"Nếu trong nước hay có loạn là vì nhân-dân bị thiếu-thốn. Từ nay sắp tới, lương-bổng của ta là 500$ một tháng thì ta chỉ lãnh 200$ mà thôi, còn lại 300$ ta giao cho các thầy đem ra giúp-đỡ kẻ nghèo-khó." ** Duy-Tân ** (năm 8 tuổi)

THAM QUAN BẮC NINH

(Những di tích ngàn năm ở đồng bằng sông Hồng).

Chuyến ra Bắc mùa thu 2024 chúng tôi dự trù đi 1 tuần, nhưng kỳ này có thêm cô con gái áp út Ngọc Bích tháp tùng tuy nhiên cô bận việc riêng không thể đi nhiều ngày, chỉ được 2 ngày ở Hà Nội. Do đó chúng tôi chọn những điểm tham quan quan trọng và đặc biệt dành cho cô. Bắc Ninh là điểm tham quan thích hợp nhất, gần Hà Nội có nhiều di tích và thắng cảnh và khi trở về không trễ lắm để còn đưa hai cô con gái Ngọc Bích và Ngọc Ruby đi Grand Park và Ocean Park ở Hưng Yên tối này.

Hợp đồng xe tới trể mấy tiếng hơn 10 giờ sáng mới đến! Thời gian bị thu hẹp nên không thể đi hết các điểm dự tính chỉ đến tham quan được đền Đô nơi thờ 8 vị vua đời nhà Lý và chùa Phật Tích.

1- VIẾNG CHÙA PHẬT TÍCH.

Chùa Phật Tích (Phật Tích tự 佛跡寺) còn có tên là chùa Vạn Phúc (Vạn Phúc Tự 萬福寺), nằm trên sườn núi Phật Tích, thuộc xã Phật Tích, huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh, cách trung tâm Hà Nội không xa lắm chỉ khoảng gần 40 km. (Wikipedia)

Theo tài liệu chùa Phật Tích được khởi công xây dựng từ thời nhà Lý (năm 1057) với nhiều tầng móng xây sâu vào sườn núi và dần lên cao. Chùa là nơi một nhà sư Ấn Độ thường đến đây giảng Pháp.

BacNinh 01LHU

Viếng chùa Phật Tích, di tích ngàn năm ở đồng bằng sông Hồng.

Năm 1066, vua Lý Thánh Tông cho xây thêm một cây tháp cao. Về sau tháp đổ người ta phát hiện ra bên trong tháp có tượng Phật A-Di-Đà bằng đá xanh nguyên khối được dát vàng. Để ghi nhận đó là một sự kỳ diệu nên mọi người đồng ý đổi tên chùa là Phật Tích, từ đó ngôi làng cũ cũng được gọi là làng Phật Tích. Dãy nhà bên phải chùa thờ Bà Chúa người có công lớn trong việc xây chùa và cất đình cho 13 thôn tại khu vực này. Bà Trần Thị Ngọc Am, Đệ nhất cung tần của Chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng, khi bà rời phủ Chúa qui y cửa Phật về tu tại chùa. Trong điện thờ Bà Chúa có câu đối “Đệ nhất cung thần quy Phật địa. Thập tam đình vũ thứ tiên hương”. Dãy bên trái chùa là nhà tổ thờ Đệ nhất Tổ sư Chuyết chuyết Lý Thiên Tộ với pho tượng của Chuyết Công đã kết tỏa lúc đang ngồi thiền (1644), di cốt ấy của ngài còn lưu giử thờ tại chùa.

Bên dưới hành lang bên trái, bên phải là 2 dãy tượng linh thú bằng đá ngàn năm.

Đến đời vua Lê Hy Tông (năm 1686) chùa được xây dựng lại qui mô rất lớn, mái cong, chạm khắc tinh vi theo mỹ thuật Á Đông, chùa đổi tên là Vạn Phúc Tự. Qua đời vua Lê Hiển Tông (1740-1786), một đại yến hội đã được nhà vua mở tiệc trong khung viên chùa.

Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1947) ngôi chùa bị chiến tranh tàn phá sự hưng thịnh và vẻ huy hoàng sau 300 năm của chùa Phật Tích không còn nữa. Khi chiến tranh Đông Dương chấm dứt (1954) chùa được trùng tu dần. Năm 1959, Bộ Văn Hóa cho xây dựng 3 gian chùa nhỏ làm nơi đặt tượng Phật A Di Đà cổ bằng đá quý, sang năm 1962 chùa Phật Tích được công nhận là di tích lịch sử Quốc Gia.

Trãi qua những bước thăng trầm gần ngàn năm, một số di vật quí gía thuộc hàng “Bảo vật Quốc gia” được bảo tồn như tượng Phật A Di Đà bằng đá quí cao 1,86 m, đặt trên bệ hình hoa sen tổng cộng chiều cao là 2,69 m, tháp Phổ Quang cao 5,1 m, dãy 10 tượng linh thú Sư tử, Tê giác, Voi, Trâu, Ngựa, cao khoảng 1 m là các con vật có liên quan đến Đức Phật khi xưa xếp từng đôi đối xứng thành hai hàng trước hai dãy điện bên trái và bên phải, chạm khắc bằng đá sa thạch và là các tác phẫm độc bản. Phía sau chùa là khu mấy mươi ngôi tháp cổ lưu giử di cốt các vị sư trụ trì chùa Phật Tích từ xa xưa.

Trong văn học và văn hóa dân gian có ghi rằng Ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi có bài thơ vịnh cảnh chùa Phật Tích:

Đoản trạo hệ tà dương
Thông thông yết thượng phương
Vân quy thiền sáp lãnh
Hoa lạc giản lưu hương
Nhật mộ viên thanh cấp
Sơn không trúc ảnh trường
Cá trung chân hữu ý
Dục ngữ hốt hoàn vương.

Đào Duy Anh dịch nôm:

Bóng xế thuyền con buộc
Vội lên lễ Phật đài
Mây về giường sãi lạnh
Hoa rụng suối hương trôi
Chiều tối vượn kêu rộn
Núi quang, trúc bóng dài.
Ở trong dường có ý
Muốn nói bỗng quên rồi.

Theo truyền thuyết vào đời vua Trần Thuận Tông (1388-1398), có tích “Từ Thức gặp Giáng Hương” nơi vườn hoa mẫu đơn trong sân chùa Phật Tích: “Từ Thức đi xem hội hoa mẫu đơn, gặp cô gái xinh đẹp khoảng 16, 17 tuổi bị phạt vì tội làm gãy cành hoa. Từ Thức bèn cởi áo xin tha cho tiên nữ. Sau khi Từ Thức từ quan đi du ngoạn các danh lam thắng cảnh khắp nơi, đến động trên núi ở cửa biển Thần Phù gặp lại nàng tiên Giáng Hương …” (Tranh truyện dân gian Việt Nam, nhà xuất bản Kim Đồng).

Ngôi chùa Phật Tích là nơi linh thiêng nhất tại Bắc Ninh đối với tín đồ Phật Giáo, là một di tích ngàn năm đồng thời cũng là một thắng cảnh nên hàng năm có nhiều Phật tử, du khách đến chiêm bái tham quan. Đặc biệt vào các ngày Lễ Hội Chùa Phật Tích từ mùng 3 đến mùng 5 tháng Giêng âm lịch (ngày mùng 4 là chính lễ) tưởng nhớ công đức các bậc tiền nhân thành lập chùa, lễ Phật, thưỡng ngoạn vườn hoa mẫu đơn trong sân chùa, tham dự các trò chơi như chọi gà (đá gà), đấu vật, đánh đu, chơi cờ, hát Quan Họ, v.v…

Trong các ngày lễ Phật Đản, lễ Vu Lan hay khóa tu mùa hè luôn có đông đảo Phật tử và khách thập phương viếng chùa lễ Phật nghe thuyết Pháp.

Hiện nay chùa Phật Tích được kiến trúc với mái cong theo lối truyền thống đình miếu chùa chiềng Việt Nam, chùa có 7 gian Tiền đường, 5 gian thờ Phật, 7 gian thờ Mẩu và 8 gian nhà Tổ. Bên cạnh đó có bảo tháp Linh Quang cao 13 tầng và tượng Phật A Di Đà cao 27 m lấy nguyên mẫu từ bức tượng Phật A Di Đà cổ xưa, bức tượng khổng lồ nặng 3000 tấn uy nghi trên đĩnh núi Phật Tích tạo nên cảnh quan hùng vĩ.

Công trình sửa sang xây dựng lại quần thể chùa Phật Tích khởi công năm 2007, khánh thành năm 2010 kỷ niệm 1000 Năm Thăng Long.

Nhìn lại 1000 năm Thăng Long dưới triều đại nhà Lý, Phật Giáo cực thịnh trở thành Quốc Giáo: “Chùa Phật Tích là nơi hội tụ, kết tinh và lan tỏa Phật giáo Đại Việt trong một thời kỳ lịch sử của dân tộc. Theo một số tư liệu lịch sử ghi chép về chùa Phật Tích, thì đây là nơi có vai trò quan trọng trong việc phát triển Phật giáo ở nước ta”. (Theo trang Web “Chốn Thiêng”).

Dưới triều nhà Lý các vị vua đều tu hành thấm nhuần triết lý nhà Phật, là những vị minh quân trị vì an dân hơn 200 năm một thời gian dài đất nước hùng cường thịnh trị, muôn dân được sống trong cảnh thanh bình, ấm no.

2- THAM QUAN DI TÍCH ĐỀN ĐÔ (BẮC NINH).

Đền Đô khi xưa được gọi là Cổ Pháp Điện hay Đền Lý Bát Đế, tọa lạc tại thị xã Từ Sơn, thành phố Bắc Ninh. Năm 2014 được Bộ Văn Hóa công nhận là di sản lịch sử quốc gia đặc biệt. Là một quần thể kiến trúc tín ngưỡng tâm linh gồm 21 công trình kiến trúc lớn nhỏ, một di sản lịch sử văn hóa quan trọng tại vùng đồng bằng sông Hồng. Nơi thờ 8 vị vua triều Lý (1009-1224), một triều đại huy hoàng rực rỡ trị vì 216 năm nước Đại Việt (Việt Nam ngày nay).

BacNinh 02LHU

Viếng đền thờ Lý Bát Đế - Nhà thủy đình phía trước đền.

Từ thế kỉ thứ 11 đây là nơi thờ tám vị vua nhà Lý.

  • Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ (Giai đoạn 1009-1028)
  • Lý Thái Tông (Giai đoạn 1028-1054)
  • Lý Thánh Tông (Giai đoạn 1054-1072)
  • Lý Nhân Tông (Giai đoạn 1072-1128)
  • Lý Thần Tông (Giai đoạn 1128-1138)
  • Lý Anh Tông (Giai đoạn 1138-1175)
  • Lý Cao Tông (Giai đoạn 1175-1210)
  • Lý Huệ Tông (Giai đoạn 1210-1224)

Triều đại nhà Lý chấm dứt khi vua Bà là Lý Chiêu Hoàng khi ấy mới 7 tuổi truyền ngôi cho đức phu quân là Trần Cảnh (1225), từ đó khởi đầu sự nghiệp của nhà Trần.

Năm 1030, nhân chuyến vua Lý Thái Tông về quê giổ Phụ Hoàng ông ra lệnh cho xây Đền Đô, hiện nay đền đã trãi qua trùng tu và xây dựng lại nhiều lần quan trọng nhất là vào đời vua Lê Kính Tông (1602). Thời chiến tranh Việt Pháp (1952) Đền đã bị hư hại nặng. Đến năm 1989, đền được khởi công xây dựng lại mở rộng thêm nhưng vẫn theo đúng kiểu dáng và kiến trúc của nó ngày xưa. Bản vẻ qui hoạch kiến trúc đền được các nhà nghiên cứu lịch sử căn cứ vào dấu tích còn lại và các tài liệu lưu trữ để phác thảo lại.

Trước đền là hồ bán nguyệt với nhà thủy đình, có cầu đá bắt ra chung quanh chạm khắc tinh tế là một công trình kiến trúc mỹ thuật tạo nên thắng cảnh yên bình tuyệt đẹp. Vào thời Pháp thuộc, ngân hàng Đông Dương đã lấy hình nhà thủy đình in trên tờ tiền 5 đồng.

Thời nhà Lý phát triển đỉnh cao về nghệ thuật với quần thể kiến trúc thành Thăng Long vĩ đại và hoa lệ. Đặc biệt những hiện vật còn lưu lại, hình các linh thú trang trí trên nóc mái và gạch lót cho thấy trình độ mỹ nghệ khá cao của những nghệ nhân và người thợ lành nghề thời Lý. Đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình là Con Rồng được xem là biểu tượng mỹ thuật thời Lý - con rồng chín khúc - không thể nhầm lẫn với các triều đại khác như con rồng thời nhà Nguyễn chỉ có 5 khúc.

Đền Đô gồm khu ngoại thất có nhà chủ tế, nhà khách, nhà kho và đền thờ Vua Bà Lý Chiêu Hoàng, còn gọi là đền Rồng. Khu nội thành, hai bên có điện thờ các quan văn, quan võ có công lớn với đất nước. Điện thờ quan Văn phía bên trái thờ Tô Hiến Thành và Lý Đạo Thành. Bên phải có điện thờ các quan võ như Lê Phụng Hiểu, Lý Thường Kiệt, Đào Cam Mộc là những võ quan có tài thao lược nhiều công trạng lớn lao đối với đất nước.

Đáng chú ý bên ngoài sân đền có 2 văn bia:

  • Một, sắc chỉ dời đô của Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) từ Hoa Lư, Ninh Bình về thành Đại La (sau đổi lại là Thăng Long). Sắc chỉ gồm 216 chữ tương ứng với 216 năm trị vì của nhà Lý:

BacNinh 03LHU

Bia sắc chỉ dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình về Thăng Long của vua Lý Thái Tổ.

Bản dịch tiếng Việt:

Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh 5 lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương 3 lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà 2 nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?

(Bản dịch của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993).

  • Hai, bản văn như là “Tuyên Ngôn Độc Lập” đầu tiên của Đại Việt (Việt Nam):

Bản ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư như sau:

南國山河南帝居
截然分定在天書
如何逆虜來侵犯
汝等行看取敗虛

Nguyên văn Hán –Việt:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Bản dịch của Trần Trọng Kim

Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

Để phát triển đất nước với tầm nhìn sâu rộng của các vua nhà Lý không chỉ phát triển kinh tế ấm no cho dân mà quân đội cũng được được tổ chức hùng mạnh:

Năm 1069, Lý Thánh Tông đánh thắng Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Cuối cùng vua Chế Củ phải đầu hàng, dâng 3 châu Bố Chính, Ma Linh và Địa Lý (vùng đất từ dãy Hoành Sơn đến dãy Bạch Mã tương ứng với Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế ngày nay) hầu chuộc tội để được tha về nước, Đại Việt mở rộng thêm lãnh thổ về phương nam.

  • Năm 1075, khi biết tin giặc chuẩn bị quân lương tấn công nước ta tướng Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đánh sang nước Tống hạ thành Châu Khâm và Châu Liêm mộng xâm lăng của giặc bị phá tan.
  • Năm sau 1076, nhà Tống đem 10 vạn quân tinh nhuệ mở cuộc tấn công xâm lược tuy nhiên quân Tống lại đại bại trước phòng tuyến sông Như Nguyệt do tướng Lý Thường Kiệt và quân dân Đại Việt phòng thủ quyết chiến, từ đó nhà Tống không còn ý đồ thôn tính Đại Việt nữa mạn phía Bắc được yên.

Về văn học và đào tạo cũng như tuyển chọn hiên tài cũng được chú trọng, năm 1070 mở trường đại học đầu tiên là Văn Miếu và năm 1076 trường Quốc Tử Giám. Năm 1075 tổ chức khoa thi đầu tiên tuyển chọn hiền tài, Minh kinh Bác học Lê Văn Thịnh (khi đó chưa gọi là Trạng Nguyên) là người đỗ đầu tiên. Từ đó triều đại nhà Lý có những danh thần như: Lê Văn Thịnh, Bùi Quốc Khái, Doãn Tử Tư, Đoàn Văn Khâm, Lý Đạo Thành, Tô Hiến Thành, v.v... đã góp sức lớn về văn học cũng như chính trị, tạo nên một nền văn hiến rực rỡ của triều đại nhà Lý.

3- BẮC NINH ĐỊA LINH NHÂN KIỆT.

Bắc Ninh là mảnh đất “Địa linh, Nhân Kiệt” với câu vè mang tính ước lệ nói về các vị tài danh xứ Kinh Bắc:

"Một giỏ ông Đồ/ Một bồ ông Cống/Một đống ông Nghè/ Một bè Tiến sỹ/Một bị Trạng nguyên/Một thuyền Bảng nhãn"!

Thật là một điều thú vị khi đến viếng Kinh Bắc, qua câu vè gợi ý để đi tìm hiểu thêm được biết đất Bắc Ninh có nhiều khoa bảng nhất nước! Trong lịch sử, qua các kỳ thi Đình dưới những triều đại vua chúa, cả nước được chọn 47 Trạng Nguyên, 2992 Tiến sĩ thì Kinh Bắc có đến 17 Trạng Nguyên và 622 Tiến sĩ, một con số đáng kinh ngạc.

Các Trạng nguyên người Bắc Ninh bao gồm:

  • Thủ khoa Minh kinh Bác học Lê Văn Thịnh (1075) - Người đứng đầu khoa thi đầu tiên trong lịch sử quân chủ Việt Nam khi chưa có danh hiệu Trạng Nguyên. Sau đó Ông được trong dụng, đến đời vua Lý Nhân Tông (1085) Ông được ban chức Thái Sư (chức quan đứng đầu triều đình).
  • Nguyễn Quan Quang - Trạng nguyên đầu tiên (bắt đầu gọi là Trạng nguyên) (1234) - Tam Sơn.
  • Lý Đạo Tái (1272) - Tổ thứ ba (Huyền Quang) của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
  • Lưu Thúc Kiệm (1400).
  • Nguyễn Nghiêu Tư (1448) - Trạng Lợn, Lưỡng quốc Trạng nguyên.
  • Vũ Kiệt (1472).
  • Nguyễn Quang Bật (1484).
  • Nghiêm Hoản (1496).
  • Nguyễn Giản Thanh (1508) - Trạng Me.
  • Ngô Miễn Thiệu (1518) - Trạng nguyên - Tam Sơn.
  • Hoàng Văn Tán (1523).
  • Nguyễn Lượng Thái (1553).
  • Phạm Quang Tiến (1565).
  • Vũ Giới (1577).
  • Nguyễn Xuân Chính (1637).
  • Nguyễn Đăng Đạo (1683) - Trạng Bịu, Lưỡng quốc Trạng nguyên.

Trong số có 2 Lưỡng Quốc Trạng nguyên Đại Việt -Trung Hoa:

+ Một, là Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo (1683), tục gọi là Trạng Bịu.

BacNinh 04LHU

Điện thờ Trạng Nguyên Nguyễn Đăng Đạo (Ảnh Internet).

Ông là con của Tiến sĩ Nguyễn Đăng Minh, anh của Tiến sĩ Nguyễn Đăng Tuấn và là cháu của Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo. Hiện nay đền thờ “Lưỡng quốc Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo” tại (thôn Hoài Thượng, xã Liên Bão, huyện Tiên Du) được khởi dựng vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVII.

“Tháng giêng năm Đinh Sửu (1697), triều đình sai Chánh sứ là Nguyễn Đăng Đạo và Nguyễn Thế Bá làm Phó sứ sang Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay) nộp thuế cống và dâng quốc thư xin vua Thanh trả đất ba động biên giới phía bắc. Nguyễn Đăng Đạo đã trình bầy những bằng chứng và bản đồ để chứng minh ba động đó là của Đại Việt (Việt Nam). Tuy chưa đòi được đất nhưng thư của vua Nam đã đến tận tay vua Thanh. Những lý lẽ của Nguyễn Đăng Đạo làm cho vua Thanh phải để ý đến việc đất đai vùng biên giới và phải khen tài ứng đối, biện bác xuất sắc của Nguyễn Đăng Đạo đã thể hiện văn tài của trạng nguyên nước Nam, nên theo tương truyền, đã phong cho Đăng Đạo là Lưỡng quốc Trạng nguyên”. (Wikipedia).

+ Hai, là Trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư (1448) Ảnh Internet.

Ông Nguyễn Nghiêu Tư có cha làm nghề thịt lợn, ông lại sinh vào tháng tháng 10 âm lịch (tháng Hợi) nên cậu được gọi là "cậu Lợn". Sau đó, khi ông đỗ trạng nguyên thì được người đời gọi là Trạng Lợn. Ông hiệu là Tùng Khê người xã Phù Lương, huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc.

Đặc biệt, Trạng Nguyễn Nghiêu Tư có nhiều giai thoại nổi tiếng về tài năng ngoại giao. Sách “Những bậc hiền nhân trong lịch sử Việt Nam” ghi lại về việc Trạng Lợn giúp đỡ nhà Minh lập đàn cầu mưa chống hạn hán, nhờ tài ứng đối hơn người:

“Ngày ấy, hạn hán kéo dài ở Trung Quốc, nhân có Trạng Lợn sang thăm, vua Minh mời cầu đảo để thử tài. Trạng nhận lời, yêu cầu dựng đàn uy nghiêm để ông cầu đảo. Mục đích là kéo dài thời gian. Khi thấy cỏ gà lang, trạng bèn lên đàn làm lễ, khấn theo cách nói lái: "Hường binh, hòa binh, tam tinh, kẹo tinh, bát tinh, linh tinh tinh... Vua Minh nghe thấy bái phục trạng uyên thâm, tỏ tường thiên văn, thuộc hết ngôi thứ các vị tinh tú. Khóa lễ vừa xong, lập tức mưa như trút nước, khiến vua càng phục hơn".

Trạng Nguyễn Nghiêu Tư là Sứ thần đất Việt từng “giải hạn” cho vua nhà Minh nên được phong làm Trạng nguyên Lưỡng quốc.

Bắc Ninh là tỉnh nhỏ nhất nước nhưng có chừng ấy nhân tài đóng góp không nhỏ công sức xây dựng đất nước, đúng là vùng đất xứng đáng được mệnh danh là “Địa linh, Nhân kiệt”.

4- DÂN CA QUAN HỌ.

Dân ca Quan Họ còn gọi nôm na là hát Quan Họ, đó là làn điệu dân ca đặc trưng của vùng châu thổ sông Hồng, rõ hơn là vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang) khi xưa, có dòng sông Cầu chãy qua nên con sông còn được gọi là “Dòng sông Quan Họ”. Có ý kiến cho rằng hát Quan Họ bắt nguồn từ sinh hoạt văn hóa dân gian trong các dịp lễ tết, hội hè phổ biến trong dân gian như một nét văn hóa sinh hoạt bình thường của người dân quê hương Bắc Ninh.

BacNinh 05LHU

Một buổi trình diễn hát Quan Họ trước sân đền.

Hát Quan Họ còn gọi là chơi Quan Họ nên không cần khán giả, người trình diễn cũng là người thưởng thức. Hát theo tốp giữa các nhóm “liền anh” và “liền chị” thường theo từng tốp hay thôn xóm. Quan Họ truyền thống chú trọng nguyên tắc trong các bài hát, từ lời ca, phong cách biểu diễn, trang phục phải tuân theo qui tắc nhất định (Khăn mỏ quạ, nón quai thao, áo tứ thân cho nữ và khăn đóng áo dài cho nam).

Những bài hát truyền thống đến tận ngày nay vẫn được ưa thích như: Ngồi tựa sông đào, Lý cây đa, Cây trúc xinh, Xe chỉ luồn Kim, Cò lã (dân ca quan họ Bắc Ninh), Người ơi đừng về, Lý gieo duyên, Bạn tình ơi, Chàng buông vạt áo em ra, v.v…

Chắc mọi người đều biết hai câu thơ được cho là Ca Dao:

- Người về có nhớ ta chăng?
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.

Hay:

- Trúc xinh trúc mọc bờ ao,
Em xinh em đứng chổ nào cũng xinh.

Đấy, đấy! Câu ca dao “Người về có nhớ ta chăng, Ta về ta nhớ hàm răng mình cười” là từ bài hát dân ca Quan Họ “Cò Lã”:

Con cò là Cò bay lả ả a á a Lả lả bay la
Bay từ ... là từ cửa phủ
Bay ra là ra cánh đồng
Tình tính tang là tang tính tình
Cô mình rằng: Ơi anh chàng ơi.
Rằng có nhớ là nhớ hay không?
Rằng có biết là biết hay không?
Người về là về có nhớ ờ ớ ơ.
Nhớ nhớ ta chăng
Ta về là về ta nhớ
Hàm răng chứ răng mình cười
Tình tính tang là tang tính tình.
Cô mình rằng: ơi anh chàng ơi
Rằng có nhớ là nhớ hay không?
Rằng có biết là biết hay không?
Năm quan đổi lấy í i lấy í i miệng cười (…).

Và bài “Cây Trúc Xinh” thì có “Trúc xinh trúc mọc bờ ao, Em xinh em đứng chổ nào cũng xinh”.

Cây trúc xinh tang tình là cây trúc mọc
Qua í lới nọ như bờ ao
Chị Hai xinh tang tình là chị Hai đứng
Đứng nơi nào qua lới như cùng xinh
Đứng đứng nơi nào qua lới như cùng xinh
Cây trúc xinh tang tình là cây trúc mọc
Qua í lới nọ như bên đình
Chị Hai xinh tang tình là chị Hai đứng đứng một mình
Qua lới như càng xinh
Đứng đứng một mình qua lới như càng xinh (…).

Hát Quan Họ thường chỉ đơn giản hát đối đáp giữa sân đình, sân nhà, cửa chùa, dưới gốc đa hay trên thuyền thì chỉ cần hai bên có số lượng người ngang nhau là được, không có nhạc. Khi biểu diễn chuyên nghiệp trên sân khấu thì có dựng kịch bản sẵn, có thể hát đơn, hát đôi, tốp hát số người được sắp xếp trước hoặc có thêm múa phụ họa cùng với ban nhạc. Cách hát Quan Họ mới hiện nay chủ yếu là đề tài những buổi kết nghĩa, thăm hỏi, thố lộ tình cảm, trêu ghẹo giửa đôi bên.

Hiện nay để gìn giử và lưu truyền những giá trị văn hóa đặc sắc Bắc Ninh, Sở Văn Hóa Tỉnh mở các Câu Lạc Bộ Hát Quan Họ để truyền bá cho thế hệ sau này. Sở Giáo Dục Tỉnh cũng đề nghị có giờ dạy môn Hát Quan Họ trong chương trình học tại các trường ở tỉnh nhà.

Hát Quan Họ là loại hình thức sinh hoạt văn hóa độc đáo Bắc Ninh, là di sản văn hóa phi vật thể có gía trị cao, năm 2009 cơ quan UNESCO công nhận và đưa Hát Quan Họ vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể, đại diện của nhân loại (cùng với Cồng Chiêng Tây Nguyên, Ca Trù, và Nhã Nhạc Cung Đình Huế).

***

Ngày đầu từ Hà Nội trong chuyến đi ra Bắc mùa thu 2024, chúng tôi xuất phát đi tham quan Bắc Ninh, một tỉnh có diện tích nhỏ nhất tại miền Bắc nhưng có chiều dày lịch sử không nhỏ: Ngôi chùa Phật Tích một di tích trãi qua gần ngàn năm một thời đạo Phật được tôn kính trở thành quốc giáo; Cuộc đất phát tích Nhà Lý một triều đại rực rỡ phát triển mọi mặt từ văn hóa mỹ thuật, giáo dục, kinh tế xã hội, quân lực hùng mạnh, mở mang thêm bờ cõi, trị vì 216 năm (1010-1225); Bắc Ninh là vùng đất được mệnh danh là địa linh nhân kiệt có con dân đỗ đạt Tiến sĩ, Trạng nguyên, Bảng nhản, Thám hoa, v.v… nhiều nhất nước; Bắc Ninh còn là quê hương của bộ môn Hát Quan Họ nổi tiếng vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang).

Thật tiếc quá, không đủ thời gian đến viếng đình làng Đình Bảng cũng là di tích ngàn năm với những chạm khắt tinh vi sắc xảo đỉnh cao của nghệ thuật dưới triều đại nhà Lý huy hoàng; Chùa Dâu rêu phong cổ kính và thành cổ Bắc Ninh một trong tứ trấn trấn thủ 4 phía bảo vệ thành Thăng Long như phía bắc có thành Bắc Ninh, phía Nam thành Nam Định, phía Tây thành Sơn Tây và phía Đông thành Hải Dương đều là những di tích ngàn năm.

Nếu có thời gian nên một lần đến viếng qua Bắc Ninh để khám phá, học hỏi, mở mang thêm kiến thức về văn hóa nghệ thuật, lịch sử, thắng cảnh và chắc chắn chuyến đi sẽ có những điều kỳ thú bất ngờ nơi đất Kinh Bắc ngàn năm dành cho du khách tham quan.

Lê Hữu Uy

Tài liệu tham khảo: Khảo sát thực tế, tập san Ngàn Năm Thăng Long, trang Web Chốn Thiêng và Wikipedia.
(Bài viết kỷ niệm ngày thứ nhất trong chuyến ra Bắc mùa thu – Nov 2024).

 

Thống-Kê Vào Làng

Viet Nam 49.4% Viet Nam
United States of America 22.9% United States of America
Italy 10.5% Italy
Germany 8.5% Germany
Canada 2.6% Canada
Australia 1.4% Australia
France 1.0% France

Total:

68

Countries