"Quân lính cốt hòa-thuận, không cốt đông; cốt tinh-nhuệ, không cốt nhiều. Người khéo thắng là thắng ở chỗ rất mềm-dẻo, chứ không lấy mạnh đè yếu, nhiều hiếp ít." ** Quang-Trung **


VIẾNG THĂM XỨ NGHỆ

 

NA 01 LHU

 Công viên biển Cửa Lò biểu tượng của thành phố Vinh (Nghệ An).

Chuyến đi Việt Nam không dự trù trước, tháp tùng với sếp tui cùng vợ chồng đứa con gái định về thăm ngoại.
Là dịp để tiếp tục hành trình “Trên con đường cái quan”. Ông già gần 80, ngủ tạng lục phủ đều có vấn đề con cháu đâu muốn cho ông đi xa một mình, nếu đi đâu cần có người theo hộ giá, kẻo …! Cần người có thời gian du hành nhiều ngày, có khả năng giúp tổ chức chuyến đi xa ở nhiều nơi chưa từng đến.
Do đó tui phone ngay cho cô con gái Út Ngọc Ruby để thông báo ý định chuyến đi. Cô bé ngạc nhiên có vẻ lo lắng:
     - Ba về có việc chi gấp vậy ba?
     - Ba chẳng có việc gì hết đi ké “phái đoàn gia đình” về thăm quê thôi, đi cùng cả nhà. (Hihi)
     - Vậy là con sắp sửa được đi du lịch nữa rồi, cảm ơn ba. Ba có dự định đi đâu chưa?
     - Hôm trước ba có bàn với con mình cần 3 chuyến đi tham quan cho đủ những nơi quan trọng trên quê nhà:

        1- Miền Tây Nguyên (Kontum, Pleiku, Đắc Lắc, Buôn Mê Thuộc).
        2- Duyên hải Trung Phần một vài nơi mình chưa đi như Quảng Ngãi, Bình Định, Tuy Hòa, Ninh Thuận.
       3- Vùng duyên hải vịnh Bắc Bộ mỗi nơi đều có nhiều di tích ngàn năm: Nghệ An (Đền Cuông thờ An Dương Vương), Thanh Hóa (Lam Kinh nơi phát tích nhà Lê - Vua Lê Lợi), Nam Định (Đền thờ 14 vị vua đời nhà Trần), Hải Dương (Đền Kiếp Bạc thờ đức Thánh Trần Hưng Đạo), Hải Phòng (Chùa Hang là nơi đầu tiên Phật Giáo truyền vào Việt Nam) và Quảng Ninh (Vịnh Hạ Long, kỳ quan thế giới).

     - Ba, vùng nào con thấy cũng đều đặc biệt hấp dẫn đáng để đi tham quan, nhưng theo con hãy chọn vùng duyên hải vịnh Bắc Bộ nó phù hợp để hoàn tất đề tài ba đang viết “Tìm về dòng lịch sử cội nguồn”. Miền duyên hải Trung Phần và Miền Tây Nguyên để ba về chuyến sau mình hãy đi. Sao ba không chọn điểm xuất phát từ Hà Tỉnh?
     - Mình bị hạn chế thời gian, Hà Tỉnh có nhiều thắng cảnh nhưng ít di tích quan trọng lại không có đường bay từ Cần Thơ, nếu mình bay ra thành phố Vinh phải đi ngược trở vô Hà Tỉnh. Con có biết khi xưa Nghệ An và Hà Tỉnh là một tỉnh mang tên Nghệ-Tỉnh? Hai tỉnh này chia cách bởi dòng sông Lam nó có lịch sử, văn hóa và cả phương ngữ, phương âm tương đồng đó.
     - Dạ, vậy đi, con sẽ sắp xếp lịch trình cho chuyến đi.
     - Cảm ơn cô con gái Út yêu quí của Ba!

***

     A- ĐẾN THÀNH PHỐ VINH.

Ngọc Ruby và Ba của nó xuống phi trường (sân bay) quốc tế Vinh thuộc xã Nghi Xuân cách thành phố Vinh tỉnh Nghệ An khoảng 7 km vào buổi sớm mai đầy sương mù.
Mặc dù sân bay Vinh được gọi là sân bay quốc tế, nhà ga có hai tầng tuy nhiên thuộc loại 4C, cải tạo từ sân bay củ từ thời Pháp thuộc năm 1937. Ngày nay sân bay Vinh tiếp nhận được các loại A320, A321 (loại phản lực) và ATR72 (loại động cơ cánh quạt).
Xuống sân bay Vinh chúng tôi lấy Taxi hợp đồng chạy chuyến. Đầu tiên tìm đến quán ăn đặc sản xứ Nghệ, vài con đường trong thành phố có rất nhiều quán bán món lươn đây đó khắp nơi. Chúng tôi chọn quán Hồng Sơn ở số 154, đường Mai Hắc Đế, TP. Vinh tương đối sạch sẽ đông khách, chuyên bán các món lươn như: súp lươn, cháo lươn, miến lươn, lươn xúc bánh đa, lươn om chuối đậu, lươn nướng vừa để thưởng thức đặc sản và cho bữa điểm tâm vì đi từ sớm chưa có gì bỏ bụng.
Cô Út Ngọc Ruby vui đùa: “Mình không ăn sáng ở Cần Thơ để dành bụng ra Nghệ An ăn món miến lươn, há ba! Các món lươn mà thiên hạ đồn rằng đó là món truyền thống danh bất hư truyền của con dân xứ Nghệ An-Hà Tỉnh”.
Hai tía con nhà tui đã đi qua nhiều tỉnh thành tại Việt Nam làm quen với các món đặc sản địa phương nên dù hương vị thức ăn thế nào cũng cảm nhận được cái ngon, cái thú vị ở từng nơi.
Ngọc Ruby chọn Lan Chau Luxury Hotel (khách sạn Lan Châu) bên bải biển Lan Châu đối diện đảo Lan Châu cũng là một thắng cảnh của Nghệ An. Khách sạn Lan Chau Luxury 4 sao, nhưng chúng tôi ngạc nhiên khi bước vào hành lang thì sàn nhà đẩm nước, vào sảnh đường cũng bị ẩm ướt luôn. Sau khi tìm hiểu do khí hậu không được khô ráo vì có Nồm từ hôm qua đến nay, một loại hình thái trong không khí đầy những hạt nước li ti khắp mọi nơi nhà cửa tiệm quán không đóng kín cửa sẽ bị “nồm” viếng thăm. Nồm không giống mưa phùn do đó nó có thể len lỏi khắp các ngỏ ngách đọng lại trên bàn ghế, lép xép nước trên sàn nhà.

     B- VÀI THẮNG CẢNH VÀ DI TÍCH Ở NGHỆ AN.

Đến giờ hẹn với tài xế đưa chúng tôi tham quan những thắng cảnh và các di tích lịch sử nhiều trăm năm tại Xứ Nghệ.
Sau khi trao đổi với bác tài ý định của chúng tôi, bác tài cho biết chỉ còn lại một số điểm quan trọng ở gần, thuận tiện có thể đi được trong ngày như: Đảo Lan Châu, biển Cửa Lò, di tích Đền Cuông, lăng mộ Thái Cương Quốc Công Nguyễn Xí, lăng mộ Thành hoàng Cửa Lò Nguyễn Sư Hồi, Làng Sen và đền Chung Sơn.
Các nơi ở vị trí xa hoặc không thuận tiện như: VinWonders Cửa Hội, Hòn Ngư (thời tiết xấu không nên đi), di tích cổ thành Tây Đô - Thành nhà Hồ (xa hơn 40 km), đền vua Mai Hắc Đế, đền Ông Hoàng Mười, chùa Hương Tích Nghệ An, Vườn Quốc gia Pù Mát, khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống đẹp nhưng không đủ thời gian để đi.

         1- Biển Lan Châu,

NA 02 LHU

Một góc biển Lan Châu.

Từ khách sạn ngang qua con đường ven biển chừng vài trăm mét, đảo Lan Châu cũng ngộ khi mựt nước biển dâng lên thì trở thành đảo, lúc thủy triều rút xuống con đường cát từ bờ nối liền đảo hiện ra nên rõ ràng là hình ảnh của một bán đảo.
Biển Lan Châu là một phần nối dài của khu du lịch biển Cửa Lò trung tâm thành phố Nghệ An bải biển dài khoảng 10 km cát trắng mịn màng. Người dân địa phương gọi đảo Lan Châu là đảo Cóc Rú, do hòn đảo có hình dáng con cóc đang vươn mình ra biển khơi.
Cô Ngọc Ruby than phiền là từng đi theo ba của nó nhiều nơi nhưng ba chỉ lo ghi hình làm tài liệu nên cô không có nhiều hình mặc dù đi gần giáp hết những địa danh nổi tiếng trên quê hương. Kỳ này ba của nó “tỉnh ngô” mấy năm rồi quên con bé luôn tích cực giúp ông gìa hết lòng xuôi ngược Bắc Nam.
“- Sorry con! từ chuyến đi này con sẽ có những tấm hình kỷ niệm từng nơi mình đi qua. Có điều không may là nồm trãi dài khắp vùng vịnh Bắc Bộ nên hình ảnh trong suốt chuyến đi không được đẹp!”

        2- Biển Cửa Lò,
Biển Cửa Lò là một thắng cảnh, là trung tâm kinh tế phồn thịnh của tỉnh Nghệ An cũng như của vùng Bắc Trung Phần. Nghệ An là cầu nối giửa Miền Bắc và Miền Trung với đường xe lửa và quốc lộ 1 xuyên Việt Bắc Nam, có cảng hàng không Vinh, cảng Cửa Lò là cửa ngỏ trao đổi hàng hóa với nước ngoài bằng đường biển của Myanmar, Thái, Lào sang Việt Nam. Từ tĩnh Xiengkhuang bên Lào ngang qua cửa khẩu biên giới Nậm Cắn (xã Nậm Cắn, huyện Kỳ Sơn, Nghệ An) để vào lãnh thổ Việt Nam rồi theo quốc lộ 7 thẳng đến cảng Cửa Lò. Thế đất phía tây tĩnh Nghệ An nhiều đồi núi nơi cư trú đông đảo các dân tộc ít người như Thái, Lào, H’Mong, Khơ Mú, Ơ Đú, v.v… họ chung nhau cùng sinh sống (Dân số người dân tộc khoảng 500.000 cư dân). Vùng phía Đông tiếp giáp biển có những khu đồng bằng hẹp là nơi người Kinh lập làng trù phú.

        3- Đền Cuông,

NA 03 LHU

 Đền Cuông tại núi Mộ Dạ, Diễn Châu, Nghệ An.

Đền Cuông (Con Cuông) nằm trên núi Mộ Dạ, thuộc xã Diễn An, huyện Diễn Châu cách thành phố Vinh 30 km về phía bắc. Đền Cuông thờ An Dương Vương lập nên nước Âu Lạc, tiếp nối sau vua Hùng lập nên nước Văn Lang. Đền Cuông gắn liền với truyền thuyết An Dương Vương bị Thục Phán đánh bại chạy đến núi Mộ Dạ thế cùng lực kiệt ông cùng tướng Cao Lỗ và 50 binh sĩ tùy tùng đều tuẩn tiết. Đền Cuông cũng là nơi thờ tướng Cao Lỗ (với chiếc nỏ thần) và nàng Mỵ Châu trong chuyện tình trái ngang với Hoàng tử Trọng Thủy nước Thục.
Hàng năm có lễ hội Đền Cuông vào ngày 13-14 và 15 tháng Giêng (Âm lịch) để tưởng nhớ công đức tiền nhân. Không thấy tài liệu nào cho biết Đền Cuông được xây dựng từ bao lâu chỉ biết đến đời vua Tự Đức (1864) đền Cuông được trùng tu qui mô như ngày nay.
Chúng tôi đến đền Cuông trong lúc đang chuẩn bị lễ hội cho ngày hôm sau, tiếc thật! Được cụ Cao Công một vị lão thành trong đền trên 80 niềm nở tiếp đón khi nghe giọng miền Nam biết là khách phương xa về đây chiêm bái. Qua cụ biết thêm được nhiều điều linh thiêng của đền Cuông, về truyền thuyết An Dương Vương, chiếc nỏ thần, chuyện tình Mỵ Châu và Trọng Thủy, về nét sinh hoạt của người Nghệ-Tĩnh.
Tên đền Cuông thật ra phải gọi cho đúng và đầy đủ là đền Con Công, bởi vì vùng đất này có hình dáng như con công mà đầu là núi Mộ Dạ tại đây được xây dựng đền. Cách phát âm tiếng “Công” của người bản địa thành “Cuông” gọi tắc là đền Cuông.

        4- Đền Chung Sơn và làng Sen,
Làng Sen còn có tên là Kim Liên (sen vàng) hai bên con đường vào làng có trồng nhiều sen cũng là nơi có ngôi chùa cùng tên. Có nhiều ngôi nhà tranh vách liếp tre được cất từ năm 1901 trong đó có ngôi nhà của ông Nguyễn Sinh Sắc cha của Hồ Chí Minh khi ông thi đỗ Phó Bảng.
Đền Chung Sơn tại núi Chung là nơi thờ tự tổ tiên Hồ Chí Minh tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn (Nghệ An).

      5- Lăng mộ Nguyễn Xí, Thái Sư Cương Quốc Công,
Danh tướng Nguyễn Xí (1397-1465), khai quốc công thần nhà Hậu Lê. Ông từng giử các chức vụ quan trọng đầu triều qua 4 đời vua nhà Hậu Lê:
+ Ông tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ thời trai trẻ, lập nhiều chiến công hiển hách từng tham dự các trận quyết định chiến thắng quân Minh: Tốt Động, Chúc Động, chiến dịch Đông Quan.
+ Nhiếp chính và giáo dục vua Lê Thái Tông khi ấu vương mới 10 tuổi (1433).
+ Phò Thái tử Bang Cơ lên ngôi – Vua Lê Nhân Tông. Sau vụ án Lệ Chi Viên vua Lê Thái Tông băng hà (1442).
+ Sự việc Lạng Sơn Vương làm binh biến Ông cùng các đại thần dẹp phản loạn đưa Lê Tư Thành là vua Lê Thánh Tông lên ngôi trị vì 38 năm đất nước yên bình thạnh trị.
Danh tướng Nguyễn Xí giử tước vụ sau cùng là Thái Sư Cương Quốc Công.

      6- Lăng mộ Thành hoàng Cửa Lò Nguyễn Sư Hồi,
Cửa Lò là một thắng cảnh biểu tượng của Nghệ An mà du khách thường đến viếng qua. Nhưng ít người biết vị Thành Hoàng Cử Lò là như thế nào?
Tướng Nguyễn Sư Hồi (1417-1477), với tước phong Thái Bảo Phò Mã Đô Úy Tổng Đô Đốc Hải Binh Thượng Tướng Quân (Tư lệnh lực lượng Hải Quân) dưới triều Hậu Lê trông coi việc canh phòng 12 cửa biển (Trấn thủ thập nhị hải môn) trên toàn đất nước.
Sau khi mãn phần Ông được vua phong Thành Hoành Cửa Lò.

     C- NGHỆ TỈNH VÙNG ĐẤT CỔ XƯA

Theo cổ tích vùng Nghệ An – Hà Tỉnh thuộc nước Việt Thường kinh đô ở quanh khu vực chân núi Hồng Lĩnh. Cũng là vùng đất của cư dân Đông Sơn với di chỉ Làng Vạc. Tại đây vào năm 1991 ngành khảo cổ phát hiện được tổng cộng 347 ngôi mộ. Làng Vạc là khu mộ táng lớn nhất cung cấp nhiều dữ liệu thuộc nền văn minh “Trống đồng Đông Sơn” phát xuất từ vùng châu thổ đồng bằng sông Hồng.
Năm 1930 các di chỉ Văn Hóa Quỳnh Văn (xã Quỳnh Văn, huyện Quỳnh Lưu) được xác định là khu vực định cư của nhóm dân ven biển biết làm đồ gốm bắt đầu từ cách đây 6000 năm, chấm dứt cách nay 4000 năm.
Thời kỳ hậu đồ đá mới tìm thấy các di chỉ tại hang Thẩm Hoi (theo tiếng đồng bào dân tộc Thái là hang Ốc) và hang Đồng Trương. Nhiều đợt khai quật sau này vào các năm 1963, 1976, 1979 tại 21 điểm cũng thuộc huyện Quỳnh Lưu. Những dấu tích cư trú của cư dân bao gồm bếp, một táng, dụng cụ bằng đá và xương, mảnh gốm thô, nhiều vỏ nhuyển thể cho thấy đời sống gắn liền với biển và hoạt động săn bắt, hái lượm của người thời tiền sử.
Thời Hùng Vương, Nghệ An thuộc bộ Hoài Hoan và bộ Cửu Đức là một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Địa danh Nghệ An được đặt vào năm 1030 dưới triều vua Lý Thái Tông khi nhà vua cho thay đổi tên từ địa danh Hoan Châu củ.
Số phận lận đận của Nghệ An – Hà Tĩnh bị chia cắt rồi sáp nhập, sáp nhập rồi chia cắt. Năm 1831, vua Minh Mạng chia trấn Nghệ An thành 2 tỉnh: Nghệ An (bắc sông Lam) và Hà Tĩnh (nam sông Lam). Năm 1976 đến 1991, Nghệ An và Hà Tĩnh sáp nhập thành một tỉnh- Nghệ Tĩnh. Từ năm 1991, lại tách ra thành 2 tỉnh là Nghệ An và Hà Tĩnh. Năm 2025 ông Tô Lâm cho cải tổ hành chánh hủy bỏ cấp huyện và sáp nhập từ hơn 50 tỉnh thành nay còn 34, tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh may mắn trong số các tỉnh không bị sáp nhập mất tên.
Núi Hồng Lĩnh nằm giữa địa phận Thị xã Hồng Lĩnh và ba huyện Nghi Xuân, Can Lộc và Lộc Hà. Sườn phía Bắc núi Hồng Lĩnh nằm dọc theo Sông Lam. Núi Hồng Lĩnh là số rất ít các địa danh được khắc vào một trong Cửu đĩnh (9 đỉnh đồng) năm Minh Mạng thứ 7, 1836. Cửu đỉnh chạm nổi hình ảnh những danh lam thắng cảnh trong cả nước hiện đặt trước sân điện Thái Miếu trong hoàng thành Huế.
Núi Hồng Lĩnh còn có sự tích công chúa Diệu Thiện qui y cửa Phật xây dựng nên ngôi chùa Hương Tích Hà Tĩnh từ đời nhà Trần, thờ Phật và Công chúa tại xã Thiên Lộc, huyện Thiên Phúc là một thắng cảnh mà người dân thường đến cúng bái, thưởng ngoạn cảnh đẹp thanh tịnh nơi thiền môn.

NA 04 LHU

Bản đồ Việt Nam thời vua Minh Mạng (1838).

Trước thời Pháp thuộc vùng Nghệ An - Hà Tĩnh rộng lớn bao trùm nhiều phần đất bên xứ Lào, vào các năm 1895 và 1903 người Pháp cắt nhiều phủ huyện xứ Trung Kỳ nhập vào xứ Lào, như các vùng: phủ Trấn Biên (khoảng phía Đông Nam tỉnh Houaphanh), phủ Trấn Ninh (Xiengkhuang), (phủ Trấn Định (Bolikhamxay, Khammuon), ...
Ngoài ra, Nghệ An là một tỉnh lớn quan trọng nằm ở Bắc Trung Bộ, nơi có lịch sử lâu đời từng là Thủ Đô của hai triều đại:
+ Vua Mai Thúc Loan – hiệu Mai Hắc Đế (670-723) vị anh hùng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống giặc nhà Đường lấy Hoan Châu thuộc Nghệ An làm kinh đô, xây thành Vạn An ở Sa Nam (Nam Đàn).
+ Vua Quang Trung Nguyễn Huệ (1788), truyền chiếu chỉ cho La Sơn Phu Tử Nguyễn Tiếp xây dựng kinh đô tại Nghệ An.
Nghệ An - Hà Tĩnh còn là quê hương của các danh nhân thời cận đại như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Nguyễn Duy Trinh, … và lãnh đạo Cộng sản Hồ Chí Minh.

     D- DÂN CA HÁT VÍ, GIẶM XỨ NGHỆ

Khi nghe bài hát “Hà Tĩnh Quê Ơi” phỏng thơ của Quốc Anh qua tiếng hát của ca- nhạc sĩ A Páo (Ngô Sỹ Ngọc) và ca sĩ Vân Anh song ca ngọt ngào, rung cảm, tình tự quê hương, cao vút đúng chất giọng người Nghệ Tĩnh từng làm xao động hàng triệu trái tim mấy năm qua. Nghe bài hát này hai tía con nhà tui nghĩ đến chuyến tham quan vùng Nghệ-Tĩnh để thưởng thức làn điệu dân ca hát Ví hát Giặm hay ít ra cũng có lần đặt chân đến xứ sở của bộ môn dân ca miền Bắc Trung Phần này.

“Tuổi thơ anh…tuổi thơ anh mẹ ru bên cánh vọng…
gió đung đưa cây khế sau nhà
Để người đi… mang nổi niềm thương nhớ…
Ôi quê nhà… muối nắng hai sương…
Ơi quê nhà…nhút mặn …cà chua…

Có bao giờ anh viết được vần thơ
Trước mắt anh là trời xanh là biển rộng
Đêm trăng lên nghe câu hò em hát
Thương cha ra đồng bắt con tép con cua
Nuôi con nên người vai mẹ gầy khô …”
(Lời bài hát Hà Tĩnh Quê Ơi)

Có lẽ bắt đầu từ bài hát này mà chúng tôi tìm hiểu nhiều hơn về hát Ví – hát Giặm hình thức dân ca của vùng Nghệ-Tỉnh. Một loại hình nghệ thuật phổ biến trong đời sống người dân xứ Nghệ từ ru con, dệt vải, trồng lúa, v.v… Qua lời dân ca ví, giặm ca ngợi các đức tính chân thật và cách cư xử tử tế cũng như lòng tôn kính đấng sinh thành, lòng chung thủy đối với lứa đôi, mở lòng với tình làng nghĩa xóm, giửa con người với con người đôi khi còn là câu chuyện ví von, khôi hài.
Hát ví có cách hát thường là tự do không theo tiết tấu khuôn nhịp có thể theo ngẫu hứng. Âm điệu thế nào cao thấp hay ngắn dài tùy thuộc vào lời thơ (ca từ). Hình thức phổ thơ như lục bát, song thất lục bát, lục bát biến thể, v.v… hoặc ca dao tục ngữ được lưu truyền trong dân gian.
Hát giặm, là thể hát nói bằng thơ ngụ ngôn (vè 5 chữ). Thông thường bài giặm có nhiều khổ, mỗi khổ có 5 câu, câu thứ 5 lập lại câu thứ 4. Tuy nhiên không có qui định chắc chắn nào bài hát có bao nhiêu khổ và câu từ đôi khi cũng không nhất thiết là 5 chữ, có thể nhiều hơn 6-7 chữ trong câu. Hát giặm là quá trình hò đối đáp, người hò lắp ghép câu thơ từ nhiều bài khác nhau hoặc thay thế một số từ ngữ để tạo nên câu thơ mới phù hợp với ngữ cảnh.
Người hò xứ Nghệ giỏi có thể ứng khẩu thành thơ, để đối đáp liên tục khi họ không nhớ được câu thơ nào tương ứng nối vần cùng câu xướng với bên bạn hò.
Bộ môn nghệ thuật sân khấu ví, giặm cùng các thể loại dân ca Nghệ Tĩnh làm nên một loại hình kịch hát mới mẻ, đầy bản sắc: Kịch hát dân ca xứ Nghệ.
Hát ví, giặm Nghệ - Tĩnh là một loại hình nghệ thuật trình diễn dân ca chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa của người dân 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Dân ca ví giặm (cũng viết là dặm) tại Nghệ - Tĩnh là một di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia đã được ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại tại kỳ họp thứ 9 của Ủy ban Quốc tế Công ước UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể ngày 27/11/2014 tại Paris (Pháp).

***

Buổi tối trước khi tiếp tục hành trình đi Thanh Hóa vào sáng sớm hôm sau, cô con gái Út Ngọc Ruby đề nghị đãi ba của nó bữa ăn tối với món đặc sản nổi tiếng không thua gì món lươn của xứ Nghệ. Cô bé nhí nhảnh nhìn ba nheo mắt:
- Ba, tối nay con đãi ba một món đặc biệt mà con biết chắc là ba chưa từng trãi nghiệm qua, nó cũng đặc sắc như món miến lươn Nghệ-Tĩnh vậy á.
Hai tía con rất đồng điệu trong cái đam mê ưa thích khám phá những món ăn đặc trưng địa phương mỗi khi đến nơi nào đó:
- Con chọn thì nhất rồi, “thank you” con gái Út của ba. Mà món gì vậy?
- Biển Cửa Lò có món “mực nhảy” hiếm thấy ở các nơi khác á ba.
Xe dừng lại trước nhà hàng hải sản trên bải biển Cửa Lò, cô Út chọn toàn là các món ăn được chế biến từ mực dĩ nhiên phải có món mực nhảy, cùng với mực trứng hấp, mực sashimi, mực nướng và mực xào mì.
Trong chậu thủy tinh lưng chừng nước đặt giửa bàn ăn có cả đàn mực đang lượn lờ trong đó, những con mực chỉ bằng ngón tay hoặc lớn hơn chút, trong suốt có thể thấy nội tạng. Ăn sống, nhưng khác với cách Sashimi là dùng đủa gấp con mực đang bơi trong chậu chúng búng tìm cách thoát thân có lẽ từ đó người ta gọi là món mực nhảy. Khi gắp con mực ra khỏi nước mực đổi màu nâu đỏ nhạt không còn trong suốt nữa. Cả đàn mực thấy động phản ứng tự nhiên của chúng là phun mực đen cả chậu nước. Ăn món này khi bạn cắn con mực những cái râu vẫn còn ngo ngoe thân còn nhúc nhít trong miệng lưỡi của bạn cho một cảm giác thật thú vị. Mực ăn kèm với rau tía tô, lá lốt, chấm nước tương với mù tạt, chanh, tỏi, ớt và gừng tươi.
Vừa thưởng thức món đặc sản Cửa Lò, không còn gì bằng trau đổi nhau vài mẫu chuyện của vùng đất lần đầu đến tham quan, khám phá. Cô con gái biết ba của nó hiểu biết nhiều nên muốn biết thêm về những món ăn của xứ Nghệ:
     - Ba, con nghe nói Nghệ An còn có món “Nhút Thanh Chương, Tương Nam Đàn” ba có từng ăn qua chưa?
     - Nhút ở Thanh Chương, tương làm tại Nam Đàn thì chưa, nhưng món nhút có lần ba ăn trong một nhà hàng đặc sản của dân Nghệ An tại Sài Gòn.
Món nhút là một loại rau quả muối để dành ăn nhiều ngày hoặc trái tươi, làm bằng những trái mít non hay sơ mít. Tương Nam Đàn ngon nổi tiếng, nguyên liệu cũng làm bằng đậu nành, ướp muối thêm gia vị cần thiết rồi ủ cho lên men. Khác với tương tàu cũng làm bằng đậu nành nhưng tương tàu đặc, ít nước và có màu sậm hơn.

Món nhút Thanh Chương và tương Nam Đàn là thức ăn quen thuộc của người dân quê nghèo khó ở nơi khô cằn sỏi đá, mùa hè gió lào nóng rát mùa đông thì mưa lũ trắng đồng rau cải làm sao trồng được nên nhút và tương là cứu cánh để vượt qua những ngày khó khăn. Món nhút nộm (gỏi), nhút nấu canh chua cá, nhút hầm xương lơn (heo), nhút chấm tương thường có trên mâm cơm người dân Nghệ-Tĩnh.
Những ngày lao đao khốn khổ ở vùng đất nghèo khó món thịt thì chỉ có vào dịp giổ, tết. Thường thì quanh năm bốn mùa thức ăn từ vườn tược, ruộng đồng, nương bãi cung cấp nên có câu ví von phận nghèo:
“Cơm độn ăn nhút chấm tương, không chê nghèo khó thì thương nhau cùng”.
Tuy không phải là món cao lương mỹ vị, dù hương vị đậm chất dân dã từ bao đời đã thấm vào da thịt vào hồn của người con xứ Nghệ không thể phai nhòa.
Ngày nay trong các nhà hàng đặc sản chễm chệ món nhút trong thực đơn cao cấp. Nhút theo bước chân của người con dân xứ Nghệ trãi dài trên cả nước, khắp nơi phương trời xa.

Ai về ăn nhút Thanh Chương,
dừng chân nếm thử vị tương Nam Đàn.
(Ca dao)

Nãy giờ cô Út lắng nghe ba kể chuyện, cô cũng góp lời cho bữa ăn tối thêm thi vị:
- Ba, Nghệ An còn một món quốc hồn quốc tuý mà cả vùng Bắc Trung Phần đều biết, khi ông Cao Bá Quát làm 2 câu thơ đi vào giai thoại thơ ca:

“Ngán thay cái mũi vô duyên - Câu thơ thi xã, con thuyền Nghệ An”.

Mạc Vân Thi Xã do hai ông Tùng Thiện Vương Miên Thẩm (1819) và Tuy Lý Vương Miên Trinh (1820-1897), hai người con thứ 10 và 11 của vua Minh Mạng là hai nhà thơ tên tuổi thời bấy giờ. Tương truyền Tuy Lý Vương đưa tập thơ cho ông Cao Bá Quát đọc, ông xem qua loa rồi lấy bút viết hai câu thơ bất hủ để đời ấy.
Ai cũng biết Nghệ An nổi tiếng về nghề nước mắm, con thuyền Nghệ An chở nước mắm nên rất nặng mùi. Tuy vậy Miên Thẩm và Miên Trinh vẫn không chấp nhứt việc nhỏ nhặt và vẫn mời Cao Bá Quát tham gia vào Thi xã.
Để có vài phút thư giản sau một ngày vất vã viếng thăm nhiều di tích và thắng cảnh xứ Nghệ, Ngọc Ruby đưa ba dạo công viên Cửa Lò và một vòng bải biển. Trời tối dần, nồm càng nặng nên chúng tôi trở về khách sạn nghĩ ngơi để lấy lại sức cho ngày hôm sau tiếp tục hành trình còn dài dọc theo các tỉnh miền Duyên hải vinh Bắc Bộ.

NA 05 LHU

Cô Ngọc Ruby và ba của cô bên cánh đồng ở huyện Nam Đàn, Nghệ An.

Đất Nghệ An có từ thời xa xưa là điểm đến với nhiều điều cho chúng ta tham quan, khảo sát, khám phá mở mang thêm sự hiểu biết về vùng đất có chiều dầy lịch sử phong phú trên quê hương phải không thưa quí bà con?

Lê Hữu Uy
(Phoenix, Arizona – May 2025)

Thống-Kê Vào Làng

Viet Nam 49.4% Viet Nam
United States of America 22.9% United States of America
Italy 10.5% Italy
Germany 8.5% Germany
Canada 2.6% Canada
Australia 1.4% Australia
France 1.0% France

Total:

68

Countries