THAM QUAN LAM KINH - THANH HÓA
(Lời mở đầu).
Đọc bài bút ký Viếng thăm xứ Nghệ cùng một số bài khác cô Lân Huỳnh (Nguyên hiệu trưởng Trung học Cơ sở Trần Ngọc Quế, Cần Thơ) cho biết ý kiến:
- “Được đi để khám phá cảnh đẹp, di tích lịch sử cùng việc thưởng thức các món ăn đặc sản vùng miền … rồi trở về sau chuyến tham quan, ngồi nhà nhớ, kể, viết lại để chia sẻ cùng bạn bè facebook là điều vô cùng độc đáo, thú vị… mà không phải ai cũng làm được! Tôi cho rằng đây là niềm hạnh phúc mà không dễ mấy ai có được. …”
- Cảm ơn cô Lân Huỳnh cảm thông, khích lệ, mình không phải nhà văn, cũng không phải nhà biên khảo chỉ ghi lại vài cảm nhận khi đến viếng các di tích trăm năm, ngàn năm của tổ tiên để chiêm bái, thắp nén nhang trân trọng tri ơn Người trong việc lập quốc, đổ xương máu để gìn giử cho dân tộc được trường tồn dưới trời Nam. Dạ, chúng tôi tiếp tục hành trình đi tham quan Lam Kinh, Thanh Hóa”.
Chuyến đi tham quan Lam Kinh kỳ này theo ý kiến của một số quí bạn hữu đề nghị cho xem thêm nhiều hình ảnh. Đến viếng mỗi di tích chúng tôi đều có ghi lại một số ảnh xin được chia sẻ. Trân trọng.
A- HÀNH TRÌNH THAM QUAN LAM KINH
Sau khi viếng đền Cuông thờ An Dương Vương ở Nghệ An, Ngọc Ruby và ba của cô khởi hành từ sáng sớm hôm sau tiếp tục hành trình đi tham quan di tích Lam Kinh nơi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn “mười năm gian khổ” (1418-1428) dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đánh đuổi quân Minh (giặc Tàu) lập nên nhà Hậu Lê. Khi Lê Lợi (1385-1433) lên ngôi ông về đóng đô ở Đông Kinh (Thăng Long - Hà Nội), lấy hiệu là Thuận Thiên Thừa Vận Duệ Văn Anh Vũ Đại Vương, đặt tên nước là Đại Việt (1429). Sử sách tôn vinh ông là người “Anh Hùng Áo Vãi Đất Lam Sơn”.
Năm 1994, chính phủ ra quyết định bảo tồn, trùng tu, tôn tạo khu văn hóa Lam Kinh di tích của triều đại nhà Hậu Lê lẫy lừng cũng như cùng nhiều biến động trong dòng sử Việt trãi dài 360 năm, từ năm 1429 khi vua Lê Thái Tổ lên ngôi, đến năm 1789 khi Nguyễn Huệ đánh đuổi quân Thanh vua Lê Chiêu Thống chạy theo Tàu từ đó nhà Hậu Lê bị diệt vong.
Từ Nghệ An, cô con gái Ngọc Ruby có người bạn đồng nghiệp cậu H. khi chúng nó còn làm ở hảng Ford cậu ta tháng sau sẽ đi Úc, trong khi chờ đợi xuất cảnh H. nhận làm tài xế cho suốt chuyến đi quanh vùng duyên hải vịnh Bắc Bộ. Từ thành phố Vinh thẳng tiến Quốc lộ 1A dọc theo vùng đất ven biển đi về hướng bắc khoảng hơn 140 km đến thành phố Thanh Hóa, thời tiết có Nồm nặng tầm nhìn hạn chế và đường bị ướt nên gần 11 giờ mới vào Tp. Thanh Hóa, chúng tôi dừng chân để ăn trưa sau đó tiếp tục đi lên Lam Kinh.
• Bài thơ “Theo anh em đến xứ Thanh”
Đất lành bao bận đế đô
Đại Ngu dựng nước thành Hồ vẹn nguyên
Vĩnh Long con Lạc, cháu Tiên
Lũng Nhai dấy nghĩa hữu duyên hội thề.
Núi sông một dải sơn khê
Cáo Văn chấn động đất quê oai hùng
Trời Nam Lê Lợi trung hưng
Tây Kinh hào khí tưng bừng nước non.
Tác giả Lưu Ngọc Lâm.
(Trang Những bài thơ hay Thanh Hóa).
Con đường còn phải đi thêm khoảng 50 km về hướng tây bắc theo lối tỉnh lộ để đến huyện Thọ Xuân, đường nhỏ và thời tiết xấu phải đi chậm khoảng hơn 1 giờ rưỡi lái xe nữa mới tới nơi.
Đến Lam Kinh (Tây Kinh củ) được ban quản lý giới thiệu sơ qua về di tích lịch sử nhà Hậu Lê một khu vực khá rộng lớn đến 200 ha nằm trên địa bàn 2 huyện Thọ Xuân và Ngọc Lặc, chia làm 3 phần để tham quan:
+ Khu di tích đền miếu, gối đầu vào núi Lam (Lam Sơn),
+ Khu lăng mộ, nhà bia, quanh khu núi rừng Lam Sơn,
+ Khu ban quản lý di tích và dịch vụ, có hai lối vào Lam Kinh từ cao tốc Bắc Nam và một tỉnh lộ đi Thanh Hóa.
Chúng tôi chọn hợp đồng dịch vụ do ban quản lý cung cấp gồm: xe đưa đi viếng qua tất cả điểm tham quan, có hướng dẫn viên thuyết minh, và cho biết thời gian từ 2 đến 3 tiếng tùy theo du khách rồi trở về chổ củ bải đậu xe. Lệ phí bao gồm phí tham quan cho 3 người, xe đưa đón riêng (bao chuyến) và thù lao hướng dẫn viên tổng cộng là $720 k VNĐ.
Khu di tích Lam Kinh.
Khu di tích Lam Kinh tại xã Xuân Lam, thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Vào khu vực đền miếu Lam Kinh chúng ta phải choáng ngợp với vẻ hoành tráng, uy nghi, chung quanh là cây rừng trong số có nhiều gốc cổ thụ hàng trăm năm tạo nên cảnh quan trầm mặc cổ kính. Di tích đền miếu xưa đã trãi qua những bước thăng trầm của lịch sử và thời gian bào mòn nên không còn nữa. Ngày nay từ năm 1994 được phục dựng lại theo dấu vết nền móng của đền đài qua bóng thời gian mà ngành khảo cổ xác định được.
Lam Kinh là vùng đất cổ xưa có từ thời Hùng Vương dựng nước, bao bọc bởi núi Dâu, núi Chúc, núi Hương có dòng sông Chu lượn quanh và nhánh sông Ngọc chảy ngang qua khu vực đền miếu.
Lam Sơn (hay Lam Kinh) khi vua Lê Lợi lên ngôi cho đổi tên thành Tây Kinh, lúc đầu với qui mô nhỏ gọi là Sơn Lăng nơi an nghĩ của các vị hoàng Đế, Hoàng hậu về sau do nhu cầu của các vua, hoàng tộc về chiêm bái tổ tiên có nơi nghỉ ngơi Lam Kinh được dần mở rộng.
Chuyến xe đưa vào tham quan lăng miếu Lam Kinh bắt đầu.
Xe điện dịch vụ đưa chúng tôi đi tham quan, cô hướng dẫn viên (HDV) kiêm tài xế người địa phương, tuy không phải là sắc nước hương trời nhưng dễ nhìn khả ái với chất giọng khá nặng của xứ Thanh-Nghệ cô cũng là đồng hương với cậu H. hai người họ gặp nhau rất tương đắc. Khi cô HDV nói chuyện với tôi và Ngọc Ruby đổi chất giọng có phần nhẹ nhàng hơn khi biết chúng tôi từ Miền Tây Nam Bộ. Cô HDV lịch sự khen giọng nói Miền nam ngọt ngào, êm ái đôi khi có cảm tưởng như tiếng chim líu lo trên cành.
- Chà, cái cô HDV này đúng là có kỷ năng chuyên nghiệp! cũng không sao từ đó giửa mọi người thấy gần gủi cởi mở, qua cô cho chúng tôi ấn tượng tốt về con người và vùng đất Thanh-Nghệ-Tỉnh.
Trước khi vào khu cung điện phải ngang qua cầu Bạch còn có tên là Tiên Loan Kiều.
• Cầu Bạch,
Con đường dẫn vào khu cung điện ngang cây cầu Bạch bắt qua sông Ngọc, cầu xây hình vòm bằng đá có chạm khắc hoa văn, ngang 5,5 m, dài 17 m trên dấu vết củ. Theo di tích khảo cổ, cầu Bạch khi xưa được dựng lên bằng gổ lim hình vòm bên trên có mái che theo kiểu “Thượng gia, hạ kiều”, tô điểm thêm một thắng cảnh nho nhỏ cho Lam Kinh.
• Giếng cổ và cây đa-thị,
Trước khi vào sân đền bên phải có giếng nước hình Elip, thành giếng được kè đá và có bến nước (37,5 m x 30 m). Tương truyền giếng có từ khoảng 700 năm trước, thời cụ Lê Hối (cụ Tổ vua Lê Lợi).
Giếng nước cây đa trong khu di tích còn lưu giử nét đẹp “cây đa, bến nước, sân đình” là tập quán làng quê người Việt xưa. Gần giếng nước bên Nghi môn nơi góc sân chầu có cây đa cổ thụ khoảng 300 tuổi, điều đặc biệt không rõ từ bao giờ ở đó có cây thị mọc lên quyện vào nhau nên bà con ta gọi là “cây đa-thị”. Năm 2007 cây thị chết, đến năm 2016 bên góc trái cây đa có cây thị con lại mọc lên người ta cho rằng cây thị đã hồi sinh.
• Vào chính điện,
Bước qua nghi môn (cửa phía nam) là cổng tiếp đón trước khi vào sân Rồng để các quan vào chầu khi vua thiết triều hoặc thực hiện các buổi tế lễ vua hay hoàng tộc về bái kiến Sơn Lăng. Theo di tích khảo cổ sân rồng rộng 56 m, chiều dài 65,5 m. Chính điện có 9 gian, gồm 7 gian (rộng 5 m), và 2 chái (rộng 2 m) làm lối đi ngoài hiên. Bậc thềm đi lên Chính điện, ở giửa có thềm rồng dành cho vua đi rộng 1,8 m, hai bên rộng 1,1 m dành cho các quan đi. Cặp hình rồng 9 khúc chạm khắc tinh vi bằng đá xanh nguyên khối phân cách lối đi. Nét đặc trưng rồng người Việt xưa khác rồng Tàu ở chổ rồng ta 9 khúc rồng Tàu 5 khúc và đặc biệt là hình rồng 1 tay nắm râu, một tay vờn viên ngọc gọi là “Long hí Châu”. Để phân biệt rồng vua có 5 móng, rồng tại đền chùa chỉ có 4 móng. Thềm cao 1,8 m so với mặt sân rồng, với 9 bậc (Cửu trùng) kiểu kiến trúc này chỉ dành cho vua. Thềm rồng trước chính điện Lam Kinh là một bảo vật còn nguyên vẹn từ thời vua Lê Lợi.
Theo tài liệu tại Lam Kinh, năm 1433 vua Lê Thái Tông truyền chiếu chỉ cho Nguyễn Như Lãm xây Miếu Cung Từ Thái Mẫu. Sau đó điện bị hỏa hoạn không rõ nguyên do. Năm 1448, vua Lê Thái Tông xuống chiếu cho Thái Úy Lê Khả xây dựng lại điện miếu. Đến năm 1456, vua Lê Nhân Tông đặt tên cho 3 tòa nhà của Chính điện kiến trúc theo hình chữ Công gồm: Điện Quang Đức, Sùng Hiếu và Diên Khánh.
Chính Điện là nơi vua ngự triều (có ngai vàng, các bàn thờ), nơi làm việc tôn nghiêm (có chiêng, trống đồng) và Hậu cung nơi vua nghỉ ngơi (có long sàn). Các Linh vị thờ các vua Tiền nhà Hậu Lê (1428-1529).
Câu chuyện về cây lim cổ thụ có vẻ linh thiêng, huyền bí được cô HDV trong Ban quản lý Lam Kinh cho biết khi xây cất Chính Điện, cây lim cổ thụ 600 năm tuổi lớn nhất rừng Lam Sơn từ thời Lê Lợi tự nhiên trút lá đúng vào thời điểm xây cất đền. Thân cây có đường kính 0,82 m, trùng khớp với chân đế đá của cột cái chính điện xưa để lại, ngọn cây vừa với chân cột quân và cành cây đủ làm 1 cột con và một thượng lương.
Do đó khi đưa vào xây dựng cây lim được định vị là cột cái trong công trình, đặt trong hậu điện đứng gần long sàn như canh giấc ngàn thu của đức vua Lê Thái Tổ.
Sau khi cây lim cổ thụ bị đốn hạ người ta trồng vào nơi đó cây con nhưng đều thất bại không cây con nào sống được. Những trùng hợp liên tiếp nên người ta tin rằng cây lim đã “hiến thân” mình để xây tòa Chính điện Lam Kinh.
Tòa nhà chính, phía sau Chính điện.
Phía sau Chính điện có 9 tòa nhà được sắp xếp xây cất theo hình vòng cung bao quanh phía sau chính điện, trước có sân rộng, thềm nhà với 5 bậc (đền vua 9 bậc) chạm khắc hình rồng kiểu nhà Lê, trong số 5 tòa nhà làm nơi thờ tự các vua, mỗi tòa thờ 3 vì vua, gồm:
+ Tòa nhà số 3, thờ Minh Tông Triết Hoàng đế, Trang Tông Dụ Hoàng Đế, và Hiếu Tông Nhân Hoàng Đế,
+ Tòa nhà sô 4, thờ Thái Tông Văn Hoàng Đế, Thánh Tông Thuần Hoàng Đế, và Túc Tông Khâm Hoàng Đế,
+ Tòa nhà số 5, thờ Thái Tổ Cao Hoàng Đế, Hiển Thổ Trạch Hoàng Đế và Tuyên Tổ Phúc Hoàng đế,
+ Tòa nhà số 6, thờ Nhân Tông Tuyên Hoàng Đế, Hiến Tông Duê, Hoàng Đế và Đức Tông Kiến Hoàng Đế,
+ Tòa nhà số 7, thờ Chiêu Tông Thần Hoàng Đế, Trung Tông Vũ Hoàng Đế và Anh Tông Tuấn Hoàng Đế.
• Viếng khu lăng mộ nơi núi rừng Lam Sơn,
Tác giả đến chiêm bái Vĩnh Lăng, lăng mộ vua Lê Thái Tổ,
Sau khi rời khu đền miếu chúng tôi được đưa đi tham quan khu lăng mộ nơi an nghỉ của vua, bia đá ghi thân thế, sự nghiệp, công trạng xưa của vị vua và Thái Hoàng Thái Hậu, như:
+ Vĩnh Lăng, lăng mộ của vua Lê Thái Tổ, và bia Vĩnh Lăng, cách điện Lam Kinh chừng 50 m, phía trước có núi chúa phía sau có núi Dầu hai bên cũng có núi bao bọc tả hữu theo phong thủy là thế rồng chầu hổ phuc.
+ Hựu Lăng, lăng mộ vua Lê Thái Tông và bia Hựu Lăng,
+ Lăng Khôn Nguyên Chí Đức, lăng mộ Thái Hoàng Thái Hậu Ngô Thị Ngọc Giao và bia Khôn Nguyên Chí Đức,
+ Chiêu Lăng, lăng mộ vua Lê Thánh Tông, và bia Chiêu Lăng,
+ Dụ Lăng, lăng mộ vua Lê Hiển Tông, và bia Dụ Lăng,
+ Kính Lăng, lăng mộ vua Lê Túc Tông, và bia Kính Lăng.
Theo con đường lát đá bằng phẳng uốn lượn bên triền đồi xe đưa chúng tôi đến khu lăng mộ rộng khang trang nơi an nghỉ của các vị vua cách nhau chừng trăm mét đều có kiến trúc tương đối đơn giản qui mô gần giống nhau, với nghi môn, sân lăng, và ngôi mộ đấp đất xây bằng gạch chung quanh ốp đá nhám, có kích thước như nhau vuông cạnh khoảng 4,5 m, cao 1,15 m, trước mộ có lư hương bằng đá bên trên không có nấm mộ để trống trồng cỏ kiểng. Bia Vĩnh Lăng Lê Thái Tổ do danh tướng Nguyễn Trãi soạn thảo được dựng năm 1433, đặt trên lưng rùa làm bằng đá trầm tích nguyên khối (2,79 m x 1,94 m x 0,27 m), trên có mái che (8,8 m x 8,8 m). Bên cạnh gần các lăng mộ là những lăng bia khác.
Tiếp tục xuyên qua khu rừng nhiều cây cao lớn có nơi tàng lá phủ kín, yên ắng, cho khách tham quan cảm giác có gì đó thiêng liêng. Xe dừng lại khu vườn nhản cổ thụ hình như cũng đã 5-7 chục tuổi, du khách có dịp ghi lại vài tấm hình đẹp làm kỷ niệm.
Ngày xưa Lam Kinh là nơi tôn nghiêm, linh thiêng qua các triều vua nhà Lê đều có cắt đặt quan và binh lính bảo vệ, phục vụ, trông coi đền miếu luôn được trang nghiêm, sạch sẻ. Ngày nay do Ban Quản lý khu di tích điều hành trông nom, chăm sóc di tích Lam Kinh. Năm 2012 được chính phủ công nhận là di tích cấp Quốc gia Đặc biệt.
Ngày nay, cứ đến tháng 8 âm lịch àng năm, ngày 21 (giỗ Lê Lai) và 22 (giỗ Lê Lợi) dân chúng trong vùng cùng nhau tổ chức lễ hội Lam Kinh để tưởng nhớ công ơn các bậc tiền nhân.
• Khu Thái Miếu nhà Hậu Lê,
Khu thờ 27 vị vua Lê tại Thái Miếu.
Theo đề nghị của bác tài trước khi đến Thanh Hóa chúng tôi đến viếng khu Thái Miếu nhà Lê cho tiện đường ở phường Đông Vệ, cách trung tâm thành phố Thanh Hóa khoảng 3 km. Trước kia khu di tích Lam Kinh chưa trùng tu phục dựng nơi đây thờ 27 vì vua nhà Hậu Lê, các Thái Hoàng Thái Hậu và hai vị khai quốc công thần là Nguyễn Trãi và Lê Lai. Đặc biệt có bàn thờ “Kiếm Thần” trong sự tích thần Kim Quy tặng kiếm cho vua Lê Lợi. Tại Thái Miếu còn lưu giử được nhiều cổ vật thờ tự nguyên gốc từ thời vua Lê Lợi rất có giá trị.
Thái Miếu gồm tòa nhà Tiền điện, và Hậu điện liền nhau gồm 7 gian, mái lợp ngói mủi hài, trên nóc trang trí rồng “lưỡng long chầu nguyệt”. Phía trước hàng hiên mỗi cột có con nghê chạm khắc sắc xảo, con nghê là biểu tượng của sức mạnh, hóa giải sự hung bạo đem lại tài lộc và yên bình cho chủ nhân.
B- TRIỀU ĐẠI NHÀ HẬU LÊ (1429-1789)
Nhà Hậu Lê phát xuất từ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, sau khi chiến thắng Lê Lợi lên ngôi (năm 1429), đến cuối triều đại này là vua Lê Chiêu Thống chạy theo Tàu khi Nguyễn Huệ đánh tan 20 vạn quân Thanh (năm 1789), trãi dài 360 năm.
Tuy nhiên triều đại nhà Hậu Lê chia làm 2 thời kỳ:
• Thời tiền Hậu Lê kéo dài 99 năm 1428-1528).
Thời Tiền Hậu Lê, nước Đại Việt hùng mạnh, phát triển mọi mặt từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quân sự. Đây là thời kỳ nước Đại Việt lẫy lừng nhất trong dòng sử Việt ảnh hưởng đến toàn khu vực được gọi là “Hồng Đức thịnh thế”. Với 10 vị Hoàng đế, đây là thời kỳ các vị vua nắm trọn quyền lực, thời hoàng kim của các triều đại vua chúa trong sử Việt.
• Giai đoạn Lê Trung Hưng (1533-1789).
Thời kỳ Lê Trung Hưng gọi là Nam Bắc Triều, nhà Lê và nhà Mạc chia đôi nước Đại Việt, khi nhà Mạc bị đánh bại phải chạy lên Cao Bằng (1592-1677) công thần họ Trịnh nắm nhiều quyền lực chi phối triều chính, các nhà vua chỉ có trên danh nghĩa không giử thực quyền. Trong khi đó công thần họ Nguyễn không thần phục họ Trịnh ly khai đi về phía nam từ đó nước Đại Việt lâm vào cuộc chiến do Chúa Trịnh – Chúa Nguyễn phân tranh, lấy sông Gianh ở Đồng Hới, Quảng Bình làm ranh giới. Đến khi Lê Chiêu Thống cầu viện quân nhà Thanh đem 20 vạn quân sang đưa ông lên ngôi, được tin Nguyễn Huệ từ Đông Kinh (Nghệ An) đem quân ra Bắc Hà đánh tan quân Thanh vua Lê Chiêu Thống chạy theo Tàu từ đó chấm dứt nhà Hậu Lê, đất nước được thống nhất và đã qua thời kỳ đen tối cốt nhục tương tàn mấy trăm năm (1533-1789).
Bài thơ Hận Sông Gianh,
Đây sông Gianh đây biên cương thống khổ
Đây sa trường đây nấm mộ dân nam
Đây giòng sông, giòng máu Việt còn loang
Đây cổ độ xương tàn xưa chất đống
Và còn đấy hận phân chia nòi giống
Và còn đây cơn ác mộng tương tàn
Và còn đây hồn dân Việt thác oan
Bao thế kỷ chưa tan niềm uất hận
Ôi Việt Nam cùng Việt Nam gây hấn
Muôn đời sau để hận cho giòng sông
Mộng bá vương Trịnh Nguyễn có còn không
Nhục nội chiến non sông còn in vết
Đây sông Gianh nơi nồi da xáo thịt
Nơi con Hồng tàn phá giống Lạc Hồng
Nơi máu hồng nhuộm đỏ sóng giòng sông
Máu nhơ bẩn muôn đời không rửa sạch
Đằng Phương
(Sông Gianh ở Đồng Hới, Quảng Bình).
C- VỀ VÙNG ĐẤT THANH HÓA.
Vùng đất Thanh Hóa có từ thời đại Hùng Vương, được tạo nên do phù sa sông Mã, sông Yên, sông Hoạt bồi đấp.
Vùng đồng bằng Thanh Hóa lớn nhất Miền Trung, lớn thứ 3 tại Việt Nam sau đồng bằng sông Cửu Long (Nam Bộ), đồng bằng sông Hồng (Bắc Bộ) tuy nhiên chỉ chiếm 1/3 diện tích tỉnh, còn lại là núi đồi cao dần về phía tây nơi sinh sống của các đồng bào người Mường, Thái, Thổ, Dao, H’Mong Khơ Mú xen lẫn người Kinh, phía tây có đồng bằng tiến dần về phía biển là nơi người Kinh lập làng. Bờ biển dài hơn 70 km thuận tiện trong việc phát triển ngành ngư nghiệp đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản.
Bải biển Sầm Sơn một thắng cảnh du lịch, bên cạnh còn phát triển công nghiệp đồng thời triển khai dự án qui mô kinh tế biển tại Nam Sầm Sơn, Nga Sơn và Nghi Sơn. Thanh Hóa có nhiều điểm khách du lịch ưa thích nổi tiếng như: Suối cá thần (Cẩm Lương), thác Mây, làng cổ Đông Sơn, đền Đồng Cổ, thành nhà Hồ, vườn Quốc Gia Cúc Phương, các khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, Pù Luông, Xuân Liên, … hoặc di tích Nông cống, với:
“Ai qua Nông Cống tỉnh Thanh,
Dừng chân nhớ Triệu Thị Trinh Anh Hùng”.
(Ca dao)
• Câu chuyện cây ổi cười tại Lam Kinh,
Cô HDV giới thiệu “Cây ổi biết cười” một sự kiện có 1 không 2 tại Lam Kinh. Khi bạn chạm ngón tay vào nách nhánh gần gốc thì cành lá trên ngọn hay ngoài đầu cành rung động. Cô HDV thực hành cho chúng tôi và khách du lịch xem, đúng như vậy. Cô Ngọc Ruby thử cây ổi cũng có kết quả. Lấy làm lạ tôi đến thử thì cây ổi không nhúc nhít gì cả. Tôi chợt có ý nghĩ hài hước, thốt lên:
- Ô, cây ổi này là cây ổi đực!
Mọi người nhìn tôi chưa hiểu ý, phút chốc sau như biết ra mọi người lại mỉm cười thú vi!
(Khi gặp phụ nữ thì nó nhút nhích, còn thấy đàn ông thì nó tản lờ như không).
Xe đưa chúng tôi trở lại khu vực Ban Quản lý điểm xuất phát ban đầu chấm dứt hành trình tham quan khu di tích Lam Kinh, cô HDV lịch sự hỏi chúng tôi có hài lòng không? điều gì “khách từ phương xa” ấn tượng nhất khi đến Thanh Hóa?
Tôi không do dự và thật lòng:
- Xứ Thanh Hóa cho chúng tôi chú ý nhất là chất giọng và phương ngữ của người địa phương, nếu những ai chưa từng tiếp xúc với bà con xứ Thanh nghe họ nói chuyện với nhau với từ ngữ và cách phát âm là sự kiện nhớ mãi. Khi nghe bạn nói chuyện bằng phương ngữ và phương âm bản địa có lẽ tôi phải thốt lên: Ối trời, mình đang gặp hai người ngoại quốc! Đúng không?
(Chúng tôi cùng cười).
Bạn là dân Hà Nội? dân Huế? hay dân Sài Gòn? làm sao hiểu được khi người xứ Thanh nói chuyện với nhau, như:
+ Đã mất lả lại mất cả truo? (là mất cái gì? lả /lửa, truo/ tro).
+ Cằn cấn /cày cấy, kha cắn /gà gáy, cái trốc cún /cái đầu gối, cái vắn /cái váy, cuôn /con, cấy chủn /cây chổi, quả bính /quả bí, nhẹn /nhẹ, chị /chậy, v.v…
Khi viết những dòng hồi tưởng này nhớ đến buổi nói chuyện trước khi chia tay với cô HDV dân Thanh Hóa chính gốc để chúng tôi tiếp tục hành trình đi Nam Định, cô HDV gởi gắm mấy vần thơ về tâm tình người Thanh Hóa:
“Ai cũng có quê hương yêu dấu.
Tôi tự hào mang dòng máu xứ Thanh.
Nếu một ngày về Thanh Hóa quê anh.
Thoáng nhìn qua chắc rằng em chẳng biết.
Người xứ Thanh có tình yêu tha thiết.
Yêu thiên nhiên yêu nước Việt ngàn đời …”
(Không rõ tác giả)
Lê Hữu Uy
Phoenix Arizona - Đầu Hè 2025.
(Tài liệu tham khảo: Khảo sát tư liệu tại chổ, tập tài liệu “Di Tích Lam Kinh”, tập sách “35 vị khai quốc công thần nhà Lê”, quyển 1000 năm Thăng Long, và một số tư liệu khác).