Tự Hào Là Người Việt?
Phần 1
1. Những "sắc thái "khác nhau của tự hào:
Chúng ta cũng nên phân tích từ "tự hào" , và sau đó thế nào là người Việt, nếu chúng ta muốn đi xa hơn là trả lời "có" hay "không" cho câu hỏi. Có lẽ từ này làm tôi nhớ nghe đầu tiên hồi 30 tháng tư,1975 trong một bài hát của chính quyền mới ca tụng thành phố Sài gòn mới bị đổi tên.
Mình thì từng sống ở Sài gòn bao nhiêu năm, cũng biết là trước đó tây gọi thành phố này là "Hòn Ngọc Viễn Đông", cũng thích Sài Gòn lắm và cũng bực nhiều chuyện lắm như rác rưới, bị pháo kích, vv, nhưng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện tự hào. Nếu có, chúng ta có lẽ nói là chữ "hãnh diện" chứ không dùng chữ "tự hào". Chữ "tự hào" đã đi vào ngôn ngữ hồi nào không biết. Tôi còn nhớ cách đây mấy năm tôi có xem video Paris by Night hình như trong đó nhiều người cũng tự hào là người Việt.
Trong những Tự điển khá xưa, khoảng thập niên 1930, mà tôi có thể tham khảo, tôi không thấy nhắc tới chữ "tự hào" trong Tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, cũng như Hán Việt Thành Ngữ của Bửu Cân (1933, in lại 1971 do Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hoá, Sài Gòn).Trong cuốn sau: “hào” được dịch nghĩa tiếng Pháp là "brave" (can đảm), magnanime (rộng lượng), vaillant (dũng cảm) , valeureux (can đảm).
Tự điển Trần văn Kiệm dịch "hào" (như trong "hào khí") có nghĩa là "hăng hái". Tự điển Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ: Tự hào= đắc ý về một công trình của mình . Đại từ điển tiếng Việt (Hanoi, 1999): "lấy làm hãnh diện một cách chính đáng về cái tốt đẹp mà mình có".
Vì chúng ta là những người sống ngoài Việt Nam, trong môi trường đa ngôn ngữ. không ít thì nhiều chúng ta đều dịch mỗi ngày, có khi mỗi câu nói. Tôi nghĩ chúng ta dùng từ tự hào nhiều hơn trước vì chúng ta ở trong một xứ mà hiện nay vấn đề đa dạng văn hoá (cultural diversity) là một vấn đề thời thượng, phù hợp với đường lối chính trị dòng chính (politically correct, PC). Người ta muốn tránh cảm giác bị thiệt thòi về phía các cộng đồng không phải da trắng, đàn ông, tin lành (WASP: White, Anglo-Saxon, Protestant) và heterosexual. Cho nên nhiều thứ pride lắm: Black Pride, là một phong trào (movement) tranh đấu gắn liền với phong trào dân quyền của người Mỹ da đen, để "tôn vinh di sản và tự trọng cá nhân" (to celebrate heritage and individual pride) (James Brown với bài hát “Say it loud- I'm Black and I am Proud”), gay pride, LGBT pride (lesbian, gay, bisexual, transvestite), Irish Pride diễu hành ngày Thánh Patrick...Chúng ta thường dịch pride là "tự hào". Nguyễn đình Hoà dịch pride là: niềm hãnh diện, sự kiêu hãnh, lòng tự ái (vd false pride), tính tự cao.
Nếu nói là “tự hào là người Việt”, xin được hiểu theo nghĩa dịch tự hào" ra "self esteem" hay "self respect" ((hình như ở Việt Nam gọi là tự tôn, nhưng nghe không ổn lắm, theo tôi nghĩ tự trọng nghe ít kiêu căng hơn)
Theo tôi nghĩ, lúc người ta nói "gay pride", hay "black pride" ở Mỹ, người ta hiểu theo 2 nghĩa , trong 3 nghĩa Tự điển Webster định nghĩa của pride
(1) Một cảm giác rằng mình tôn trọng chính mình và xứng đáng được người khác tôn trọng mình.
(2) Một cảm giác hạnh phúc lúc mình hay người mình quen biết làm được một việc gì tốt, khó khăn,vv,);
chứ không phải nghĩa
(3) “Một cảm giác rằng mình quan trọng hơn và giỏi hơn người khác”.
Những người Ý phát xít hay Đức quốc xã, KKK cũng tự hào về dòng giống họ nhưng là vị họ hiểu theo nghĩa này nên họ đi ăn hiếp người khác và bị ăn đòn.
Tôi thiển nghĩ: theo PC ("politically correctness") hiện nay thì các nhóm thiểu số dễ thấy mình bị “ăn hiếp” như nhóm đồng tính, "da màu" ở Mỹ, thì có thể dùng "pride" hay "tự hào" vì thiên hạ mặc nhiên hiểu là mình muốn biểu dương lòng tự trọng, hay mình tự ý thức về giá trị của chính mình". Nghĩa là mình không muốn thân phận của người châu Á tiêu biểu bị xem thường, khinh bỉ, ức hiếp bởi người châu Âu đầu thế kỷ thứ 20, như nhân vật Ả Q, nhân vật nổi tiếng của Lỗ Tấn (Lǔ Xùn [1881-1936]; The True Story of Ah Q [1921]) an phận, tự cho mình là là "con giun, con dế" ai muốn giẫm lên đầu cũng được. Người Nhật đô hộ Triều tiên gần nửa thế kỷ, cho dân Triều tiên cùng là gốc Nhật, nhưng phải được đồng hoá theo Nhật vì Nhật là đàn anh, nhưng người Triều tiên từ chối vì tự hào dân tộc, khẳng định ngưồn gốc riêng của mình không phải gốc Nhật. Nay họ mạnh rồi thì hình như họ phải bớt nhắc đến "tự hào dân tộc" (Korean nationalism) hay tự ái dân tộc vì những thiểu số khác cùng sống chung ở đất nước Hàn quốc sẽ thấy bị ăn hiếp và chia rẽ.
2. Có một số người không muốn nhận họ là người Việt?
Theo tôi nghĩ, một số ngườikhông nhận mình là người Việt có nhiều lý do.
1)Thứ nhất việc định nghĩa thế nào là người Việt. Lúc chúng ta còn ở Việt Nam, chuyện này tương đối dễ, vì chúng ta là những người kinh nói chuyện với nhau. Thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, người Trung Hoa phải phiên âm tên ra tiếng Việt và nhập quốc tịch Việt mới đuợc làm một số nghề. Hay những người Chàm (Chăm, "văn hoá biển", âm nhạc, kiến trúc, ngôn ngữ, nước mắm), người "Thượng" cao nguyên, chưa chắc họ muốn nhận họ là người Việt. Họ có thể thấy họ đứng ngoài "chuyện kể"( national narrative) về lập quốc, nam tiến, của chúng ta. Lúc cuối thập niên 1970, chính quyền mới trục xuất người gốc Hoa ra khỏi nước, thu tiền cho họ đi bán chính thức, có nghĩa người ta không xem họ là người Việt. Những người con lai Pháp, lai Mỹ cũng vậy, cũng bị đẩy ra ngoài xã hội. Một số người này, sau khi đến nước thứ ba, họ lấy họ Trung Hoa (Chan, Wang, Yang vv), Chàm, Pháp, hay Mỹ thì cũng có lý do của họ. Có nghĩa là, có những thời điểm lịch sử, tuỳ hoàn cảnh, thời gian, chúng ta áp dụng tiêu chuẩn kép (double standard): lúc cần người ta (đoàn kết dân tộc) thì gọi người ta là người Việt (dân cư trú, sinh tại VN thì là người Việt, theo luật jus soli, tương tự như Mỹ, sanh tại Mỹ thì đương nhiên có quốc tịch Mỹ) , nhưng lúc thấy mất quyền lợi cho mình thì muốn đẩy người ta ra bằng cách áp dụng tiêu chuẩn huyết thống (jus sanguini).
2) Trường hợp đương sự biết rõ, nghĩ mình là Việt Nam nhưng không nhận công khai tông tích của mình. Những người có thể không hiểu Việt Nam là gì, ở đâu, lịch sử thế nào, văn hoá ra sao. -Trong cộng đồng chúng ta, không khí chính trị hoá cao độ. Nếu may mắn con cái chúng ta hiểu khá được tiếng Việt, chúng ta phần lớn bàn đến những mặt phiến diện của người Việt trong nước. Ngược lại, nếu lên internet đọc báo trong nước thì phần lớn do chính phủ kiểm soát, phần lớn là chuyện "hot", giật gân", giết người cướp của hay tuyên truyền. Nếu người trẻ tìm sách báo tiếng Anh để đọc, tìm hiểu thì đa số các tác giả tiếng Anh lại thiên vị phe tả, có khi nói xấu miền Nam; ít lắm là cho đến gần đây, sau khi lịch sử lắng đọng mấy chục năm, những tài liệu mật được công bố, thì người ta mới thấy sự thật nhiều hơn.
-Tương tự như trong một cuốn phim tôi xem gần đây, lúc cha mẹ gây gổ kinh niên và ly dị, bạn của thiếu niên nhân vật chính hỏi nó: "Bộ gia đình mày lộn xộn quá hả?" Nó trả lời: "Gia đình nào mà lộn xộn? Tao có bao giờ có gia đình nào đâu?" . Giới trẻ chúng ta cũng vậy, nước Việt cha mẹ của họ đem theo trong tâm tư và trên các media lộn xộn, mâu thuẩn quá , mà đối với kiến thức hời hợt của họ xứ sở đó (VN) cũng không mấy gì hay, thì thà lơ đi cho xong chuyện.
-Tôi còn nhớ lâu lắm rồi, có nghiên cứu cho thấy sự kính trọng của dân bản xứ đối với người di dân tỷ lệ thuận với địa vị mà xứ gốc người di dân đạt được trên trường thế giới. Việc này cũng dễ hiểu, mới đây chúng ta thấy thủ tướng Abe được đón tiếp trọng thể ở Washington, lưỡng viện quốc hội Mỹ đứng dậy vỗ tay tán thưởng lúc ông đọc diễn văn, tuy bằng tiếng Mỹ giọng Nhật rất khó hiểu, nhưng vì ông đại diện cho một cường quốc, mà lại một cường quốc rất tự trọng, hay"tự hào". Dù lúc nước Nhật thật sự nguy nan nạn sóng thần, nạn ô nhiễm phóng xạ hạt nhân, họ vẫn cắn răng chịu đựng, không xin xỏ , xin trợ giúp của ai cả.
3) Một lý do khá ngộ nghĩnh, thú vị khác là sự kỳ thị của người Việt ngay đối với người Việt. Và chuyện này không phải riêng cho người Việt chúng ta. Tôi quen một anh bạn trẻ chừng trên 40, là giáo sư y khoa một trường nổi tiếng ở Canada, cho nên anh ta phải di thuyết trình quanh năm, nhất là ở Hồng Kông, Trung Quốc vì anh ta sinh trưởng ở Hong Kong. Thứ nhất là anh ta rất bực mình nếu ai gọi anh ta là "Chinese" vì anh ta nghĩ anh ta là người Hồng Kông. Anh ta sợ "bị vơ đũa cả nắm" với người Hoa lục, ồn ào, thô lổ. Thứ nhì là anh ta nhận xét lúc qua Trung Quốc, đi bất cứ đâu, nếu anh ta nói tiếng Hoa (như người địa phương) thì bị "giỡn mặt", trong lúc nếu chỉ nói tiếng Anh thôi, thì lại được kính trọng hơn. Có lẽ người Việt chúng ta về VN cũng bị những phân biệt đối xử tương tự. Một cô bác sĩ, giáo sư gốc Việt cũng chán ngán lúc về VN cùng với các sinh viên và bs thực tập resident dưới quyền. Bịnh nhân cứ đòi được khám “bác sĩ Mỹ” trong lúc chính cô người Việt (nói tiếng Việt) là bác sĩ chủ trì mà họ không muốn. Mấy năm trước, tôi cũng đọc báo về chuyện một cô Việt kiều về VN mặc đồ tắm sao đó thì bị xoi mói, phê bình, tuy nhiên nếu chỉ nói tiếng Anh thì không sao.
3) Một lý do khác gián tiếp làm cho một số người trẻ không nhận mình là người Việt. Họ nói tiếng Việt có thể ngập ngừng, không đúng giọng (cũng như phần đông chúng ta nói tiếng Anh). Nhất là phần xưng hô của tiếng Việt rất khó, và một số người lớn theo xưa có thể không vui vì đứa trẻ gọi mình bằng "chú" thay vì "ông", hay xưng bằng "tôi". Và người Việt chúng ta về mặt này chúng ta không tế nhị lắm, sửa sai ngay tại chỗ. Đối với chúng ta, người lớn cười hay sửa sai người nhỏ là chuyện thường, nhưng đối với trẻ lớn lên tại Mỹ thì nó thể cho là chúng ta chế diễu nó, làm nó hổ thẹn. Sau đó chúng không còn muốn hay dám nói tiếng Việt nữa, thì lại bị rầy "tại sao là người Việt mà không biết nói tiếng Việt? Đối với chúng, chỉ còn giải pháp là không nhận mình là người Việt nữa.
3. Mặc cảm nạn nhân
Nói về người trong nước, ngày xưa trước 1975, tôi nghĩ mình bị mặc cảm nặng nề. Ví dụ bài hát Trịnh Công Sơn: "Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nôi chiến hàng ngày, gia tài của mẹ một lũ lai căng, gia tài của mẹ một lũ bội tình", những từ ngữ như "nô lệ" (slave) ,"lũ lai căng"(mongrel, half-breed), lũ bội tình" (traitor), rất nặng nề, vậy mà giới sinh viên học sinh, trí thức cũng coi như là đúng và hát một cách say mê. Hiện nay, trong giới sử học có khuynh hướng xét lại xem trong một ngàn năm VN lệ thuộc đế quốc Trung Hoa, mình có thật sự là "nô lệ" của họ không, người Việt dưới chế độ thuộc địa có phải hoàn toàn là nô lệ cho người Pháp hay không? Đành rằng có sự áp bức, nhưng cũng có những cải thiện trong tổ chức xã hội, y tế, giáo dục. Riêng về tự do con người, ngay các trí thức ở VN bây giờ còn nhắc lại là dưới thời thuộc địa tự do báo chí cũng như tôn giáo, giáo dục còn tốt hơn hiện bây giờ. Cho nên chúng ta, môt mặt do muốn tuyên truyền chính trị cho việc dành độc lập, một mặt khác hình như chúng ta có vẻ như có khuynh hướng như mắc bịnh than vãn hơi nhiều, như tựa đề bài hát của Lê Uyên và Phương, lội trong "vũng lầy của chúng ta". Ngược lại thì có khuynh hướng tự ca tụng như giả danh một văn sĩ Ý [A. Piazzi] xuất bản sách ca tụng người Việt ("Người Việt cao quý" thật ra của văn sĩ nằm vùng Vũ Hạnh), hay chúng ta cho rằng Nho giáo (Việt Nho của Linh mục Kim Định) là do ngừoi Việt đặt nên móng trước cả người Hán, vân vân. Có lẽ thái độ tự coi thường cũng như "tự hào" đôi khi thái quá đều xuất phát từ sự kém tự tin của một dân tộc sống triền miên trong chiến tranh và mất quyền điều khiển vận mạng của chính mình.
4. “Tâm trạng thuộc địa”(colonial mentality)
Vào khoảng đầu thế kỷ thứ 20, do tiếp xúc với văn hoá Pháp (đại diện cho phương tây) và một số người Việt được đi tây (ví dụ tham gia thế chiến thứ nhất, đi du học, chúng ta nhập tâm (internalized) lối sống và suy nghĩ của người phương tây và chúng ta bắt đầu nhìn người Việt dưới nhãn quan của phương tây. Trường hợp tương tự như các nhà văn Tự Lực Văn Đoàn đầu thế kỷ trước theo tây học và nhìn lại xã hội của mình chỉ thấy "Bùn lầy nước đọng" (Hoàng Đạo, 1940) hay những Lý Toét, Xã Xệ là những nhân vật “nhà quê” ngớ ngẫn trước thời đại Âu hoá.
Sau khi Việt nam độc lập năm 1954, thoát ra khỏi sự đô hộ của người Pháp, chúng ta đi vào tình trạng mà một số người gọi là “tâm trạng thuộc địa”(colonial mentality) hay"hội chứng hậu thuộc địa": các cấp lãnh đạo thường xuất phát từ nền giáo dục Pháp với những giá trị phương tây, và lắm khi còn dùng tiếng Pháp lúc nói chuyện với nhau (ví dụ lịch sử đáng nhớ, tướng Mai Hữu Xuân sau khi giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu ngày 2 tháng 11 năm 1963 về báo cáo "Mission accomplie" với tướng Dương văn Minh). Trong lúc những tầng lớp bị trị ở dưới nếu còn muốn gắn bó với xã hội truyền thống thì cũng không biết bám víu vào đâu vì nền móng Khổng học cổ truyền đã bị trốc rể từ dầu thế kỷ thứ 20 lúc các kỳ thi khoa cử bị bãi bỏ. Sách vở tiếng Việt cũng rất ít, mà phần lớn cũng do các tác giả được đào tạo thời Pháp, hay dịch từ những tác giả tây phương (qua tiếng Pháp, cũng giống như phim ảnh Hollywood hồi đó chiếu ở Sài Gòn đều nói tiếng Pháp và phụ đề tiếng Việt, dịch từ tiếng Pháp). Nhưng dần dần, những người như Nhất Linh cũng bớt cái nhìn từ tây phương, bớt công kích xã hội truyền thống hơn, và bắt đầu thấy những cái hay và đẹp riêng của nên văn hoá Việt. Một dấu hiệu đáng kể thời thập niên 1960's là sự thành công của cuốn " Một quan niệm về sống đẹp" do Nguyễn Hiến Lê phóng tác từ "My Country My People" của Lâm Ngữ Đường (Lin Yutang). Lâm Ngữ Đường là một học giả người gốc Hoa sống bên Mỹ sau này làm viện trưởng đại hợc ở Singapore, cố gắng nhìn lại những nét văn hoá Tàu thường bị Tây phương chê bai, với một cái nhìn thông cảm và thiện cảm hơn. Ví dụ như ăn nói ồn ào, nhai không ngậm miệng, cho con nít chạy rong, sống tà tà, không có tính toán giờ khắc, mà hiện nay chúng ta vẫn thấy làm người tây phương khó chịu, và cũng không khác gì cách sống của người mình.
Ngay sau tháng tư 1975, người trong nước được chứng kiến một "mối tự hào" thái quá . Sau này, khi tiếp xúc được với thế giới bên ngoài rồi, thì chúng ta mới thấy mình bị hụt cẳng đến mức nào, không những so với các nước gọi là văn minh, mà ngay với những nước mà trước đây người Việt coi thường (có thể là không đúng chỗ) như Mã Lai, Singapore. Ý thức về sự lạc hậu càng tệ hơn nữa lúc những tin tức, hình ảnh của Việt Kiều đem từ bên ngoài về, và nhất là với các phương tiện truyền thông mới như VCR, và nhất là internet. Có nhiều đề nghị trên báo Việt Nam nói về "Người Việt Xấu Xí ", bắt chước cuốn "Người Trung Quốc Xấu Xí" của Bá Dương (Đài Loan) đã làm người Trung Quốc, ở Đài Loan cũng như lục địa thức tỉnh khá nhiều. Người Việt trong nước thay đổi tâm trạng nhanh chóng, "lưỡng cực", "bipolar", đi từ quá tự tin, đến quá tự ty, lúc thì nghĩ mình là sắp qua mặt cả Nhật, lúc thì cho mình là "nhược tiểu”, “tụt hậu, sắp thua cả Cambodia hay Lào.
5. Cộng đồng hải ngoại.
Ở ngoài lãnh thổ Việt Nam, 3-4 triệu người Việt đang tạo nên một cộng đồng tuy về địa dư không có lãnh thổ chung, rải rác trên mấy chục xứ, lại có những đặc điểm chung như sống tại những xã hội dân chủ, phần lớn là ở nước phát triển. Đành rằng vẫn còn nhiều vấn đề so với người bản xứ, một số mặc cảm tự ty đang phai mờ dần với các tiến bộ hội nhập, nhất là đối với thế hệ thứ hai đang trưởng thành và với xã hội tây phương càng ngày càng đa văn hoá. Họ có lợi tức đầu người cao hơn trong nước ít nhất vài lần, có thể cả chục lần trong đa số trường hợp (Mỹ, Canada, Bắc Âu), có mức phát triển con người HDI (Human Development Index) cao hơn Singapore là nước Á Châu có chỉ số cao nhất. Nói một cách khác, có thể xem người Việt Hải Ngoại như là một "nation" không lãnh thổ, cùng một thứ tiếng (tiếng Việt, hơi khác tiếng Việt dùng trong nước, và có lẽ trong tương lai còn khác nhiều hơn), một lịch sử và chế độ chính trị (liberal democracy) được kết nối trên mạng và các phương tiện siêu quốc gia. Một loại "stateless nation"; theo định nghĩa của Wikipedia: “A stateless nation is an ethnic group, religious group, linguistic group or other cohesive group which is not the majority population in any nation state.” Chúng ta có thể so sánh những thành tựu của "Việt Kiều" trong 40 năm qua với Singapore, một quốc gia (5,5 triệu người ) rất nổi bật, dùng tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức, với một lãnh thổ gần như không đáng kể (719 km2) và cũng được lập nên bởi những người di dân bắt đầu gần như từ số không. Câu hỏi kế tiếp có thể đặt ra là chúng ta có thể "tự hào" về cộng đồng tuy "ảo" mà thật này hay không? Gần đây, một nhà báo Canada, khi bàn về vấn đề người tỵ nạn Trung Đông (Syria) và so sánh với làn sóng tỵ nạn Việt Nam 30-40 năm trước đã viết như sau: "Người Việt Nam có một văn hoá làm việc cao hơn văn hoá làm việc của chúng ta đến đổi họ làm gương cho chúng ta."
[Les Vietnamiens ont une culture du travail tellement supérieure à la nôtre qu'ils nous montrent l'exemple] (Gilles Proulx, Le Journal de Montreal, Septembre 2015)
Bác sĩ Hồ Văn Hiền
Ngày 23 tháng 5 năm 2015
Ngày 1 tháng 10 năm 2015
Bài này căn cứ trên các câu trả lời của BS Hồ Văn Hiền trong buổi nói chuyện do nữ sĩ Quý Linh thực hiện trong Chương trình Văn Hóa Việt, Thứ Năm 28 tháng Năm, năm 2015, trên Đài phát thanh Sài Gòn-Houston,Texas.
Đề tài: Chúng ta có “tự hào” chúng ta là người…gốc Việt hay không?
(Edited for langhue.org
9/30/2015)