Sơ Lược về chữ MỆNH trong Truyện Kiều
I. Truyện Kiều
Truyện Kiều là một trường thi với 3254 câu theo thể Lục/Bát; mặc dù là một tác phẩm kể lại cuộc đời đầy những gian truân, khổ hạnh của một giai nhân tài hoa, song lại là một thi tập mang tính luận đề hơn là một tiểu thuyết xã hội.
Lúc đầu có tên là Đoạn Trường Tân Thanh, dựa vào Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ở Trung Hoa; dầu vậy, trên một phương diện nào đó, có thể nói thi hào Nguyễn Du đã sáng tác ra thiên tình sử này, vì các nhân vật đã được tác giả chuyển hóa cái nhìn và kinh nghiệm từ nếp sống của người dân Việt. Những cảm hứng để dựng nên một cấu trúc cho câu chuyện khởi từ tâm đạo và nhân bản, đã làm cho Truyện Kiều trở thành một tuyệt tác phẩm, một gia sản độc đáo vô cùng giá trị không chỉ trong Văn Học Việt Nam mà cả trên văn đàn thế giới nói chung.
Nguyễn Du đã dựa vào một truyện lỡ làng duyên tình mà để lại cho đời một tác phẩm đượm hồn dân tộc và hầu như mọi người dân Việt đã đón nhận như một ý hướng của cuộc sống. Riêng trong lãnh vực văn chương Truyện Kiều như một bản trường ca, nước mắt, nụ cười, và cuộc đời hòa trộn với nhau.
Phê bình và đánh giá tác phẩm để đời này, học giả Phạm Quỳnh đã đưa ra một nhận định thật chí lý: “Truyện Kiều còn, tiếng Việt còn, Tiếng Việt còn thì nước Việt còn.”
Về giá trị, người ta có thể nhìn từ hai góc độ:
- Giá trị nội dung:
- Đề cao tình yêu tự do và thủy chung trong xã hội Phong Kiến
- Khát vọng công lý (Từ Hải, anh hùng chống lại xã hội Phong Kiến)
- Ngợi ca nhân phẩm (Thúy Kiều trung, hiếu, vị tha)
- Giá trị nghệ thuật: Nghệ thuật cao, phong phú (cách dụng ngữ), một đóng góp giá trị và ý nghĩa mang tính thời đại.
- Thể loại: Thơ Lục Bát, một đặc điểm của thi ca Việt Nam.
- Ngôn từ: xúc tích, độc đáo, vượt thời gian:
- Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
- Mây thua nước tó tuyêt nhường mầu da
- Con oanh học nói trên cành mỉa mai... - Mô tả nhân vật: người nào tác phong nấy.
- Bố cục: hợp tình hợp lý
- Dấu chấm câu:
- Nói về cuộc gặp gỡ vô hình với vong linh Đạm Tiên thì ngậm ngùi, xót thương, với dấu chấm than (!)
- Nói đến lần gặp gỡ hữu hình cùng chàng Kim thì phân vân, băn khoăn, lo lắng, với dấu chấm hỏi (?)
II. Xuất hiện của tác phẩm.
Theo sử liệu thì Truyện Kiều do Phạm Qúy Thích cho in vào khoảng 1820-1825, và học giả Trương Vĩnh Ký phiên âm vào năm 1875 (bản Quốc ngữ cũ).
Có giả thuyết cho rằng nguyên bản do cụ Nguyễn Du sáng tác sau khi đi sứ nhà Thanh bên Tầu vào khoảng 1814-1820; lại có giả thuyết cho rằng Truyện Kiều được viết ra trước đó, khi tác giả đang là Cai Bạ ở Quảng Bình khoảng 1804-1809. Tóm lại Truện Kiều xuất hiện vào đầu thế kỷ 19.
Ngoài ra theo trong Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên I của Phạm Thế Ngũ (Chương IV, trang 353, Quốc Học Tùng Thư) thì cụ Nguyễn Văn Tố tìm được cuốn sách Kim Vân Kiều Án của tác giả Nguyễn Văn Thắng, xấp xỉ đồng thời với Nguyễn Du. Trong bài tựa của sách viết: “Xưa nhà Ngũ Văn Lâu bên Tầu in bản Thực Lục đã lưu hành khắp chỗ từ trước đến nay. Kịp đến quan Đông Các nước ta phụ diễn ra quốc âm truyền bá rộng ở đời, nhiều người được tai nghe mắt thấy…”
Như vậy Truyện Kim Vân Kiều chắc là cuốn Thực lục nói trên đã lưu hành ở nước ta từ lâu, trước cả Truyện Kiều của Nguyễn Du ra đời, tức là trước khi Nguyễn Du đi sứ (1813)
III. Ảnh Hưởng
Truyện Kiều xuất hiện sớm hay muộn, trước hay sau khi tác giả đi sứ về tuy cũng là một vấn đề song với một tác phẩm lớn như thế tất nhiên không thể không có một giá trị cao, một ảnh hưởng sâu rộng, không chỉ về địa hạt văn chương, nghệ thuật mà còn cả trên phương diện tinh thần mang đầy tính nhân bản, và công lý của đời người. Đó mới là chủ đề thiết yếu của đời sống.
Thi hào Nguyễn Du đã tỏ ra rất sáng tạo trong việc gầy dựng tác phảm, nhất là cho một trường thi trên 3000 câu thơ. Truyện Kiều, một thi tập với ngôn ngữ văn chương dân tộc, nói khác đi đó là một công trình nghệ thuật của sự kết hợp tuyệt vời giữa ngôn ngữ bình dân với ngôn ngữ bác học tạo thành những thi từ, một ngôn ngữ nghệ thuật dành cho thi ca.
Suốt chiều dài lịch sử văn học và đời sống người dân Việt, trên quê hương hay hải ngoại, những sinh hoạt trong xã hội, trong dân gian từ hàng thế kỷ qua, Truyện Kiều luôn tồn tại trên nhiều lãnh vực, từ văn nghệ, giáo dục, báo chí, truyền thông đến biên khảo, hội thảo…, Có thể nói đây là một tác phẩm đã đi sâu vào lòng người hơn cả. Người dân thuộc mọi giai tầng xã hội, nhất là tại miền Nam nước Việt, những tháng năm trước 1975, với nếp sống an bình, tự do, từ các em học sinh trong trường đến những người bình dân hầu như ít nhiều gì cũng thuộc mấy câu Kiều và áp dụng nó trong những đối thoại hàng ngày như một hình thức sinh hoạt văn hóa trong đời sống gia đình cũng như trong cộng đồng.
Đặc biệt là ngay tên của các nhân vật trong tuyện cũng thường được đem ra áp dụng với ý nghĩa tương tự người ta muốn ám chỉ, ví như: Tú Bà (mụ Tú Bà), Sở Khanh (chàng Sở Khanh), Thúc sinh, Hoạn Thư (máu Hoạn Thư) ,Từ hải (chết đứng như Từ Hải), sông Tiền Đường, Thanh Lâu (gái lầu xanh) v.v.”
IV. Chữ “Mệnh” Trong truyện Kiều, chữ “Mệnh” như được nhắc tới, ít ra là khoảng 12 lần:
Ngay khi vào truyện thi hào Nguyễn Du đã mở đầu ở câu thứ hai như để giới thiệu luận đề của tác giả TÀI MỆNH TƯƠNG ĐỐ.
Trăm năm trong cõi người ta
chữ ‘tài’ chữ ‘mệnh’ khéo là ghét nhau. (2)
thế rồi tiếp theo khi giới thiệu nhân vật chính trong truyện, Vương Thúy Kiều, ngoài dung nhan sắc nước hương trời, tài nghệ của nàng trong ngón đàn như đã ươm trầm cung ‘Mệnh’ qua khúc “Bạc Mệnh Oán”
- Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân (34)
Trước mả Đạm Tiên, sau khi nghe người em trai là Vương Quan nói về lai lịch của người ca nhi bạc phận ấy, Kiều đã xúc động, xụt xùi, cảm thương, than lên như một ám ảnh:
- Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung (84)
thấy vậy cô em là Thúy Vân có ý trách yêu người chị đa cảm của mình khéo vơ sầu não vào thân làm chi, Kiều lại thở than phân trần với em:
- Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu (108)
Khi Kiều đàn cho người tình là Kim Trọng nghe, những ưu tư , băn khoăn trong cuộc sống làm cho cô gái xuân thì không khỏi bồn chồn, âu lo, và lời đoán mệnh của thấy tướng số vẫn luôn ám ảnh:
- Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa (416)
Biết mình ‘phận mỏng cách chuồn’ cuộc đời lưu lạc nay đây mai đó ‘biết ra sao ngày sau’ nên Kiều đã nhờ em gái mình gá nghĩa cùng chàng Kim thay mình, nàng nhắn nhủ cùng em:
- Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên (738)
Và rồi khi bị người của Hoạn Thư sai đi bắt cóc rồì đốt nhà tạo ra sự việc như Kiều đã bị chết cháy trong đó, cũng vẫn chữ ‘mệnh’ quy về cho Kiều một cách đáng thương:
- Mệnh cung đang mắc nạn to (1695)
Khi Hoạn Thư đọc tờ trình của Kiều, Thúc sinh với sự nghẹn ngào được che dấu, tiếp lời bâng quơ:
- hồng nhan bạc mệnh một người nào vay.(1906)
Thường mỗi khi gặp hoạn nạn, con người mới cầu cứu đến thần linh nên trường hợp Thúy Kiều cũng không ngoại lệ. Cuối cùng nàng cũng đã đến nương nhờ cửa từ bi mong hóa giải nghiệp đời hồng nhan
- Rắp đem mệnh bạc nương nhờ cửa Không (1910)
Thế rồi kịp đến khi Hồ Tôn Hiến lợi dụng Kiều như một mỹ nhân kế để chiêu dụ được Từ Hải vào tuyệt lộ, sau đó ép Kiều đánh đàn hầu rượu. Khúc đàn đầy ai oán và khi bị lục vấn, Kiều đã trả lời:
- Thưa rằng bạc mệnh khúc này (2575)
- phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ
- cung cầm lựa những ngày xưa
- mà gương bạc mệnh bây giờ là đây (2578)
Cuối cùng khi cả nhà đoàn viên, chữ mệnh cũng còn được nhắc đến như một thông điệp cho cuộc sống con người và cũng như là kết thúc cho một luận đề mang tính xã hội và nghiệp dĩ – gian nan, thử thách như là một cặp song sinh của tài và sắc.
- Có đâu thiên vị người nào
- chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai.
V. Chữ Mệnh:
Theo trong Việt Nam Tự Điển của Ban Văn Học Hội Khai Trí Tiến Đức thì:
Tài: cái giỏi của con người
Mệnh: cái tự trời định mà phú cho ta.
Nếu nói “Tài mệnh tương đố” e rằng thiếu tính phổ quát và kiểm chứng bởi
thông thường thì người tài được trọng dụng và người đẹp dễ dàng có một đời sống sung túc, sang trọng:
Cô gái Kim Luông đẹp mỹ miều
Trẫm thương trẫm nhớ trẫm liều trẫm đi.
Về chữ ‘Mệnh’ mang ý hướng thiên về thần quyền là quyền uy siêu nhiên vì thế lý luận về ‘Thần’ thiết tưởng nên nhớ lại chuyện St. Thomas D’Aquin khi Ngài dạo
chơi trên bờ biển bắt gặp chú bé đang dùng vỏ hến múc nước biển đổ vào một cái lỗ trên bãi biển bèn nói thật là khờ dại! Cậu bé nghe vậy trả lời không điên rồ như việc Ngài đang phí sức tìm hiểu bản thể của trời, cái mà bất khả luận, bất khả tri. Thần thuộc phạm trù siêu hình học.
Chữ “Mệnh” giữ vai trò then chốt trong truyện Kiều bởi bố cục của câu truyện từ luận lý đến diễn đạt các tiểu tiết đều quy về chủ đề “Định Mệnh”
Vào truyện thi hào Nguyễn Du đề cập đến chữ “Mệnh” với mầu sắc bi quan mở đầu cho luận đề “Tài Mệnh Tương Đố”
- Trăm năm trong cõi người ta
- chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Phải chăng tác giả muồn đưa ra một mâu thuẫn bi đát gần như phi lý không thể hiểu và cũng không thể giải quyết được tựa như trong tích truyện Oedipus hoặc trong huyền thoại Sisyphus, chỉ còn là “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.”
Nếu thế thì luận đề trên sẽ đi đến chỗ bế tắc vì như vậy những kẻ vô tài bất tướng lại luôn được may mắn, hạnh phúc sao?
Luận đề Tố Như Tiên Sinh đưa ra không đơn giản như thế mà còn ngụ ý rằng những kẻ cho tài là bản thể của con người mà quên đi chính hữu thể mới gặp nạn, mà nạn lớn nhất là mất bản tính của con người:
- Có tài mà cậy chi tài
- chữ tài liền với chữ tai một vần.
Điều muốn nói ở đây chính là định mệnh như một lịch sử hiện sinh; theo triết gia người Đức, Martin Heidegger, nhờ vào việc quy nguyên, trở lại với chính mình, con người mới là chính lịch sử của mình. Đó là lúc nàng Kiều phát hiện ra định mệnh, nàng không né tránh mà chấp nhận như là một sử mệnh của mình:
- Ngẫm hay muôn sự tại trời
- Trời kia đã bắt làm người có thân
- bắt phong trần phải phong trần
- cho thanh cao mới được phần thanh cao
Những luận cứ mà cụ Nguyễn Du đưa ra ở phần đầu câu truyện hẳn không là luận đề mà cụ muốn khai triển, song ngược lại, cụ cho rằng tâm thành mới là nguyên động lực cho sử mệnh hiểu như là định mệnh con người:
- Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Hiểu như thế để thấy rằng từ thiên mệnh đến định mệnh không là một biến chuyển đương nhiên mà còn đòi hỏi sự biến đổi do chính hữu thể.
Chữ “Tâm” mà tác giả dùng ở đây thiết nghĩ không phải là sự đo lường giá trị bằng ba hay lớn gấp ba chữ “Tài”, mà là tổng hợp của “Tam Tài” (Thiên, Địa, Nhân). Chữ “Tâm” là dấu ấn của con người toàn thể tính, bởi sô 3 (ba) tượng trưng toàn thể tính của vũ trụ cũng như đa tính của con người (Nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật.) Thực ra đây có thể nói là một tổng hợp mang tính biện chứng hơn là một sự biến đổi.
Thế rồi một khi đã coi định mệnh như là sử mệnh thì khi đã mang thân phận con người không rời bỏ cái “Nghiệp” mà phải luôn hướng tới tương lai, nhìn về phía trước và hữu thể tự khai lối mở đường. Tương lai chính là động lực hướng dẫn định mệnh.
Nói tóm lại con người phải luôn phấn đấu để hoàn thiện cho một ngày mai. Định mệnh và tâm thành gặp nhau ở toàn vẹn của hữu thể. Ở điểm này có thể nói con người cần nhận biết sứ mệnh để hoàn thành sử mệnh của mình.
Với thi hào Nguyễn Du “Văn dĩ tải đạo” là một sứ mệnh hoàn thành sử mệnh, tác giả muốn đem ra áp dụng với niềm mong ước đánh thức những con người tha hóa trở về với con người nhân bản.
Quan niệm về định mệnh của Tố Như Tiên Sinh trong truyện Kiều, một lối suy tư Siệu Việt Biện Chứng trong tư tưởng tác giả có thể nói qua ba giai đoạn:
- Trước hết tác giả coi thiên mệnh như chủ điểm trong thân phận con người, đặc biệt là người tài hoa.
- Kế đến tác giả nhận ra thiên mệnh như là một định mệnh, giai đoạn chuyển hóa từ ngoại tại trở về nội tại.
- Sau cùng là giai đoạn cụ Nguyễn Du nhận ra con người với chữ ‘tâm’ là nguyên động lực cho sử mệnh, con người là gạch nối giữa trời và đất.
VI. Phần kết
Những tháng năm phiêu du trong cuộc tình, bao nhiêu xao xuyến, băn khoăn, và ước mơ về tình duyên, về cuộc sống hội tụ, bâng khuâng trên dòng sống mênh mang của kiếp người, từ đó cũng bao nhiêu là lời than dâu bể. Cuộc hành trình của con người ngang qua những vì sao chiếu mệnh ‘Tài’ và ‘Nghiệp’ dưới bầu trời Phong Kiến. Chính xã hội ấy đã xô đẩy khách hồng nhan đến khốn cùng thân phận. Trời đất bao la mà không dung nổi người hồng nhan. Chế độ Phong Kiến rất kỵ cái ‘Tài’; có tài không những bị nhà vua bắt mà có khi còn bị hại.
Với Thúy Kiều chưa nói đến cái tài của nàng, chỉ với cái tình cũng đã là điều khốn khổ trong xã hội đó rồi. Điều mà xã hội Phong Kiến tất nhiên lên án là Kiều dám yêu trước khi được xã hội cho phép.
Nhà thơ trữ tình Chu Mạnh Trinh cũng đã nói lên:
“Chỉ vì một tội mối manh chưa có
thề thốt đã nhiều
trăng gió mắc vào
phồn hoa dính mãi
tài mà không được gặp gỡ
tình mà không được hả hê…
Nếu hiểu tài là một giá trị thực tại, là tài năng thì cái chết của Từ Hải mới là “Tài Mệnh Tương Đố”; nếu tài là tài hoa “Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa” thì Kim Trọng “Nền phú hậu bậc tài danh” sao không bị luật này chi phối. Hơn nữa có tài chưa hẳn đã là điều xấu, bởi nhờ tài làm thơ mà Kiều được tha cho ra ở Quan Âm Các.
Số mệnh là một thực thể siêu hình và định mệnh lại được coi như là một thảm trạng gắn liền với thân phận con người. Đúng ra là một bi kịch giữa con người với nhau, kẻ này muốn khống chế người khác, muốn chiếm đoạt kẻ yếu thế v.v.
Từ đó cho ta ý nghĩ đôi khi cái nhân mệnh lại có phần bi đát, khốc liệt hơn thiên mệnh.
Sông Tiền Đường không hẳn là giải pháp cuối cùng cho sự giải thoát cuộc đời; nếu như truyện kết thúc khi Kiều gieo mình xuống dòng sông oan nghiệt ấy thì có lẽ Nguyễn Du cũng chỉ là một nhà thơ của định mệnh, của thân phận con người trần thế như Shakespeare chẳng hạn; điều khác biệt ở đây là cái thống khổ mà tác giả Đoạn Trường Tân Thanh muốn khai triển không hẳn là cái bế tắc, tuyệt lộ. Nàng Kiều của Nguyễn Du với một định mệnh khắt khe như thế song đã nhờ yếu tố mà Friedrich Nietzche, triết gia người Đức gọi là “Ý Lực”, nàng đã tìm mọi cách để uốn dòng định mệnh, thực hành đạo nhân – bán mình chuộc cha, chịu đựng gian khổ để tròn chữ hiếu; với chàng Kim, Kiều giữ chữ trung; với những người yêu đến với nàng (Thúc Sinh, Từ Hải…) Kiều đã thành tâm; nhân từ ngay cả với kẻ đã hại mình như Hoạn Thư; đồng cảm với những ai cùng cảnh ngộ “đồng hội đồng thuyền” nên “Tâm thành đã thấu đến trời.”
Có lẽ điểm thiết tưởng cũng nên nói thêm ở đây là Thi hào Nguyễn Du trước cái định mệnh oái oăm của đời người đã không qúa phẫn uất mà chỉ “đau đớn lòng” cũng chẳng như Cao Bá Quát, mạt sát kiếp người:
- Ba hồi trống giục mồ cha kiếp
- một lát gươm đưa bỏ mẹ đời!
mà an phận, chấp nhận “Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”, một chấp nhận không dựa trên luận lý nhân qủa. Kiều thương cảm Đạm Tiên, người mà Kiều coi như “đồng hội đồng thuyền”, nhưng nếu cho rằng trường hợp của Kiều là một sự tái diễn của Đạm Tiên hoặc của bất cứ một khách hồng nhan tài hoa nào khác thì như đã chối bỏ tính cá biệt nơi con người của Kiều. Kiều là Kiềiu, không là một ai khác, và như vậy, Kiều là một sự tái hiện trong một tình huống khác, từ đó hữu thể của KIều là một hữu thể riêng biệt, có thể nói là đồng tính nhưng không phải là đồng nhất (unity).
Chối bỏ quyền đặt định một chiều của Hóa Công (thần quyền) là vận dụng quy luật “Vạn vật tương quan và hỗ tương ảnh hưởng”. Đất, nước, gió mưa diễn tiến vô tình nhưng qua sự biến cải của con người sẽ trở nên hữu ích thành những gì vui, đẹp, có khi thần tiên. Gió thổi phất phơ cho ta tiếng sáo diều vi vu dưới trăng thanh; có khi còn lãng mạn một chút:
- Gió vào ve vuốt má đào
- Má đào quyện gió, lối nào gió ra?
Trong tác phẩm “Nguyễn Du, Đại Thi Hào Dân Tộc”. Triết lý về chữ ‘lòng’ và ‘tơ’, Tác giả Phạm Công Thiện cho rằng: “Có ‘tính mệnh’ nào lại không liên hệ với ‘định mệnh’? Có ‘sử mệnh’ nào không dính líu với’nhân bản’?Có ‘sinh mệnh’ nào không liên kết với ‘tam tài’, ‘âm dương’ và ‘ngũ hành’? Có ‘thể mệnh’ nào không liên hệ chặt chẽ với ‘tâm linh’ và ‘siêu việt thể’?
Vương Thúy Kiều cảm thương ca nhi xấu số Đạm Tiên, Tố Như Tiên Sinh viết truyện Thúy Kiều. Người đời nay cảm thương người đời trước, và rồi người đời sau lại thương người đời nay, niềm thương cảm ấy âu cũng quẩn quanh hai chữ Tài-Tình, qủa thật như là một thông lụy trong chốn giai nhân tài tử xưa và nay dưới khung trời bao la của xã hội loài người vậy.
trường thy
Tài liệu tham khảo:
- Tố Như & Đoạn Trường Tân Thanh (Trần Ngọc Ninh)
- Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên I (Phạm Thế Ngũ)
- Chữ Mệnh Trong Truyện Kiều…(Thụy Sơn Trần Văn Đoàn)
- Tư Tưởng Tài Mệnh Trong Truyện Kiều (Thanh Tâm)
8