"Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông." ** Nguyễn Bá Học **

Bằng Cấp, Học Vị và Tước Vị Đại Học

Phần 3: Y Khoa

 16ahvhien --- bch3c                      

 

Trường Đại Học Y Khoa Sài Gòn

Y thuật thì dài; đời người thì ngắn; cơ hội thoáng qua; phán xét khó khăn; kinh nghiệm lừa dối. Người thầy thuốc không chỉ phải chuẩn bị chính mình để làm đúng, mà còn phải làm thế nào để bịnh nhân, người phụ tá và những người ngoài cọng tác với mình.

(Art is long; life is short; opportunity is fleeting; judgement is difficult; experience is deceitful. The physician must not only be prepared to do what is right himself, but also to make the patient, the attendants, and externals cooperate.)

Hippocrates (460 TCN-377 TCN)

Bằng Y, Nha, Dược, Optometry, Chiropractic, Osteopathy, Homeopathy tại Mỹ

Từ ngày người Việt chúng ta hành nghề tại Mỹ, lại có nhiều vấn đề khác. Trước 1975, ở Việt Nam, Nha và Dược học 5 năm trong lúc Y khoa học 7 năm. Dược sĩ và nha sĩ không có tước hiệu 'docteur". Mỹ thì khác, ngành Tây Y theo truyền thống của Esculape, Hippocrates (sinh 460 BC), Louis Pasteur (1822-1895), Robert Koch (1843-1910), Alexandre Yersin (1863-1943 mất ở Nha Trang), trường Y khoa Hà nội và Sài Gòn, mà chúng ta quen thuộc, được gọi là dòng chính của nền y học, hiện nay (đầu thế kỷ 21), cố gắng trở nên y học khoa học (scientific medicine), "y khoa sinh học" (biomedicine), một nền "y học căn cứ trên chứng cớ khoa học" (evidence based medicine, có người dịch gọn là "y khoa thực chứng").

Học trình Tây Y tại Mỹ thường gồm 4 năm tiền y khoa, với bằng BS (cử nhân khoa học) hay BA (Bachelor of Arts), 4-5 năm học ở một trong trên 141 trường Y khoa, và tốt nghiệp (không bắt buộc khảo cứu và trình luận án) với bằng Medical Doctor (M.D.).Theo Wikipedia, bằng M.D. Mỹ là một loại "professional doctorate" có từ năm 1771 (College of Philadelphia), được cấp 90 năm trước khi bằng Ph.D.(research doctorate) được cấp lần đầu tiên tại Mỹ năm 1861. Một số sinh viên y khoa muốn đi về khảo cứu và dạy học, chọn con đường "M.D. PhD", mất thêm nhiều năm học, dài hơn là con đường M.D. Ngược lại cũng có nhiều người đã có bằng PhD xin vào học Medical School để có thể thực hiện một sự nghiệp trong y khoa (như trực tiếp chữa bịnh, giải phẫu, nghiên cứu trên người bịnh, điều hành bịnh viện).

Sau khi ra trường y với bằng M.D: 3-6 năm huấn luyện (post graduate training), gồm một năm nội trú bịnh viện [internship] và sau đó 2-5 năm thường trú [residency]. Ví dụ bác sĩ nội thương (internal medicine) hay nhi khoa (pediatrics) cần 3 năm postgraduate;   bác sĩ chuyên về mắt (ophthalmology) 4 năm, bác sĩ quang tuyến (radiologist) cần 5 năm, bác sĩ giải phẩu 5 năm. Có thể cọng thêm một vài năm chuyên khoa sâu (sub specialties) gọi là fellowship. Ví dụ bác sĩ nhi khoa phải huấn luyện thêm 2 năm về y khoa trẻ sơ sinh (neonatology), sinh non để trở thành neonatologist. Người bác sĩ trước khi được cấp bằng hành nghề phải đậu 3 phần của kỳ thi USMLE (United States Licensing Medical Examination): phần 1 (khoa học căn bản) thi sau khi xong năm thứ 2 trường y, phần 2 (lâm sàn) thi vào năm thứ 4 YK, và phần 3 sau khi đi đã hoàn tất năm nội trú (internship). Thi USMLE chung cho các tiểu bang Hoa Kỳ và kết quả phần 1-2 là thước đo chung về trình độ kiến thức của sinh viên mới ra trường, một yếu tố quyết định quan trọng lúc ứng viên xin đi làm nội trú hay thường trú.

Ngoài ngành y, ở Mỹ còn có những "professional doctorate" khác. Học nghề Nha (răng) mất 4 năm college rồi 4 năm trường nha khoa, cũng dài như quá trình học y, tốt nghiệp với bằng Doctor of Dental Surgery (DDS) hay DMD ("Dentariae Medicinae Doctor"). Gần đây, các trường Dược cũng bắt đa số ứng viên phải có bằng cử nhân (4 năm) mới nhận vào học 4 năm, tốt nghiệp với tước vị Doctor of Pharmacy (PharmD) cũng gọi là Dr. Y. Một số dược sĩ Việt bắt đầu để tước vị "Bác sĩ Dược khoa" để dịch Pharm.D.

Ngoài ra còn có những ngành như "optometry" (opto= thị giác, sight, metry= đo; có thể tạm dịch "thị trắc học"[?]hay "quang trắc học"[?]) chuyên về đo mắt và khám mắt thông thường nhưng không làm phẫu thuật, tước vị của họ là OD (Optometry Doctor), được dịch sang tiếng Việt là Bác sĩ Nhãn khoa.

Vào thế kỷ thứ 19, trong lúc y khoa Mỹ còn sơ khai và rất ít căn bản khoa học, lúc mà các phương pháp trị liệu chính vẫn còn là trích huyết (bloodletting) và cắt bỏ các bộ phận bị hư hại (amputation), một số người cho rằng cách tiếp cận của y khoa dòng chính là phiến diện, không chú trọng đến sự quân bình của con người toàn diện mà chỉ theo kiểu "bịnh đâu đánh đó", lắm khi còn gây nguy hại cho người bịnh cho nên họ còn gọi tây y dòng chính là "allopathic medicine", (trong từ này allo có nghĩa là khác, pathic là bịnh, đau đớn). Lúc đầu từ "allopathic medicine" được dùng với tính cách miệt thị bởi trường phái "homeopathy" (homeo= giống nhau) là những người chủ trương "dùng độc trị độc", nghĩa là họ dùng chính một chất mà họ nghĩ có khả năng gây ra triệu chứng người bịnh (ví dụ gây sốt), pha thật loãng chất đó “đến mức mà ngay cả các phân tử chất đó không còn phát hiện được”, rồi dùng dùng dung dịch đó như là thuốc chữa bịnh. Nên nhớ là những bàn cãi, đối kháng này hiện hữu trước hơn một trăm năm nay, trước các tiến bộ vuơt bực của y khoa hiện đại và của nền kỹ nghệ sinh học và dược học hiện nay. Tuy nhiên do thói quen, một số nơi còn gọi y khoa chính thống là "allopathic medicine", để đối nghịch với homeopathic medicine , osteopathic medicine, oriental medicine (đông y), vv .

Homeopathy hay homeopathic medicine được thành hình vào cuối thế kỷ thứ 18 ở Đức và căn cứ trên triết lý cho rằng cơ thể có thể tự làm lành lấy mình, và những triệu chứng mà chúng ta ghi nhận chỉ là những cố gắng của cơ thể đang tìm cách khắc phục bịnh.

Osteopathy là một môn phái được Andrew Taylor Still(1828-1917), một bác sĩ (MD) người Mỹ thành lập năm 1874 trên thuyết của ông cho rằng bịnh tật là do "xương, dây thần kinh, cơ bắp bị xáo trộn, xê dịch" nên trở ngại máu huyết, thần kinh lưu thông. Nếu dùng "nắn" xương, gân (manipulations) có thể giải quyết những tắt nghẽn và chữa dứt bịnh. Hiện có 30 trường y osteopathic school ở Mỹ. Tuy nhiên, chương trình học đa số phỏng theo chương trình y khoa khoa học hiện đại của các trường dòng chính. Hiện có 44.000 DO hành nghề tại Mỹ (7%of US physicians).

Các trường osteopathy huấn luyện các Doctor of Osteopathy (DO) cũng qua quá trình 8 năm sau khi tốt nghiệp trung học. Theo Hội Osteopathy (American Osteopathic Association), các nguyên lý về osteopathy chú trọng đến cách tiếp cận bịnh nhân như là một con người toàn diện, chứ không chỉ xét và giải quyết những triệu chứng, những “bịnh” (như viêm phổi, tiểu đường, đau ruột dư) của người đó. Ngoài ra, ở trường họ cũng được huấn luyện nhiều hơn về hệ xương -cơ bắp và tác dụng của nó trên các khía cạnh khác của cơ thể và sức khoẻ. Ngoài ra còn có các trường chiropractors, học trình 5 năm sau college (post graduate), đào tạo ra Doctor of Chiropractic (DC), chuyên về chữa bịnh bằng nắn xương cho ngay ngắn theo nguyên lý của ngành này về chữa bịnh (alignment restoration of the skeletal system Tôi thấy trên các bảng quảng cáo "Doctor of Chiropractic" được dịch là bác sĩ chỉnh xương, cần phân biệt với "bác sĩ chỉnh trực" (orthopedist) thường được dùng trước 1975 ở Việt nam để chỉ bác sĩ y khoa chuyên về môn giải phẫu xương khớp, gọi là "khoa chỉnh trực", hay orthopedics. Nói cách khác, chiropractics và osteopathy nhấn mạnh về tầm quan trọng của hệ xương-cơ bắp. Sau khi tốt nghiệp, các bác sĩ D.O. đi thực tập tại các chương trình huấn luyện chuyên môn ở các nhà thương osteopathic teaching hospital (osteopathic internship/residency), và từ năm 1985, họ được phép thực tập ở các nhà thương y khoa dòng chính. Do đó, sau khi hoàn tất huấn luyện chuyên môn hậu đại học (post graduate training) DO và MD không khác nhau lắm. Trên thực tế, các DO hành nghề trong các lãnh vực không khác các bác sĩ y khoa MD bao nhiêu.

Ngoài ra các đại học ở Mỹ còn có trường (post graduate/sau cử nhân) dạy về châm cứu và đông y, cấp bằng D.O.M. (Doctor of Oriental Medicine, e.g. University of Maryland), Master of Science in Acupuncture (MSAc), Master of Science in Traditional Oriental Medicine (MSTOM)

Cho nên, tiếng Việt chúng ta cũng như y khoa chúng ta cũng hơi rắc rối vì nó có rất nhiều lớp quá khứ, ảnh hưởng chồng chất lên nhau. Dù sao thì mục đích chính của y khoa là chữa bịnh, hay theo nghĩa rộng hơn hiện nay là bảo vệ, thăng tiến tình trạng sức khoẻ của cá nhân và cộng đồng. Bằng M.D. chỉ là bước đầu, cái vé cho một người tương đối trẻ dưới 30 đi vào ngưỡng cửa của thế giới thầy thuốc, mới bắt đầu làm nội trú tập sự tại các bịnh viện, còn nhiều học hỏi, rút kinh nghiệm và gian truân trước mắt.

Hiện nay, ở Mỹ, những cố gắng của giới khoa bảng (academia), dựa theo phong trào bảo vệ quyền lợi cho bịnh nhân ("người tiêu thụ") đang "hành" các bác sĩ y khoa và bắt họ phải học đi học lại liên tục (continuous medical education, CME), thi lại mỗi chu kỳ vài năm. Ví dụ thi chuyên khoa lại 7-10 năm một lần (board recertification, hay Maintenance of Certification/MOC) rất tốn kém và nặng về từ chương không thích hợp với thời đại thông tin của chúng ta ngày nay. Giới bác sĩ Mỹ hiện nay có vẻ như không còn nhịn được nữa và đang tranh đấu dành lại quyển hành nghề độc lập của họ.

“Nghề y là chữa dứt bịnh đôi khi, giảm khổ thường xuyên , an ủi luôn luôn.”

La médecine, c'est guérir parfois, soulager souvent, consoler toujours.

Đây là câu nói nổi tiếng, hình như của vị bác sĩ Pháp Ambroise Paré (1510-1590), mà hồi nhỏ tôi thường nghe các bậc đàn anh dùng trong tiếng Pháp để nhắc nhở cho kẻ hậu sinh rằng vai trò nhân đạo quan trọng còn hơn vai trò của khoa học trong đời người thầy thuốc

Tôi khám bịnh cho các trẻ em từ lúc chúng chào đời, cho đến lúc chúng trưởng thành, thời gian mà ở đây người ta gọi là late adolescence, tuổi thanh niên “già". Trong quá trình nhìn các cháu lớn lên qua mấy chục năm như vậy, rất nhiều phụ huynh bịnh nhân cho biết mình mơ ước con lớn lên sẽ làm nghề gì. Có những mơ ước làm ngạc nhiên, như có một vài người muốn con mình lớn lên đi tu thành linh mục, thành "Cha", một cách dâng hiến con mình cho đấng tối cao của mình. Một số khá đông muốn con mình trở thành bác sĩ. Chính các cháu cũng có một số em muốn theo nghề y khoa, một vài em thì muốn làm bác sĩ "con nít" giống như tôi, có em thì tham vọng hơn, với sự tán thưởng của bố mẹ, muốn họ vào những trường tiếng tăm cở Johns Hopkins, Harvard, làm bác sĩ giải phẫu tim (heart surgeon) hay mổ óc (neurosurgeon). Một số cháu gái tuổi trung học mê show TV CSI (Crime Scene Investigation, (Điều tra Hiện trường Hình sự)), về y khoa pháp lý (forensic medicine) cũng muốn đi về ngành y nhưng phải là ngành chuyên tìm các thủ phạm giết người và phân tích các tội phạm qua bằng chứng y học. Có em thì muốn đi về ngành công nghệ sinh học (bioengineering), làm kỹ sư phát minh các bộ phận thay thế cho các bộ phận khiếm khuyết của con người, muốn phát minh tìm tòi điều mới mẻ chứ không muốn làm nghề "boring" như bác sĩ ngày ngày đối phó với những vấn đề "bánh mì và bơ" (bread and butter). Với thời gian, đại đa số bố mẹ cũng như những tâm hồn trong trắng và tham vọng sẽ lần lần đối diện với sự thật, và từ từ "hạ cánh" xuống thế giới bình thường của chúng ta. Phụ huynh cũng như các em sẽ mừng may mắn được trường y, trường nha, trường optometry, trường pharmacy ... nhận vào, và mấy năm sau có vài ba chữ MD, D.O., O.D., DDS, Pharm.D., P.A...viết tắt kèm theo tên mình, và có một nghề để sống và đóng góp cho xã hội.

Có người cho rằng làm bác sĩ hay “tu cha” cũng giống nhau ở chỗ người thì lo sức khoẻ phần xác, người thì lo sức khoẻ phần hồn. Là thầy thuốc, tôi cũng tự an ủi như vậy, mặc dù, ai cũng biết, trên thực tế, y nghiệp cũng như tôn giáo không phải lúc nào cũng vui, hay làm con người cao cả, thăng hoa. Một điểm tương đồng khác giữa các vị tu hành với người thầy thuốc là trong cả hai lãnh vực, họ được nhiều cơ hội để chứng kiến và ý thức về sự mong manh của kiến thức, địa vị, đời sống lúc họ chứng kiến những giờ phút yếu đuối nhất của mỗi con người. Chuyện ai ngồi chiếu nào, làm bận tâm giới khoa bang,không quan trọng lắm trong cuộc đời người thầy thuốc. Các khảo cứu cho biết đa số bịnh nhân thích bác sĩ nào đó cũng phần lớn do các cư xử, tận tâm của bác sĩ; bịnh nhân ít câu nệ bác sĩ học trường nào ra và thành tích học thuật có danh giá hay không,những điểm nếu trong môi trường đại học thì xem như quan trọng hàng đầu quyết định "career" của người giáo sư hay bác học tương lai. Khác với sự nghiệp các học giả hay nhà khảo cứu sống trong phòng thí nghiệm hay thư viện, đặt nặng vấn đề resumé dài hay ngắn, công bố bao nhiêu lần, ở đâu, riêng đối với người thầy thuốc lăn lộn với nghề không khác gì người lính nơi tiền tuyến, được gọi "bác sĩ" hay “doctor” chắc cũng quá đủ để định nghĩa cho một đời học hỏi, phục vụ và tìm kiếm.

References :

1) Diplome d'Etat de docteur en médecine

Neuf ans d’études après le bac sont nécessaires pour décrocher le Diplôme d’Etat de docteur en médecine.

Les études comportent 3 cycles :

         1er cycle : PCEM 1 et PCEM 2

         2e cycle : DCEM 1, 2, 3 et 4

         3e cycle : Diplôme d"études spécialisées de 3 ans (médecine générale) à 5 ans (autre spécialité)

...Pour les médecins généralistes, les études en internat durent trois ans. Le diplôme d’Etat de docteur en médecine est validé après la soutenance d’une thèse, à la fin de l’internat.

Admission : bacheliers

http://www.upmc.fr/fr/formations/diplomes/medecine2/diplome_d_etat_de_docteur_en_medecine2.html

2) Wikipedia (English): Agrégation

https://en.wikipedia.org/wiki/Agr%C3%A9gation

accessed 9/16/15

3) Understanding and Evaluating The “Bologna Bachelors Degree”

http://www.wes.org/educators/pdf/BolognaPacket.pdf

(accessed 9/21/2015)

4) Wikipedia (Francais) : Habilitation Universitaire

https://fr.wikipedia.org/wiki/Habilitation_universitaire

Accessed 9/22/2015

5) Lịch sử Trường Đại học Y Hà Nội

http://hmu.edu.vn/LichSu/Lichsu-P1.htm

accessed 12-30-2015

6) Nurse Practitioner ở Wikipedia tiếng Anh

https://en.wikipedia.org/wiki/Nurse_practitioner).

7) Bác sĩ Nguyễn Sơ ĐôngMột chút lịch sử về trụ sở Trường Y Khoa Sài gòn

(bshien.org)

8) Ned Tijdschr Geneeskd. 'La médecine c'est guérir parfois, soulager souvent, consoler toujours'; in search of the origins of an aphorism”

http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/12534104

Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Ngày 30 tháng 12 năm 2015

(Edited for Langhue 1/8/2016)

Thống-Kê Vào Làng

Viet Nam 49.4% Viet Nam
United States of America 22.9% United States of America
Italy 10.5% Italy
Germany 8.5% Germany
Canada 2.6% Canada
Australia 1.4% Australia
France 1.0% France

Total:

68

Countries