Thách Thức Dạy Con Việt Trên Đất Mỹ
Nghề tôi không phải là nghề giáo dục trong trường lớp. Là bác sĩ nhi khoa, tôi phải hướng dẫn phụ huynh nhiều mặt. Một trong những mặt đó là giúp họ đối phó với những vấn đề nuôi nấng con cái, từng đứa một, theo từng hoàn cảnh. Tôi cố gắng chia sẻ với họ những gì tôi quan tâm và tìm hiểu. Với một số kinh nghiệm bản thân, tôi nghĩ giáo dục con cái là một việc làm khó, dù ở đâu. Tuy vậy có những đặc điểm, thách thức riêng của người nuôi con trên đất Mỹ:
(1) Điểm quan trọng nhất là chúng ta mất đi hậu thuẩn của cộng đồng rộng lớn mà chúng ta từng có lúc chúng ta chưa trở thành một nhóm "sắc tộc", thiểu số (ethnic minority) trong một thực thể to lớn và đa dạng như nước Mỹ
Lúc ở Việt nam, không phải ai trong chúng ta cũng ý thức rằng chúng ta phải dạy dỗ con cái một cách tích cực. Phần đông cha mẹ không có thì giờ và phương tiện hay trình độ để mỗi ngày dạy con những điều đứa bé phải biết, nhất là về đạo đức, luân lý. Trật tự xã hội chúng ta xếp hạng "sư" chỉ sau vua, và trước “phụ” (cha), còn mẹ thì chưa thấy nhắc tới, vì thường phụ nữ ngày xưa ít được đi học. Sau này, trong thời chiến tranh, phụ nữ đi dạy học rất đông, nhưng đây là vai trò với tư cách "sư" hơn là "mẫu". Trong mấy chục năm thời chiến tranh trước 1975, đại đa số người cha đều vắng nhà gần như quanh năm; chỉ một số ít công chức sau ngày làm việc ở nhà thường xuyên, và trong số đó tương đối ít người cha đối thoại với con cái. Trong xã hội đó, chúng ta ít khi tạo cơ hội cho trẻ có ý kiến; điểm chính là bé ngoan, vâng lời.
Tuy nhiên, xã hội thời đó là một xã hội có những tiêu chuẩn xã hội và giá trị đạo đức được đa số xã hội chấp nhận. Phần lớn, các giá trị này được ông bà dạy từ lúc còn nhỏ, đi học thì được dạy trong các bài ở tiểu học về luân lý. Tôi còn nhớ lúc học ở trường tiểu học Thanh long ở Huế vào những năm 1950's, luôn luôn có một câu châm ngôn trên bảng đen như ‘Tiên học lễ, hậu học văn’ hay câu ca dao như ‘Bầu ơi thương lấy bí cùng...’ Hầu như ai cũng chấp nhận những giá trị luân lý đó vì chúng ta tin rằng chúng ta cùng một nòi giống và chấp nhận những giá trị chung. Những giá trị này tiêu biểu cho những giá trị dân tộc, truyền thống như trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư, Luân Lý Giáo Khoa Thư thời thuộc địa Pháp.
Sau này, ví dụ chúng ta có cuốn Tâm Hồn Cao Thượng, do Hà mai Anh dịch của tác giả người Ý (do Edmondo De Amicis viết năm 1886, sau khi nước Ý vừa thống nhất; nguyên bản là Cuore, ngày xưa tiếng Pháp do Adrienne Piazzi dịch là Grands Coeurs (1892), nay là Le Livre-Coeur). Tuy là sách ngoại quốc, nói về một trẻ con người Ý và có chủ ý đề cao sự thống nhất của nước Ý là một nước khá xa lạ đối với chúng ta, giới phụ huynh cũng như học sinh những thế hệ giữa thế kỷ thứ 20 vẫn mê cuốn sách này, vì hầu như ai cũng cho rằng lòng yêu nước, tình yêu thương cha mẹ, lòng biết ơn của người con, tình bạn, tánh khiêm nhường, không khoe khoang đều là những giá trị xã hội đáng trân trọng.
Những sách như Cổ học tinh hoa, hay mới hơn những "Sách Hồng" (như “Ông Đồ Bể” của Khái Hưng , chuyện ông đồ thà thi rớt chứ không chịu cầu xin để thi đỗ; “Cái Ấm Đất”, chuyện cậu bé nghèo mà vui, sống trong sạch) đều đề cao những giá trị tương tự, hầu như được toàn xã hội chấp nhận. Đứa trẻ dù có nổi loạn, không chịu vâng lời cũng cảm thấy áy náy, vì lương tâm của nó cắn rứt.
(2) Thứ hai, chúng ta đang sống trong một môi trường tự do, ở đó quyền của trẻ em cũng quan trọng không kém gì người lớn.
Có những chuyện như dạy dỗ bằng hình phạt thân thể (corporal punishment) kiểu "thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi" không còn thích hợp nữa. Hay một câu tục ngữ khác của chúng ta : "Cá không ăn muối cá ương, con cãi cha mẹ trăm đường con hư" cũng không còn áp dụng cho xã hội này được nữa. Không riêng gì xã hội cũ của Việt Nam, mà trong Thánh kinh cũng có câu: “Kẻ nào không dùng roi vọt là kẻ ghét đứa bé, nhưng kẻ nào thương yêu con mình thì phải lo kỷ luật chúng" ("Whoever spares the rod hates their children, but the one who loves their children is careful to discipline them." (Proverb 13.24)). Theo Hàn Lâm Viện Nhi khoa Hoa Kỳ (AAP), 90% gia đình Mỹ từng đánh đít trẻ con (spanking, chỉ tát vào mông, không chủ tâm gây thương tích); tuy nhiên “spanking” ít hiệu nghiệm hơn là phạt cho đứng một góc (time-out) hay tạm cúp một quyền lợi nào đó (removal of privileges)(Guidance for effective discipline, AAP, 1998)
Cũng nên biết rằng ở Mỹ, còn chừng 20 tiểu bang vẫn cho phép dùng roi hay đánh đit các học trò vi phạm kỷ luật. Nói môt cách khác dùng "vương đạo" để giáo dục (dùng đức, như làm gương tốt, dùng lời lẽ thuyết phục trẻ em) chắc chắn là khó hơn “bá đạo” (dùng vị thế của người lớn, dùng sức mạnh.)
(3) Chúng ta có nhiều lựa chọn hơn trước và nhiều tham vọng hơn trước.
Ngày xưa nói đến đi học, chỉ có cách học chữ Nho và đạo Nho của Khổng Tử, đỗ đạt thì được “tiến” và “cử”, thành tiến sĩ hay ít lắm cử nhân thì được trở thành vừa trí thức, vừa khoa bảng, vừa là quan chức có quyền lực. Giáo dục của người chồng giải quyết luôn mọi vấn đề cho người vợ, cha mẹ mình lúc được vinh quy bái tổ. Như trong câu cao dao chúng ta : "Anh về anh học chữ Nhu, Chín trăng em đợi, mười thu thu em chờ".
Bây giờ thì khác, như trong bài hát "Que sera, sera" Doris Day hát: " Lớn lên con có đẹp không, có giàu không ? Thành hoạ sĩ không? Con có thành ca sĩ không? (" Will I be pretty, will I be rich? ...will I paint pictures? will I sing songs ?". Đứa trẻ được khuyến khích "Hãy mơ đi con, bầu trời cao là giới hạn của giấc mơ" (The sky's the limit) hoặc "Chúng ta chỉ bị giới hạn bởi tầm cở của những mơ ước của chúng ta" (We are limited only by the size of our dreams). Và cha mẹ cũng mơ theo, nhất là giới trung lưu muốn thăng tiến trong xã hội, phụ huynh rất bận rộn lo nào là lớp đàn, lớp bơi, lớp đá banh, ballet, trượt tuyết, chưa kể lới giáo lý, lớp tiếng Việt, vân vân…
Không riêng gì ở Mỹ với "The American Dream" mà ngay ở Trung quốc đang giàu lên sau bao nhiêu năm đổ mồ hôi hầu hạ cho thế giới phương Tây, nay cũng có "giấc mơ Trung Quốc' (Trung Quốc Mộng; hay Chinese Dream, của Tập Cận Bình [(Xi Jinping]).
(4) Nói về tham vọng, cũng nên nêu ở đây một điểm làm nhiều cha mẹ thất vọng không ít. Chúng ta quen với một xã hội trong đó nhiều thế hệ cọng tác với nhau. Chữ hiếu được nhắc đi nhắc lại từ lúc người con còn nhỏ: "Trai thời trung hiếu làm đầu". Dù cha mẹ quên mình bao nhiêu đi nữa để đưa con cái tiến lên, giúp chúng thực hiện giấc mơ mà chính mình chưa đạt được ("hy sinh đời bố, củng cố đời con"), không ít thì nhiều người cha mẹ cũng mong đợi được chia sẻ kết quả của thành đạt đó. Họ mong đợi một thái độ biết ơn từ con cái, dù người con không hy sinh cho cha mẹ thì ít lắm cũng quan tâm, ý thức trách nhiệm lúc cha mẹ già gọi là "trả hiếu". Tuy nhiên, do đời sống xã hội Mỹ (mà có lẽ Việt Nam hay Trung Hoa hiện nay cũng vậy) người trẻ bận rộn trong việc đeo đuổi giấc mơ cá nhân của họ và giới hạn trách nhiệm trong "tiểu gia đình" (nuclear family) mình là chính. Người già có thể cảm thấy chua chát, bị phản bội, bỏ rơi và do đó có thái độ hằn học với con cái.
Tóm lại, đối với phụ huynh nuôi con ở Mỹ, những thách đố chính lại nằm trong sự tự do mà chúng ta từng trả một giá rất đắt mới đạt được. Tự do xây lại cuộc đời ở một nơi mới, với ít nhiều vốn liếng đem theo từ quê cũ cần gạn lọc lại và tự do của con cái chúng ta mà chúng ta phải chấp nhận và tôn trọng. Đồng thời cũng sự tự do ấy có khả năng mở cho chúng ta và con cái chúng ta đến những chân trời mới mà từ trước chúng ta chưa bào giờ dám mơ ước.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền
(Phỏng theo một câu trả lời trong một cuộc nói chuyện trên đài Saigon-Houston (Texas) trong chương trình Văn Hoá Việt với Ý Linh, ngày 26 tháng 3 năm 2015)
Hình #1 trích từ Quốc Văn Giáo Khoa Thư, lớp dự bị.