẹn hom " như vậy là thỏa đáng có có sức thuyết phục hơn cả vì nó phù hợp với quy tắc tương hợp ngữ nghĩa và đối ứng trong cấu trúc của thành ngữ. Đó là sự tương hợp và đối ứng giữa già (tính từ) với kẹn ( tính từ), kén (danh từ) với hom (danh từ).”
Source: (Theo Kể chuyện Thành ngữ tục ngữ)
(https://vn.answers.yahoo.com/question/index?qid=20100311182432AAclgJy