Mùa Thu Quyến-Rũ Anh Rồi
Nhạc-Sĩ Đoàn-Chuẩn (Hình: Internet)
Nhạc-sĩ Đoàn-Chuẩn khi còn trẻ (trái) và Từ-Linh (Hình: Internet)
Ở cửa-sổ phòng ăn nhà tôi nhìn ra, có một hàng cây maple trồng trên vỉa hè, Từ-Điển tiếng Việt gọi là cây thích (tôi không thích tên này vì...nôm-na quá.) Ừ, tại sao lại là thích nhỉ? Mỗi năm, khi bắt-đầu vào mùa Hè, các chú Mễ lại bắc thang leo lên cưa những ngọn thừa để chuẩn-bị cho mùa mưa có gió mạnh sắp tới. Cây bị cắt, cành cụt-ngủn, lờm-chởm trông như những cây củi, thật vô-duyên. Đến giữa Hè, cây bắt đầu sống lại. Lá mọc ra và xanh-tươi. Hình như cây maple chỉ tươi tốt trong không-khí nóng như mùa Hè. Những cây maples có lá hình ngôi sao năm cánh. Rồi đến mùa Thu, lá lại đổi sang mầu vàng, vàng hết cả không-gian. Tôi ngắm nhìn say-sưa. Đẹp quá.
Tử-vi nói tuổi tôi không hợp với sao, dù là sao gì. Có nó thì không có tôi hay ngược lại, nhưng nhiều thì được, càng nhiều càng tốt. Rõ thật “khổ”.
Anh mong-chờ mùa Thu
Trời đất kia ngả mầu xanh-lơ.
Đàn bướm kia đùa vui trên muôn hoa
Bên những bông hồng đẹp xinh.
Anh mong-chờ mùa Thu
Dìu thế-nhân dần vào chốn thiên-thai
Và cánh chim ngập-ngừng không muốn bay
Mùa Thu quyến-rũ anh rồi…
Mưa rơi làm rung lá vàng
Duyên ta từ đây lỡ-làng
Còn đâu những chiều dệt cung-đàn yêu.
Thu nay vì đâu nhớ nhiều
Thu nay vì đâu tiếc nhiều
Đêm đêm nhìn cây trút lá
Lòng thấy rộn-ràng ngỡ bóng ai về.
Anh mong-chờ mùa Thu
Tà áo xanh nào về với giấc-mơ
Mầu áo xanh là mầu anh trót yêu
Người mơ không đến bao giờ…
Đó là lời bài-hát Thu Quyến-Rũ (hay Tà Áo Xanh) của Đòan-Chuẩn và Từ-Linh. Mùa Thu có sức quyến-rũ kỳ-lạ, làm con tim ta bồi-hồi, làm lòng ta ngất-ngây. Tôi yêu nhạc Đoàn-Chuẩn & Từ-Linh khi còn nhỏ. Ngày nay, chẳng mấy người là không “nghêu-ngao” nhạc của ông, có khi chỉ một câu, vì không thuộc hết cả bài, và có khi cũng không cần biết Tác-giả là ai. Nhạc của ông viết về mùa Thu giản-dị, mộc-mạc.Từ-ngữ như từ trong tim đi ra, không có gì là gọt-dũa, chùi-mài, nhưng chính điều đó đã làm ta nhớ mãi, không thể nào quên. Hình-như ông viết dễ-dàng, không mấy khuôn-sáo như nhiều người khác.
Anh mong-chờ mùa Thu
Dìu thế-nhân dần vào chốn thiên-thai
Và cánh chim ngập-ngừng không muốn bay
Mùa Thu quyến-rũ anh rồi…
Hát đến đó, ta phác-thảo trong đầu hình-ảnh một mùa Thu với “anh mong-chờ mùa Thu, trời đất kia ngả mầu xanh-lơ, đàn bướm kia đùa-vui trên muôn hoa, bên những bông hồng đẹp-xinh. Và anh mong-chờ mùa Thu, dìu thế-nhân dần vào chốn thiên-thai, và cánh chim ngập-ngừng không muốn bay, mùa Thu quyến-rũ anh rồi…
Nhớ mùa Thu cách đây mấy năm, chúng tôi rủ nhau đi chụp lá vàng ở Utah. Đứng giữa, bốn bên được vây-bọc bởi những rừng cây aspen (người Việt gọi bằng danh-từ hơi dài là cây dương lá rung hay cây dương.), tôi thực-sự bị cuốn-hút lạ-lùng. Tất cả đều như nhuộm một mầu vàng. Chỗ nào cũng vàng. Lá rung-rinh, xôn-xao trong gió, như nhẩy-nhót trước mắt.
Ánh Trăng Mùa Thu (1947) là Ca-Khúc đầu-tiên của Nhạc-Sĩ Đoàn-Chuẩn nói về mùa Thu. Ngày nay, người ta tính Đoàn-Chuẩn sáng-tác không nhiều, chỉ chừng hai mươi bàn nhạc, nhưng hầu hết bản nào cũng về mùa Thu.
Trong bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu và Đông, tôi thích mùa Thu nhất, vì trời mát, không-gian ảm-đạm.
Sinh năm 1924, Đoàn-Chuẩn được mọi người biết đến như một Nhạc-Sĩ biểu-diễn đàn lục-huyền-cầm Hạ-Uy-Di (Hawaii), nhưng ông còn là một Nhạc-Sĩ viết về mùa Thu rất nổi-tiếng. Cứ nói đến Đoàn-Chuẩn là người ta nghĩ đến mùa Thu hay ngược lại.
Ngày tôi còn bé, đã nghe tên Đoàn-Chuẩn & Từ-Linh, nhưng không tìm-hiểu về ông hay nói đúng ra, không cần biết ông là ai. Thấy nhạc của ông, chỉ biết đàn hát, chứ cần gì biết ông. Các ca-khúc của ông đều mang tên Đoàn-Chuẩn &Từ-Linh, nhưng trên thực-tế, Từ-Linh (tên thật là Hà-Đình-Thâu) lại là một Nhiếp-Ảnh-Gia. Từ-Linh không sáng-tác nhạc, nhưng với tư-cách “cố-vấn”, chỉ góp ý-kiến cho Đoàn-Chuẩn. Từ-Linh đã mất năm 1992.
Năm 2001, Đoàn-Chuẩn bị tai-biến mạch-máu não và từ-giã chúng-ta.
Theo Đoàn-Đính, con trai của Nhạc-Sĩ, Đoàn-Chuẩn có cách-sống phong-lưu và tiêu tiền “như nước” giống công-tử Bạc-Liêu ở miền nam Việt-Nam bấy giờ. Ngòai ra, ông còn là người rất đa-tình.
Đoàn-Chuẩn không chú-tâm vào việc sáng-tác. Ông chỉ sáng-tác khi nào tự cảm thấy rung-cảm thật-sự. Các sáng-tác của ông không nhiều (khoảng 20 bài), nhưng hầu như đều là những tác-phẩm về mùa Thu. Ông tự-nhận mình chỉ là “tài-tử” trong sáng-tác. Nhiều ca-sĩ hát nhạc Đoàn-Chuẩn & Từ-Linh thành-công như Anh-Ngọc, Ánh-Tuyết, Ngọc-Long, Thái-Thanh, Lệ-Thu, Khánh- Ly...
Con trai Đoàn-Chuẩn (Đoàn-Đính) (Hình: Internet)
Trong việc đi tìm nhạc của Đoàn-Chuẩn, cô cháu gái nhạc sĩ đã tìm được ca-khúc Hoa Thơm Bướm Lượn do Đoàn-Chuẩn và Tạ-Tấn hòa-tấu năm 1960.
Gần đây, thêm một nhạc phẩm nữa của ông lại được tìm thấy là Thuở Trâm Cài được ký bút-hiệu Việt Tử. Ca-khúc này được Đoàn-Chuẩn viết vào thập-kỷ sáu mươi, là gạch-nối giữa hai giai-đoạn sáng-tác (1947-1956 và 1988-1989) của ông.
Chi-tiết về đàn Hawaiian Guitar (hay Guita Hawaii):
Đàn Hawaiian Guitar có 6 dây (trong khi đàn Ukelele, viết tắt là uke, xuất-phát ở Hawaii chỉ có 4 dây, có phím) như đàn Guitar thông-thường, nhưng không có phím, khi chơi phải để lên lòng (Lap Steel Guitar) hay để ngang vì nặng. Người đàn, dùng một miếng kim-loại (chẳng hạn, bằng đồng...) đặt trên cần đàn để tạo nên âm-thanh trên các phím. Độ dài ngắn của đoạn dây đàn bị chặn lại sẽ tạo ra các âm-thanh (độ cao). Hawaiian Guitar có nhiều bồi-âm(còn gọi là bội-âm, hài-âm hoặc họa-âm) là những âm có tần-số cao hơn tần-số chính một âm, vì độ dài dây đàn có thể thay-đổi được. Các bồi-âm ấy du-dương, thánh-thót hơn tiếng guita thường. Khi lên dây, phải theo hợp-âm (do, mi, sol; mi, sol, si hay la, do, mi...)
Tay phải gẩy (quạt chả) có 1 bộ 4 móng (tương-tự chơi đàn tranh) lắp vào 4 ngón: cái, trỏ, giữa, và áp út.
Dây của đàn Hawaiian Guitar trơn, không có vỏ bọc. Sáu dây này được tăng hay giảm theo hợp-âm (do, mi, sol; mi, sol, si hay la, do, mi...)
Ở Việt-Nam, có ít nhạc-sĩ chơi Hawaiian Guitar, người nổi-tiếng là Đoàn-Chuẩn, Từ-Linh.
Như định-nghĩa trên, đàn Vienne và Hawaiinan Guitars giống nhau. Đàn Guitar Acoustic là đàn Guitar thường, thùng bằng gỗ; đàn Electric Guitar là Guitar Điện.
Nhà-Văn Văn-Quang viết về Đoàn-Chuẩn như sau:
“...Hôm nay thì tôi ngồi nghe lại cả một cuốn CD nhạc Đoàn-Chuẩn khi nghe tin anh mất. Từ Hà-Nội một người bạn tôi điện-thoại cho biết tin này đầu-tiên, trước khi những tờ báo ở Sài-Gòn loan đôi dòng về tin buồn này. Người bạn tôi đã có từng có thời-gian ở Hải-Phòng vào những năm 1952-1953 và cũng đã có một số kỷ-niệm với anh Đoàn-Chuẩn. Tôi cũng có một vài kỷ-niệm nhưng là rất nhỏ, trước hết là nó nhỏ với một nghệ-sĩ lớn tuổi như Đoàn-Chuẩn, có lẽ đến sau này anh chẳng còn nhớ tôi là "thằng nhóc" nào. Bởi anh hơn tôi đến gần 10 tuổi. (Anh sinh ngày 15-6-1924, tôi sinh năm 1933). Tuổi 19-20 với tuổi 30 khác nhau nhiều lắm. Còn hơn thế, hồi đó anh đã là một nghệ-sĩ có tên-tuổi, còn tôi chỉ là một anh "nhí", đang là một "mầm-non văn-nghệ".
Đoàn-Chuẩn và nhóm văn-nghệ Hoa-Niên.
Nhóm Văn-nghệ Hoa-Niên của Hải-Phòng thành-hình vào khoảng năm 1952 do họa -sĩ Trọng-Thường thành-lập. Thời-kỳ của những thành-phố mới hồi-sinh sau giai-đọan đầu của kháng-chiến chống Pháp. Cả thành-phố Cảng của miền Bắc dường như chỉ có một nhóm văn-nghệ duy-nhất đó thôi. Người trưởng-thành nhất là họa-sĩ Trọng-Thường, anh đã từng tham-gia trong một vài đoàn văn-công kháng-chiến rồi trở về "thành", hồi ấy người ta gọi là "dinh-tê". Nhóm văn-nghệ gồm khoảng chừng trên 10 người, những ca-sĩ hạng nhất như Ngọc-Quang, Tường-Vi và những ca-nhạc-sĩ mới ra lò như Hoài-An, Huyền-Linh, Phó-Quốc-Thăng, Thu-Huyền, Lương-Thảo, Trần-Hải. Sở-dĩ tôi được gia-nhập nhóm này vào cái tuổi 19-20 vì thỉnh-thoảng đi chơi với Lương-Thảo, Trần-Hải và cũng đã có vài bài viết-lách trên mấy tờ báo ở tận Hà-Nội như Cải-Tạo, Tia-Sáng. Thời đó, Hải-Phòng chưa hề có một tờ báo nào.
Vì thế nhóm văn-nghệ "tài-tử" này được dư-luận chú-ý. Khoảng giữa năm 1952, chúng tôi chuẩn-bị tổ-chức một buổi trình-diễn thi ca-nhạc-kịch tại nhà hát lớn thành-phố. Một tờ chương-trình được in rất xôm, bài thơ của tôi đã "được đăng" trên nhật-báo Tia-Sáng cũng xuất-hiện trên trang 2 của tờ chương-trình này.
Trước buổi trình diễn thi ca-nhạc-kịch chừng một tuần lễ, anh Đoàn-Chuẩn đến thăm. Trụ-sở của chúng tôi là căn nhà ngoài của anh em ca-sĩ Ngọc-Quang, trên con đường nhỏ gọi là Ngõ Nghè. Anh Đoàn-Chuẩn lúc đó đã đạo-mạo lắm rồi. Dáng người khỏe-mạnh, bảnh-bao nhưng rất hiền-lành. Anh hỏi thăm về đêm trình-diễn và dĩ-nhiên anh Trọng-Thường không bỏ qua dịp may mời anh Đoàn-Chuẩn trình-diễn một bản guitare Hawaienne (thực ra là Hawaiian Guitar) vốn là thứ đàn mà anh Đoàn-Chuẩn rất thành-thạo. Anh nhã-nhặn từ-chối, lấy cớ bận đi Hà-Nội. Anh chỉ hứa sẵn-sàng cho mượn một cái mangétophone để thu lại toàn-bộ chương-trình hôm đó. Vào thời này có được cái máy như thế không phải là chuyện nhỏ. Không những phải là con nhà giàu mà con phải là tay biết chơi mới gửi mua thứ này tận bên Tây. Nhưng rồi đến đêm trình-diễn, chuyên-viên thu-thanh đã làm cháy cái máy ghi-âm đó của anh.
Cũng vì chuyện này mà sau đó vài tuần tôi còn được gặp lại anh Đoàn-Chuẩn. Anh hỏi thăm anh Trọng-Thường để lấy lại chiếc mangétophone. Anh Đoàn-Chuẩn cho tôi leo lên chiếc xe-hơi, đó là chiếc xe Buick kềnh-càng, láng-coóng. Hồi đó cả miền Bắc chỉ có hai chiếc xe Buick nên anh Đoàn-Chuẩn rất tự-hào về điều này. Nếu không có vụ này chắc chẳng bao giờ tôi được ngồi trên chiếc xe đó. Tôi đưa anh đến nhà anh Trọng-Thường ở phố Cầu Đất lấy lại chiếc máy dù nó đã bị cháy. Anh nhận lại máy mà không hề phàn-nàn một tiếng. Tôi lo-ngại theo dõi từng thái-độ của anh và tôi lễ-phép nói: "Cả nhóm lo lắm, anh Trọng-Thường rất ân-hận, phải trốn anh đấy. Không biết lấy gì mà đền anh đây". Anh lắc đầu: "Anh sẽ gửi đi sửa, có ai muốn làm cháy đâu." Tôi kính-phục cử-chỉ đó của anh.
Hồi đó anh được tiếng là công-tử thành-phố cảng. Một thành phố có hoa phượng đỏ trên cao, có lá me bay vàng đường và có những tàn lá bàng che rợp những mái-hiên, nhưng không có những hàng sấu như Hà Nội. Gia-đình anh nổi-tiếng, hầu như khắp thành-phố này không ai không biết tên. Hãng nước mắm Vạn-Vân không chỉ nổi-tiếng ở Việt-Nam mà là ở cả Đông-Dương. Nhà anh gồm bốn năm gian rộng trên đường vào Chợ Sắt. Thỉnh-thoảng có dịp đi qua trước cửa nhà anh, tôi thường lén nhìn vào, cũng chẳng biết để làm gì.
Trong óc tưởng-tượng của tôi, đôi khi tôi nghĩ đến một ngày nào đó sẽ được thấy chị Đoàn-Chuẩn. Qua những bản nhạc của anh, qua cung cách sống của anh, tôi hình-dung ra một thiếu-phụ rất hiền rất đẹp, da trắng như trứng gà bóc, vận chiếc áo dài bằng nhung xanh (màu xanh vốn là màu của Đoàn-Chuẩn), cổ đeo chiếc khuyên vàng, chân đi đôi hài thêu, đầu vấn tóc trần, có đôi mắt bồ câu đen-lánh. Nhưng quả là tôi chưa thấy bao giờ, cho nên đến bây giờ hình ảnh ấy vẫn còn nguyên vẹn trong tôi.
Sau năm 1954, anh ở lại miền Bắc, tôi ở miền Nam. Tôi có nhiều dịp để tìm-hiểu về anh và những nghệ-sĩ còn ở lại miền Bắc. Nhưng về anh thì tuyệt vô âm tín. Những nghệ sĩ như Văn-Cao, Tô-Vũ còn thấy sang-tác, còn tham-gia hoạt-động ở một số cơ-quan. Song Đoàn-Chuẩn thì vẫn yên-lặng. Thỉnh-thoảng nghe lại những bản nhạc của anh, tôi thực sự thấy lòng nao-nao. Gửi gió cho mây ngàn bay, Thu quyến-rũ, Tà áo xanh, Tình nghệ-sĩ... đều là những tác-phẩm bất-hủ.
Tôi phát-biểu ở đây một nhận-định rất riêng-tư, một so-sánh đầy cảm-tính. Nếu nhạc của cố-nhạc-sĩ Văn-Cao có vẻ "thanh-cao", lời lẽ rất văn-hoa, bay như cánh chim trong khung-trời hoa-thơm cỏ-lạ đến tận Thiên-Thai thì nhạc của cố-nhạc-sĩ Đoàn-Chuẩn lời-lẽ bình-dị, không bay-bổng nhưng thấm-sâu, rất sâu, hầu như bài nào cũng là nỗi nuối-tiếc, đau-đớn của con người thật đang sống. Có cảm-tưởng như nỗi-đau ở trước mặt, có thể sờ thấy, có thể cảm-nhận, nó quanh-quẩn đâu đó như một phần cơ-thể của chính mình. Có lẽ tôi không cần phải kể ra đây những lời ca ấy. Nó gần-gụi với người nghe lắm, như một lời tâm-tình giản-dị mang xuyên-suốt một tình-yêu tuyệt-vọng với hình-bóng thân-thuộc của quá-khứ đã tàn rồi nhưng không bao giờ phai...”
Có nhiều người nói nhạc của Đoàn-Chuẩn & Từ-Linh không theo một qui-luật nào về sáng-tác cả. Trong một bản nhạc, các câu-nhạc (membe de phrase) khi dài hay khi ngắn, không theo Luật Cân-Phương (carrure) để cho cân-đối, vững-chắc. Nhưng chính vì vậy, nhạc của Đoàn-Chuẩn & Từ-Linh về mùa Thu mới khắc-khoải, lạ-lùng. Ta thấy hình-như Đoàn-Chuẩn & Từ-Linh dễ soạn lời bản nhạc, tạo thành những tác-phẩm có lời-ca (musique de chant) hấp-dẫn.
Anh mong-chờ mùa Thu
Dìu thế-nhân dần vào chốn thiên-thai
Và cánh chim ngập-ngừng không muốn bay
Mùa Thu quyến-rũ anh rồi…
Nhưng thật ra, ông đã sửa-chữa, gọt-dũa từng chi-tiết nhỏ, để gửi gấm ngôn-ngữ của tình-cảm (langage du sentiment) đến cho chúng ta. Đến nay, đã khoảng bẩy mươi mùa Thu đi qua, nhạc của ông vẫn bay-bổng trong lòng chúng ta, dù là bất-cứ ai, và ở bất-cứ nơi nào.
Hà-Việt-Hùng
Mùa Thu 2014