"Con nhà tướng không được khiếp nhược trước quân thù." ** Bùi Thị Xuân **

Bằng Cấp, Học Vị và Tước Vị Đại Học

(Phần 2)

16ahvhien --- bch1b

                       

Fig. 1: Sau hiệp định Geneve (20 tháng 7 năm 1954) chia đôi đất nước Việt Nam, Trường Đại học Y khoa Hà nội dời nốt vào Sàigon ở trụ sở 28 Rue Testard, với tên mới Faculté de Médecine et de Pharmacie, Université de Saigon. Trên thực tế, số 28 đường Testard chỉ là một biệt thự không có vẻ gì là “trường” cả. Biệt thự kiểu bánh ít, phía trước có tiền đình, bên hông có sân gạch (terrasse), phía sau cất thêm vỏn vẹn hai lớp học. Không có bảng tên, bảng hiệu gì cả. Biệt thự này do Bác sĩ Henriette Bùi Quang Chiêu hiến cho Chính phủ Quốc gia Việt nam (BS Henriette, ái nữ của nhân sĩ Bùi Quang Chiêu, là vị nữ lưu đầu tiên ở Nam Kỳ đỗ bằng Tiến sĩ Y khoa--Docteur en Médecine-- du học ở Pháp về). Trường y khoa và Dược khoa nằm ngay góc Testard và Barbé, góc bên kia là Lycée Chasseloup Laubat (sau này đổi tên là Jean Jacques Rousseau, rồi Lê Quý Đôn). ( Biệt thự này nay nằm trong khuôn viên "Bảo tàng Chứng tích chiến tranh" cho nên có chiếc máy bay trực thăng của thời chiến tranh trước 1975. (Theo Bác sĩ Nguyễn Sơ Đông)

Hệ thống giáo dục theo Pháp

Ngày xưa, ở Sài Gòn, chúng ta theo hệ thống giáo dục Pháp, học y khoa 7 năm sau trung học, gồm một năm dự bị về khoa học căn bản (basic sciences) học ở trường Đại học Khoa học (Lý Hoá Sinh, hay PCB, viết tắt của Physique, Chimie, Biologie) hay APM sau này (Année Pre Medicale) và 6 năm học ở trường Y khoa. Sau khi học xong ở trường Y khoa một vài năm, ứng viên thi bịnh lý, trình luận án và được tước vị hay học vị Bác sĩ Y khoa Quốc Gia (Diplôme d’Etat de docteur en médecine). Những bác sĩ tốt nghiệp khoảng giữa thế kỷ thứ 20 lúc qua Pháp định cư sau 1975 bằng cấp cũng được công nhận như bằng của đại học Pháp cấp, hoặc chỉ cần điều chỉnh đôi chút, như lấy luận án cũ ở Việt nam trình lại với một uỷ ban giáo sư Pháp, và tước vị Bác sĩ Y khoa Quốc gia (Docteur d'Etat en Medecine) họ vẫn được công nhận tại Pháp.

Theo Bác sĩ Trần Văn Tích trong một bài báo nói vể kinh nghiệm của ông được rời Việt nam để định cư chính thức ở Đức, đăng trong đặc san của Hội Y Tế Việt Nam tại Hoa Kỳ (tháng 8 năm 2015), "người Đức phán rằng tôi được phép mang học vị chính thức là Dr. med. staadl.(Vietnam) tức tiến sĩ y khoa quốc gia Việt nam. Nếu là văn bằng do các đại học tư cấp phát, không phải do quốc gia cấp phát, thì người Đức gọi là Dr. med.univ. (Budapest) chẳng hạn."

Bác sĩ Phạm Tu Chính, ra trường Y Saigon khoảng giữa thế kỷ 20 và định cư ở Pháp. Theo ông, y sĩ tốt nghiệp trường y Sài Gòn trước năm 1955, văn bằng do khoa trưởng, viện trưởng người Pháp ký được công nhận, khỏi phải thi lại. Những y sĩ tốt nghiệp trước năm 1965 thì được công nhận học trình 6 năm, chỉ phải thi lại 3-4 môn bịnh lý năm thứ 6 rồi trình luận án, được bằng Tiến sĩ Quốc gia.

16ahvhien --- bch2b

Hình 2: Văn bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia của Việt Nam Cọng hoà, cấp cho BS Đỗ hồng Ngọc (cũng là một văn sĩ nổi tiếng ở Việt Nam) ngày 2 tháng 5 năm 1972 do Khoa trưởng Y khoa, bác sĩ Dặng văn Chiếu ký.(Nguồn: trang nhà của BS Ngọc).

Những người tốt nghiệp sau 1965 cũng được nâng đỡ, được học lại một số năm hay thi tương đương lấy lại văn bằng. Sau năm 1985, chương trình học ở Pháp thay đổi, nên các bác sĩ mới ra trường phải đi thực tập bịnh viện 2 năm nội trú (residency) mới được hành nghề y khoa tổng quát.Theo trang web của trường Y Pierre và Marie Curie (UPMC) thuộc Đại học Sorbonne, Paris, hiện nay học trình để lấy bằng Diplome d'État de docteur en medecine mất 9 năm sau tú tài (bachelier, tốt nghiệp trung học) gồm 6 năm học y khoa và 3-5 năm nội trú (3 năm nội trú cho y khoa tổng quát). Như vậy theo số năm (9) tương đương với một người học y khoa ở Mỹ sau khi hoàn tất 4 năm premed (college, undergraduate) để lấy BS hay BA, 4 năm trường Medical School, và một năm nội trú (internship), là điều kiện tối thiểu để được cấp bằng hành nghề y (licence to practice medicine and surgery) ở đa số tiểu bang đối với sinh viên tốt nghiệp tại trường y khoa Mỹ (US Medical Graduates). Đối với sinh viên tốt nghiệp ở ngoại quốc (Foreign Medical Graduates hay FMG), dù trước khi đến Mỹ họ là giáo sư y khoa hay chuyên gia gì đi nữa, phải thi lấy bằng tương đương tên là ECFMG (Educational Council For Foreign Medical Graduates), gồm 3 kỳ thi giống như thi tốt nghiệp cho sinh viên y khoa Mỹ). Có thể cần đến 2 năm nội trú hay thường trú (internship or residency) mới được cấp bằng hành nghề (1). Nói một cách khác, Tây Âu cũng như Mỹ, Canada công nhận tước vị Doctor (tạm gọi là "tiến sĩ y khoa quốc gia”) của trường y khoa Sài Gòn thời chế độ Việt Nam Cọng Hoà. Một số bác sĩ miền nam Việt Nam, với tấm bằng của trường Y khoa Sài Gòn, sau nhiều năm huấn luyện hậu tiến sĩ (postgraduate training) và có thành tích dạy học và công bố, đi vào con đường khoa bảng và trở thành giáo sư tại các đại học Mỹ và Canada. Trong lúc đó, chính tại Việt Nam, chính phủ Việt nam, căn cứ trên hệ thống miền Bắc (VNDCCH) bị ảnh hưởng của thời Soviet, hình như không công nhận học vị cấp tiến sĩ y khoa của Miền Nam. Những người mà tôi biết còn ở lại Việt Nam trước khi tiến thân trên con đường giảng dạy trường y ở Việt Nam đều phải lấy cho được bằng "tiến sĩ y khoa" của Cọng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trước khi được gọi là "giáo sư tiến sĩ".

Chế độ "tiến sĩ y khoa” này hình như tương tự như bằng habilitation universitaire của Pháp, đòi hỏi người đã có bằng tiến sĩ phải trình một luận án thứ nhì trước một hội đồng giám khảo để chứng tỏ khả năng dạy đại học hay khả năng điều khiển khảo cứu (Habilitation à diriger des recherches, HDR). Ở Đức gọi là Privat-docent. HDR được thiết lập sau khi Pháp bãi bỏ bằng tiến sĩ quốc gia (1984) và tương đương với bằng agrégé trong y khoa và luật khoa.

Ngộ nhận ngôn ngữ

Nhân chuyện này tôi còn nhớ một chi tiết khá thú vị. Lúc khai lý lịch trong trại cải tạo, về bằng cấp, tước vị đại học, một số bác sĩ trẻ mới ra trường ghi là "tiến sĩ y khoa", nhưng các quản giáo không chịu công nhận như vậy cho nên các anh bác sĩ này cũng phải sửa lại thôi, vì lúc đó những chuyện như vậy cũng không còn ý nghĩa gì. Các quản giáo quen với chương trình học y khoa ở ngoài bắc, ở đó bác sĩ có nghĩa là người tốt nghiệp trường thuốc, học trình ngắn hơn và lúc tốt nghiệp không có tước vị "Docteur d'Etat". Sau năm 1958, học trình Trường Đại học Y Hà Nội kéo dài 4 năm với 1/6 thời giờ học chính trị, năm 1968 tăng lên 6 năm, nhưng hết 12% thời gian là học chính trị (theo Wikipedia). Mới đây, đọc tin trên báo Người Việt ở Cali, giới thiệu một "nàng tiên nhỏ, từng ăn xin nay thành bác sĩ" nhờ sự giúp đở của một cụ Việt Kiều. Bài báo có kèm theo hình ảnh bằng tốt nghiệp từ Đại Học Y Dược Thái Nguyên, trong khoá 300 người tân khoa, ghi: Bằng tốt nghiệp Đại học: danh hiệu Bằng Bác sĩ, có dịch tiếng Anh: “The degree of Bachelor”(Cử nhân).(Hình 3)

Theo Giáo sư Y khoa Nguyễn Văn Tuấn ở Úc, trường y ở Úc có thể đi theo diện "undergraduate" “mô hình cử nhân”(cấp cử nhân), học sinh ưu tú được t16hvhien --- bch3buyển trực tiếp sau khi tốt nghiệp trung học, học 5-6 năm, ra trường với bằng Bachelor (MBBS). Diện kia là "graduate" (hậu đại học, sau cử nhân), bắt đầu từ 2011, ứng viên phải có BS hay BA (để được già dặn hơn, hiểu đời hơn), vào học y khoa 4 năm và tốt nghiệp với bằng MD theo kiểu Mỹ. Khuynh hướng hiện nay là các trường chuyển qua học trình 4 năm cử nhân + 4 năm y khoa=MD.

Ngoài ra, cũng có những ngộ nhận ngôn ngữ kéo dài đến sau này, ngay cả lúc đã ra đến ngoại quốc. Ở miền bắc trước 1975, ở miền bắc gọi "y sĩ" là những người được huấn luyện trung cấp về y khoa , thấp hơn "bác sĩ" là những người được đào tạo qua trường đại học y khoa, hay đã được học bổ túc thêm để thành bác sĩ.

Trong Nam thì khác, danh từ "y sĩ" chỉ dùng cho những người tốt nghiệp chính quy trường y khoa , lúc đó chỉ có Y khoa Sài Gòn và Y khoa Huế. Trường Y khoa Minh Đức thuộc Viện Đại học Minh Đức (của Giáo hội Công giáo) chỉ được chính thức hoạt động từ tháng 12 năm 1972 và giải thể năm 1975. Ví dụ, sau khi ra trường, chúng tôi được "trưng tập" vào quân đội với cấp bực "y sĩ trung uý". Lúc đi cải tạo, những ông quản giáo lại hỏi ngược chúng tôi: anh là “y sĩ” mà sao lại khai anh có bằng bác sĩ ?. Khoảng năm 1990, ngay tại Washington DC, USA cũng có một nhà báo tiếng Việt, hình như chuyên gia về ngôn ngữ, cũng viết báo tiếng Việt thách thức chúng tôi như vậy về danh xưng "y sĩ" và "bác sĩ". Ông hỏi: Các anh khoe là hội viên của "Hội Y sĩ Hoa kỳ" (AMA/ American Medical Association) mà sao các anh lại quảng cáo mình là bác sĩ?

Bác sĩ và y sĩ

Có lẽ sự phân biệt giữa bác sĩ (docteur) và y sĩ (medecin) bắt đầu từ thời thập niên 1920's, lúc trường y Hà Nội được "chính quy hoá" thành một trường đại học đưa đến tước vị "docteur en medecine" tương đương với trường y khoa ở Pháp, chính thức đổi tên thành "Trường Y Dược toàn cấp Đông Dương ( école de Plein Exercice: còn gọi là Trường Kiêm Bị) giống như của chính quốc". Theo trang mạng của trường Đại Học y Khoa Hà nội, theo Nghị định ngày 30 tháng 8 năm 1923 của chính phủ thuọc địa Pháp, được khẳng định bằng một nghị định khác của toàn quyền M. Merlin năm 1924, trường Y khoa gồm những phân khoa sau:

1. Bác sĩ y khoa và dược sĩ hạng nhất theo nghị định 30 tháng Tám 1923. Trước năm 1935, học xong năm thứ 4, sinh viên phải qua Pháp, thi năm thứ 5 và bảo vệ luận án tốt nghiệp. Sau đó thì bác sĩ y khoa hoàn tất học trình ở Việt Nam sau khi các bác sĩ giảng dạy người Pháp đã về Pháp thi và nhận được bằng thạc sĩ.

2. Y sĩ và Dược sĩ Đông Dương (khoa này đào tạo lớp cuối cùng ra trường năm 1934).

3. Y sĩ Quân Y

4. Y sĩ Trung Hoa

5. Nữ hộ sinh Đông Dương.

Theo hệ thống này thì "y sĩ Đông dương" (medecin indochinois) thấp hơn bác sĩ y khoa quốc gia (docteur d’etat en medecine).Tuy nhiên sau này, các "y sĩ Đông dương " được điều chỉnh tương đương với các bác sĩ y khoa.

Ở Mỹ hiện nay, nhiều phòng mạch bác sĩ và bịnh viện dùng các “physician assistant” (PA hay phụ tá bác sĩ). Những người này học chương trình trung bình là 27 tháng, sau khi có bằng cử nhân (BS hay BA). Do khả năng số bác sĩ tốt nghiệp từ các trường y khoa sẽ không đáp ứng đủ cho nhu cầu y tế do chế độ bảo hiểm phổ cập do chương trình cung cấp bảo hiểm cho mọi người (Obamacare) và của số dân chúng cao tuổi gốc "baby boomers"(sinh sau thế chiến thứ 2 lúc các lính Mỹ đánh giặc trở về xây dựng lại gia đình), chính phủ Mỹ khuyến khích huấn luyện gia tăng một số điều dưỡng (registered nurses, RN) thành "nurse practitioner"(NP). NP phải qua học trình cao học (Master of Sciences in Nursing, MSN) hay tiến sĩ (Doctor of Nursing, DND) về điều dưỡng và thi "board" để lấy giấy phép hành nghề, theo luật mỗi tiểu bang, NP được phép khám bịnh , biên toa trong một số môi trường giới hạn ít nhiều, có thể cần các bác sĩ y khoa giám sát hay không. Những phòng khám bịnh hiện nay nằm trong các "pharmacy"(tiệm tạp hoá Mỹ trong đó có dược sĩ và quầy bán thuốc) như CVS MinuteClinic được các nurse practitioner phụ trách. Có thể ví những người này với các y sĩ ở Việt Nam hiện nay, tuy học trình của NP dài hơn và ở cấp thạc sĩ (master, MSN) hoặc tiến sĩ (DND hay PhD) (xin xem mục Nurse Practitioner ở Wikipedia tiếng Anh https://en.wikipedia.org/wiki/Nurse_practitioner).

Một từ khác cũng gây nhiều rắc rối: "agrégé" mà chúng ta gọi là thạc sĩ. Trong chế độ giáo dục Pháp ngày xưa "agrégé" có hai loại: cho trường luật và trường y thì "agrégé" là một tước vị của người dạy đại học. Ví dụ trường y khoa Sài gòn hồi đó chỉ có một số giáo sư y khoa từng kinh nghiệm dạy sinh viên lâu năm ở Việt Nam , sau khi thi một kỳ thi đặt biệt ở Pháp, được Pháp phong là "agrégé" như GS Phạm Biểu Tâm, GS Trần Ngọc Ninh, GS Nguyễn Hữu.

Ngoài ra, một người tốt nghiệp trường École normale superieure (cao đẳng sư phạm), hay có 5 năm đại học (cấp master) có thể thi để được công nhận là "professeur agrégé", nhưng những agrégé này dạy trung học (lycée), tuy cao cấp hơn giáo sư trung học thường (nay gọi là giáo viên, professeur certifié).

Người Việt chiếm được bằng agrégé rất hiếm, thành công trong nhiều lãnh vực, và cũng là những người có cá tính đặc biệt. Nổi tiếng có Phạm Duy Khiêm (1908-1974) là người Việt duy nhất lấy được bằng thạc sĩ về văn phạm của Pháp. Ông là con nhà văn Phạm Duy Tốn và là anh của nhạc sĩ Phạm Duy, tốt nghiệp École normale supérieure de Paris, học cùng lớp và bạn thân của với Tổng thống George Pompidou và Leopold S. Senghor, thi sĩ nổi tiếng về thân phận người da đen [negritude] và sau này là tổng thống của Senegal. Phạm Duy Khiêm là tác giả cuốn tiểu thuyết Nam et Sylvie được giải Louis Barthou (Académie francaise) và cuốn sách Legendes des terres sereines (Huyền thoại miền đất bình yên) được giải thưởng văn chương Đông Dương. Sau này ông là đại sứ của Việt nam Cọng hoà tại Pháp (1954-1957) và được Đại học Toulouse cấp bằng tiến sĩ danh dự. Lúc còn trẻ ông từng nói: "Con người ta phải có lý do chính đáng để có mặt trên trái đất này" (“il faut justifier sa présence sur cette terre”). Ông tự sát năm 1974.

Học giả Hoàng Xuân Hãn (1909-1996), người được trường kỹ sư cầu đường Pháp (École Nationale des Ponts et Chaussées) ở Paris đặt tên một giảng đường, là thạc sĩ về môn toán (DH Sorbonne) và dạy toán ở trường Bưởi (trung học), trước khi dạy trường Đại học Khoa học. Ông viết sách “Danh từ Khoa học”, nghiên cứu sử. Ông tham gia chính phủ Trần Trọng Kim của Vua Bảo Đại (1945), sau đó ở luôn bên Pháp.(2)

Khoảng thập niên 1980, một số bác sĩ Việt Nam ở Mỹ, sau khi học chuyên khoa qua 3-5 năm là thường trú và thi đậu "specialty board certification" của Mỹ (diplomate chỉ người được specialty board công nhận), muốn quảng cáo khả năng chuyên khoa của mình và, ví dụ, dịch "Diplomate of the American Board of Pediatrics" là "Thạc sĩ Nhi khoa", tuy chuyện này không liên quan đến bằng "agrégé" thời Pháp thuộc. Gần đây hơn ở Việt Nam, người ta lại dùng "thạc sĩ' để dịch học vị "Master' (sau BS hay BA).

Bác sĩ Hồ Văn Hiền

HT

Ngày 3 tháng 1 năm 2016

(Sắp tới, xin theo dõi tiếp phần cuối: Bằng Y, Nha, Dược, Optometry, Chiropractic, Osteopathy, Homeopathy tại Mỹ)

Thống-Kê Vào Làng

Viet Nam 49.4% Viet Nam
United States of America 22.9% United States of America
Italy 10.5% Italy
Germany 8.5% Germany
Canada 2.6% Canada
Australia 1.4% Australia
France 1.0% France

Total:

68

Countries