VIẾNG ĐỀN NHÀ TRẦN (NAM ĐỊNH)
Nghi môn Đền Trần, Nam Đinh.
Tui là học trò trường làng ngày xưa tại Miền Nam, trường tiểu học Phong Điền, làng Nhơn Ái, Cần Thơ, tụi nhóc tì chúng tôi đều thuộc lòng các bài hùng sử ca, màn hoạt cảnh Hội Nghị Diên Hồng tôi cũng đã từng diễn trong đêm lửa trại. Làm sao quên đời nhà Trần 3 lần chiến thắng quân Nguyên hồi thế kỷ 13, hơn nửa thế kỷ nhưng vẫn còn đó trong tôi.
Hai tía con nhà tui rất hâm hở chờ đợi đến tham quan di tích Đền Trần nơi các vì vua đã cùng cả nước viết lên trang sử vẻ vang dân tộc. Chúng ta không thể quên tiếng vọng “Hội nghị Diên Hồng” lời thề toàn dân quyết chiến rung chuyển cả non sông!
“Toàn dân! Nghe chăng? Sơn hà nguy biến!
Hận thù đằng đằng! Biên thùy rung chuyển
Tuôn giày non sông rền vang tiếng vó câu
Gây oán nghìn thu!
Toàn dân Tiên Long! Sơn hà nguy biến!
Người nào hào hùng! Nên hòa hay chiến?
Diên Hồng tâu lên cùng minh đế báo ân
Hỡi đâu tứ dân! …”
(Bài hát Hội nghị Diên Hồng).
Sau khi rời thành phố Thanh Hóa, cô Ngọc Ruby và ba của cô chuẩn bị lên đường đi Nam Định viếng đền thờ Nhà Trần, di tích một triều đại lẫy lừng trong dòng sử Việt.
A- DI TÍCH ĐỀN TRẦN
Từ thành phố Thanh Hóa đi thành phố Nam Định 107 km, tuy nhiên thời tiết xấu nên chúng tôi đi chậm đến 2 tiếng rưỡi mới đến Nam Định. Trời mưa, có nồm nặng ướt át mịt mù khắp nơi nên chúng tôi chỉ đến tham quan đền Nhà Trần, các điểm khác không thể đến tham quan vì thời tiết!
Khu di tích đền Trần nằm cạnh quốc lộ 10, đường Trần Thừa, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.
Qua nghi môn ngoại chúng ta đến hồ nước hình chữ nhật trước đền, mặt nước phẳng lặng yên ắng tăng vẻ uy nghi của các đền miếu với mái cong đầu rồng phía sau bóng cây râm mát. Đến khu di tích đời Nhà Trần (1225-1400) thờ 12 vị vua và 2 vị vua hậu Trần (1407-1414) cùng gia quyến và các quan có công lớn với đất nước.
Triều đại nhà Trần ghi dấu lịch sử với những chiến công oanh liệt ba lần chiến thắng quân Nguyên-Mông. Khởi đầu từ khi Trần Cảnh lên ngôi khi mới 8 tuổi do vợ là Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi cho chồng năm 1226. Vua còn quá nhỏ mọi việc triều chính do người chú là Thái sư Trần Thủ Độ đảm trách, chính ông là người ép Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh từ đó nhà Lý chấm dứt, bắt đầu thời đại nhà Trần.
Khuông viên đền Trần không rộng lắm, gồm 3 ngôi đền liền kề cách nhau chừng vài chục mét. Chính giửa là đền Thiên Trường, đền Cố Trạch (phía đông), đền Trùng Hoa (phía Tây). Các ngôi đền có kiến trúc và kiểu dáng gần giống nhau.
1- Đền Thiên Trường,
Đền Thiên Trường,
Đền Thiên Trường còn gọi là đền Thượng, ngày xưa gọi là phủ Thiên Trường nơi cư ngụ và sinh hoạt của các Thái thượng Hoàng. Gồm tòa Tiền đường, Trung đường, Chính tẩm và Thiệu hương.
+ Tiền đường: Thờ các quan có nhiều công trận trên bàn thờ có những bài vị.
+ Trung đường: Là nơi thờ 14 vị hoàng đế nhà Trần có 14 bài vị các hoàng đế Triều Trần phía trước cửa đặt 3 cỗ ngai vàng vị trí tối thượng của vua ngày xưa.
Linh vị thờ 14 vị vua triều Trần,
+ Chính tẩm: Gian chính giữa thờ bốn vị thủy tổ nhà Trần cùng các vị chính thất, hai gian trái, phải thì thờ Hoàng phi.
+ Toà thiêu hương hay toà Kinh Đàn: Là nơi đặt các bàn thờ riêng, tại đây hương khói cho các công thần, quan văn, quan võ có công dưới triều đại nhà Trần.
Khi quân Minh xâm lược (thế kỷ 15) phủ Thiên Trường bị phá hủy. Về sau Phủ Thiên Trường được xây dựng lại trên nền củ của khu di tích Đền Trần Nam Định.
2- Đền Cố Trạch,
Đền Cố Trạch còn gọi là đền Hạ nằm về phía đông khu di tích Đền Trần làm nơi thờ tự Trần Hưng Đạo, gia đình và gia tướng.
+ Thiêu Hương (Kinh Đàn): Nơi đặt long đình có tượng Trần Hưng Đạo cùng 9 pho tượng Phật, hai bên có bàn thờ quan văn và quan võ.
+ Tòa trung đường: Nơi đặt bài vị của Trần Hưng Đạo và 4 người con trai, của danh tướng Phạm Ngũ Lão và các tả hữu tướng quân.
+ TÒA CHÍNH TẨM: Nơi đặt bài vị song thân của Trần Hưng Đạo, Trần Hưng Đạo, vợ và các con, dâu, rễ.
• Đền Trùng Hoa,
Đền Trùng Hoa ở bên trái đền Thiên Trường. Năm 2000 cung Trùng Hoa mới được xây dựng lại trên nền củ, đây là nơi các Hoàng đế về tham vấn các vị Thái Thượng Hoàng. Thờ 14 vị Hoàng đế, gian tả vu thờ quan văn, hữu du thờ các quan võ.
B- TRIỀU ĐẠI NHÀ TRẦN
Nhà Trần trị vì Đại Việt (Việt Nam) qua 12 đời vua trong 175 năm (1225-1400). Nhà Trần là triều đại vẻ vang nhất trong lịch sử Việt, phát triển về mọi mặt: quân lực, kinh tế, văn hóa, xã hội, mỹ thuật, v.v… Nổi bật nhất là lãnh đạo toàn dân 3 lần chiến thắng quân Nguyên làm nản lòng tham vọng thôn tính Đại Việt. Năm 1295 Hốt Tất Liệt chết, Thiết Mộc Chân lên ngôi thấy nhiều lần đánh Đại Việt đều bị thất bại năng nề nên bỏ ý đồ xâm lăng Đại Việt.
Kế đến nhà Hồ soán ngôi nhà Trần lập nên nước Đại Ngu (1400-1407), sau đó nước ta bị nhà Minh xâm chiếm. Hai vị vua Giản Định Đế và Trùng Quang Đế là dòng giõi nhà Trần khởi binh chống giặc Minh, các nhà sử học gọi thời kỳ này là nhà Hậu Trần (1407-1414).
• Trãi qua 12 đời vua triều Trần,
Vào viếng các đền miếu chúng tôi choáng ngợp với khung cảnh uy nghi như làm sống lại một triều đại lẫy lừng, nhiều bàn thờ trên có bài vị và các tượng đồng của vua, hoàng hậu, quan tướng của triều Trần. Cô Út Ngọc Ruby cùng ba của cô chia nhau đi tham quan, ghi hình, sưu tập tư liệu bởi vì có đến 12 vì vua trãi qua 175 năm lịch sử.
Chúng ta hãy tìm hiểu khái quát về triều Trần từ các di tích, tư liệu ghi nhận được khi tham quan Đền Nhà Trần tại Nam Định, xin được tóm lược như sau:
Nhà Trần tồn tại 175 năm và trải qua 12 đời vua (1225 - 1400). Các vị vua nhà Trần gồm:
1- Trần Thái Tông (1225-1258),
Trần Thái Tông,
Vua Trần Thái Tông tên huý là Trần Cảnh lên ngôi khi mới 8 tuổi, nhưng triều đại Trần Thái Tông có một sự nghiệp lẫy lừng trong các lĩnh vực quân sự, chính trị và kinh tế thời bấy giờ. Vua Trần Thái Tông cùng Trần Thủ Độ và Trần Quốc Tuấn lãnh đạo cuộc chiến chống quân Nguyên xâm lược lần thứ I là thành quả nổi bật nhất (năm 1258).
2- Trần Thánh Tông (1258-1272),
Vua Trần Thánh Tông có nhiều thành tích đáng kể trong việc đối nội phát triển đất nước, khuyến khích dân khẩn hoang lập điền trang, đề cao chính sách khuyến học, mở khoa thi chọn hiền tài, trọng dụng nhân tài.
Trong thời gian làm Thái Thượng Hoàng ông cùng vua Trần Nhân Tông lãnh đạo đất nước chống quân Minh xâm lược lần II giành chiến thắng.
3- Vua Trần Nhân Tông (1278-1293),
Thời gian trị vì của vua Trần Nhân Tông trãi qua 2 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên giành thắng lợi lần II năm 1285 và lần III năm 1288.
Hai sự kiện quan trọng góp phần chiến thắng là Hội nghị Bình Than và Hội nghi Diên Hồng. Toàn dân quyết chiến! Đó là sự đoàn kết tạo nên sức mạnh để chiến thắng mặc dù quân Nguyên đông hơn, mạnh hơn.
4- Vua Trần Anh Tông (1293-1314),
Vua Trần Anh Tông, là vì vua anh minh, biết trọng dụng nhân tài như Đoàn Nhữ Hài, Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật, …
5- Vua Trần Minh Tông (1314-1329),
Vua Trần Minh Tông đã tiếp nối và làm rạng rỡ cơ nghiệp nhà Trần, đất nước được yên bình thạnh trị.
6- Vua Trần Hiến Tông (1329-1341),
Vua Trần Hiến Tông trị vì chỉ trên danh nghĩa, việc điều hành triều chính do Thái Thượng Hoang Trần Minh Tông.
7- Vua Trần Dụ Tông (1341-1369),
Vua Trần Dụ Tông trị vì 28 năm, nhà vua lên ngôi khi mới 5 tuổi Thượng Hoàng điều hành triều chính. Vua Trần Dụ Tông thích hưởng lạc tiêu xài hoang phí, sức khỏe kém không thể có con nên truyền ngôi cho Trần Nhật Lễ là con nuôi Cung Túc vương anh vua Dụ Tông. Nhật Lễ định đổi sang họ Dương thì bị con Trần Minh Tông là Trần Phủ giết chết.
8- Vua Trần Nghệ Tông (1370-1372),
Vua Trần Nghệ Tông (hay Huệ Tông), là ông vua không nắm thực quyền mọi việc triều chính do ông ngoại là Lê Quý Đôn quyết đoán, làm vua được 3 năm rồi lui về phủ Thiên Trường làm Thái Thượng Hoàng.
9- Vua Trần Duệ Tông (1372-1377),
Vua Trần Duệ Tông ở trên ngôi được 5 năm, bị tử trận khi đánh Chiêm Thành (1377). Kể từ đó những người kế vị nhu nhược triều đình ngày càng hổn loạn. Lê Quý Ly (sau đổi Hồ Quý Ly) nắm quyền thao túng triều chính làm cơ nghiệp nhà Trần đi vào con đường sụp đổ.
10- Vua Trần Phế Đế (1377-1388),
Vua Trần Phế Đế lên ngôi được 12 năm sau khi vua cha tử trận trên đất Chiêm Thành, là giai đoạn nhà Trần đi vào suy vi.
11- Vua Trần Thuận Tông (1388-1398),
Vua Trần Thuận Tông ở ngôi vị được 10 năm nhưng quyền bính đều do Lê Quý Ly nắm giử. Năm 1394, Lê Quý Ly cho xây thành Tây Đô (Thanh Hóa) đến năm 1397 ông bức vua Thuận Tông dời kinh về Tây Đô.
Thời gian này giặc Chiêm thường sang cướp phá, tướng Trần Khắc Chân chỉ huy quân đội đánh bại quân Chiêm giết chế vua Chiêm là Chế Bồng Nga.
12- Vua Trần Thiếu Đế (1398-1400),
Trần Thiếu Đế là vị vua cuối cùng triều Trần, khi lên ngôi mới 3 tuổi (1398). Năm 1400 Thiếu Đế bị Lê Quý Ly soán ngôi lập mưu giết chết đổi quốc hiệu là Đại Ngu và đổi luôn lại họ Hồ (Hồ Quý Ly).
Triều đại nhà Trần từ các vị vua thời kỳ đầu thịnh trị, về cuối triều đại suy vi đến năm 1400 là chấm dứt trị vì sau 175 năm (1225-1400).
• Tóm lược Nhà Hồ (1401-1407),
Để hiểu được thời gian chuyển tiếp từ triều đại Nhà Tiền Trần (1336-1400) sang nhà Hậu Trần (1407-1414), là triều đại nhà Hồ (1400-1407). Hồ Quý Ly ở ngôi vị Hoàng đế từ năm 1400 sang năm 1401 ông tự xưng là Quốc Tổ Chương Hoàng, sau đó giử ngôi vị Thái Thương Hoàng, nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương nhưng trên thực tế ông vẫn nắm triều chính (1401-1407).
Nhà Hồ chỉ tồn tại có 7 năm, mặc dù Hồ Quý Ly có nhiều cải cách quan trọng để phát triển đất nước tuy nhiên thời gian trị vì quá ngắn ngủi nên không thấy kết quả. Chính sách tàn bạo sát hại hơn 370 người đối với Hoàng tộc và một số tướng lãnh thân tín triều Trần, làm mất lòng người dân còn tưởng nhớ đến công đức các vua Trần trong công cuộc gìn giử núi sông, do đó Hồ Quý Ly không tập hợp được sức mạnh dân tộc nên phải bại trận trước quân Minh.
Giửa năm 1407, lấy cớ “Phù Trần Diệt Hồ” quân Minh sang xâm lược, trận Hàm Tử (Hưng Yên) Hồ Quý Ly và các con bị giặc bắt có thuyết nói rằng quân Minh giải họ về Yên Kinh (Bắc Kinh) rồi sát hại.
• Hai vị vua nhà Hậu Trần (1409-1413).
Nhà Hồ bị diệt nước ta bị quân Minh đô hộ, thân vương và con cháu triều Trần khởi binh kháng chiến chống quân xâm lược là Giản Định Đế và Trùng Quang Đế.
1- Trần Ngỗi, Giản Định đế (1405-1409).
Giản Định Đế tên húy là Trần Ngỗi, con vua Trần Nghệ Tông ông ở ngôi từ năm 1407-1409, Trần Ngỗi về Mô Độ (Ninh Bình) khởi binh được thổ hào Trần Triệu Cơ tôn làm Hoàng Đế - Giản Định Đế. Từ Thuận Hóa, Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa, Ninh Bình, … hào kiệt và nghĩa binh hưởng ứng rất đông. Giản Định Đế đích thân cầm dùi trống thúc quân trực tiếp chỉ huy trận đánh nên nghĩa quân tăng thêm sĩ khí giành thắng lợi lớn. Năm 1408, ông cùng Quốc công Đặng Tất tiến quân ra Bắc đánh bại quân Minh tại trận Bô Cô sau đó nhường ngôi cho Trùng Quang Đế lên làm Thái Thượng Hoàng.
2- Trần Quý Khoáng, Trùng Quang Đế (1409-1413).
Trần Quý Khoáng là con của Trang Định Vương Trần Ngạc, là cháu nội vua Trần Nghệ Tông là vị vua thứ 2 đời Hậu Trần. Năm 1414 quân Minh phản công đánh chiếm Đông Kinh (Hà Nội ngày nay), trước sức mạnh đông đảo được trang bị nhiều súng trường là loại vũ khí tối tân thời bấy giờ nên quân Đại Việt thất thủ. Trùng Quang Đế cùng nhiều người bị bắt áp giải về Yên Kinh, không chịu nhục làm tù binh vua và các hạ thần nhãy xuống sông tự vẫn. Vương triều nhà Trần khép lại, nước ta bị giặc Minh cai trị tàn ác cùng với chính sách đồng hóa dân tộc Việt phải chịu một thời kỳ đen tối lâu dài.
Triều đại nhà Trần có thể nói là triêu đại huy hoàng nhất của nước Nam, trị vì qua 12 đời vua kéo dài 175 năm. Và 2 vị vua đời Hậu Trần kháng Minh, ngày nay tại thôn La, xã Yên Mô, tỉnh Ninh Bình có đền Hậu Trần thờ Giản Định Đế và Trùng Quang Đế và công thần Trần Triệu Cơ nên còn gọi là Đền La.
C- CHIẾN CÔNG 3 LẦN THẮNG QUÂN NGUYÊN
Để chiến thắng quân Nguyên, các vua nhà Trần đã đưa ra hai hội nghị đáng chú ý trong sách lược chống giặc là Hội nghị Bình Than và Hội nghị Diên Hồng:
+ Hội nghị Bình Than:
Cuối năm 1282, biết được ý đồ quân Nguyên sẽ tấn công Đại Việt lần 2, vua Trần Nhân Tông bí mật triệu tập các vương hầu, tướng lãnh họp bàn kế sách chống giặc.
Để đề phòng nội gián việc hoạch định phương kế chống giặc phải được bảo mật tuyệt đối, nhà vua ngự trên sông ở Bình Than, huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương đề cử tướng lãnh và phân công trách nhiệm phòng thủ các nơi hiểm yếu. Hội nghị trao quyền Tổng chỉ huy quân đội cho Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (Tổng tư lệnh), Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư làm Phó đô tướng quân (Tư lệnh phó).
Tại hội nghị Bình Than Trần Quốc Toản vì quá trẻ tuổi nên không được tham dự, Quốc Toản tức giận đã bóp nát trái cam đang cầm trong tay rồi về tuyển mộ một đội quân hơn nghìn gia nô và thân thuộc tham gia kháng chiến, giương cờ “Phá cường địch báo Hoàng ân”. Đội binh Trần Quốc Toản đóng góp nhiều chiến công ở trận Tây Kết và Chương Dương.
+ Hội nghị Diên Hồng:
Năm 1284 trước thế giặc mạnh hơn lần thứ 1 năm 1258, Thượng Hoàng Trần Thái Tông có kế sách vận dụng toàn dân quyết tâm chiến đấu chống giặc, nhà vua triệu tập bô lão toàn quốc về thềm điện Diên Hồng để trưng cầu dân ý về chủ trương nên hòa hay nên chiến chống quân xâm lược Nguyên-Mông (lần thứ 2). Lời thề quyết chiến – Sát Thát! Toàn dân đoàn kết một lòng hy sinh giết giặc, quan binh thích vào cánh tay hai chữ “Sát Thát” nghĩa là giết giặc Nguyên-Mông.
Trãi qua 3 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên năm 1258, 1285 và năm 1287 đến 1288, có thể tóm lược nét đại cương như sau:
• Tóm tắt cuộc kháng chiến chống quân Nguyên-Mông lần 1 (1258)
Năm 1257, vua Mông Cổ là Hốt Tất Liệt quyết định tiêu diệt Nam Tống, theo kế hoạch một đạo quân tiến đánh Đại Việt sau đó từ phía nam đánh lên Quảng Tây hợp cùng các cánh quân khác tấn công tiêu diệt nhà Tống.
Năm 1258, theo sử liệu Ngột Lương Hợp Nhai (Uriyangqatai) chỉ huy khoảng 10,000 kỵ binh Mông Cổ và 20,000 quân Đại Lý vượt biên giới theo đường sông Thao tiến đánh, quân Nguyên thắng hai trận Bình Lệ Nguyên (Tam Đảo, Vĩnh Yên) và Phù Lỗ sau đó tiến chiếm kinh đô Đại Việt “vườn không nhà trống” trong 9 ngày. Quân nhà Trần phản công đại phá quân Nguyên tại trận Đông Bộ Đầu khu vực gần cầu Long Biên ngày nay. Quân Nguyên thua chạy về phương Bắc bị thủ lĩnh miền núi Hà Bổng tập kích truy sát tàn quân cố chạy thoát về Tàu. Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ nhất dưới sự lãnh đạo của vua Trần Thái Tông thắng lợi hoàn toàn.
• Tóm tắt cuộc kháng chiến chống quân Nguyên-Mông lần 2 (1285)
Đầu năm 1285, 50 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy ồ ạt kéo sang xâm lược nước ta (bao gồm dân binh và phục dịch). Các trận đánh lớn diễn ra nhiều nơi vùng biên giới, thấy thế giặc quá mạnh không thể trực diện đối kháng Trần Hưng Đạo lui quân về Vạn Kiếp (Hải Dương) để bảo toàn quân chủ lực. Cánh quân thứ 2 do Toa Đô khoảng 2 vạn (bao gồm dân binh và phục dịch) đánh vào Nghệ An tạo thế gọng kìm để tiêu diệt quân nhà Trần. Trần Quốc Tuấn áp dụng chính sách “vườn không nhà trống” để quân Nguyên không cướp được lương thực, khi một đạo quân khổng lồ thiếu lương thực thì tạo ra nhiều nguy cơ. Trần Quốc Tuấn và vua Trần Thái Tông lui quân ra vùng biển Thanh Hóa. Nhân cơ hội quân Nguyên bị đói và bệnh tật Trần Quốc Tuấn liên tục mở các trận đánh tiêu diệt địch tại Tây Kết, Hàm Tử (Khoái Châu, Hưng Yên), Thường Tín (Hà Tây) và tại Thăng Long.
Tháng 6 năm 1285, quân Nguyên tháo chạy Thoát Hoan phải chui vào ống đồng thoát thân, còn tướng Toa Đô bị chém đầu ở trận Tây Kết, đạo quân xâm lược hoàn toàn bị tan vỡ.
• Tóm tắt cuộc kháng chiến chống quân Nguyên-Mông lần 3 (1287-1288)
Sau 2 lần thất bại trước Đại Việt, tháng 12 năm 1287 vua Nguyên là Hốt Tất Liệt ra lệnh huy động hàng chục vạn quân bộ và thủy binh tiến đánh Đại Việt. Chia làm 3 cánh quân:
+ Cánh thứ nhất theo đường Vân Nam tiến xuống do Ái Lỗ chỉ huy.
+ Cánh thứ 2 theo đường châu Khâm châu Liêm do Thoát Hoan chỉ huy, có các tướng Trình Bằng Phi, Áo Lỗ Xích đánh vào Lạng Sơn, Vạn Kiếp, Thăng Long, đem theo Trần Ích Tắc.
+ Cánh thứ 3 là đội thủy binh do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ chỉ huy cùng 600 chiến thuyền. Đội thủy binh vận chuyển lương thực theo sau do Trương Văn Hổ chỉ huy khi đi ngang qua Vân Đồn bị tướng Trần Khánh Dư phục kích, đoàn thuyền quân lương bị đắm một số bị quân Trần tịch thu.
Trận Bạch Đằng, đầu năm 1288 “Cọc nhọn Bạch Đằng” tái hiện (sau hơn 300 năm từ khi Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán năm 968), quân Trần đánh tan quân Nguyên trên sông Bạch Đằng phần lớn chiến thuyền bị đắm, tướng Nguyên là Ô Mã Nhi, Phàm Tiếp, Tích Lệ Cơ bị bắt làm tù binh, tướng khác là Phạm Nhan bị Trần Quốc Tuấn cho xử trảm. Hàng chục vạn quân Nguyên bỏ xác trên sông Bạch Đằng hoặc bị bắt làm tù binh.
Chiến thắng trận Bạch Đằng năm 1288 là trận đánh thủy chiến lớn nhất trong lịch sử chống xâm lăng của dân tộc Việt, cũng là trận đánh thắng lợi to lớn nhất trong công cuộc chống quân Nguyên.
Tuy quân Nhà Trần cả 3 lần chiến thắng nhưng chưa chấm dứt tham vọng của quân Nguyên, nhà Trần chủ động dùng biện pháp ngoại giao để lập lại hòa bình. Tuy nhiên Hốt Tất Liệt vẫn muốn động binh khi tình thế thuận lợi. Năm 1294 Hốt Tất Liệt qua đời, Thiết Mộc Nhĩ lên ngôi bỏ ý định thôn tính Đại Việt từ đó chiến tranh mới thực sự chấm dứt.
+ Lễ Khai Ấn đền Trần,
Hàng năm đền Trần Nam Định đều có tổ chức hai lễ hội quan trọng là Lễ Khai Ấn Đền Trần vào tháng giêng và Hội Đền Trần tổ chức vào tháng 8.
Lễ Khai Ấn tổ chức vào đêm 14 rạng 15 tháng giêng, với nhiều hoạt động văn hóa như Biểu diễn trống hội cà rùng, chơi cờ, tổ tôm, múa rồng-lân-sư, hát chèo, hát xẩm, múa rối nước, biểu diễn võ thuật, thi đấu vật, … Lễ rước kiệu Ngọc Lô, lễ rước nước, Tế cá, … là tục lệ cổ xưa tại Tiên Miếu nhà Trần (Phủ Thiên Trường) để cầu cho quốc thái dân an, thiên hạ thái bình thạnh trị, nhà nhà chung hưởng lộc Ấn Đền Trần “Tích Phúc Vô Cương”.
+ Hội đền Trần Nam Định.
Hội Đền Trần tổ chức trong 5 ngày, từ 15 đến 20 tháng tám âm lịch. Chương trình Lễ gồm có các nghi thức rước kiệu, rước nước, dâng hương, … và phần Hội là phần hoạt động văn hóa dân gian tưng bừng náo nhiệt như hát văn, diễn võ, múa lân, đấu vật, v.v…
D- CHÙA THÁP PHỔ MINH,
Chùa tháp Phổ Minh là ngôi chùa được xây dựng vào năm 1262, ở phía tây cung Trùng Quang cách chừng vài trăm mét thờ các Tổ sư là các vua Trần, được trùng tu nhiều lần vẫn còn lưu giữ nhiều dấu tích từ đời Trần.
Chùa Phổ Minh cổ kính.
Bên trong chùa có tượng Trần Nhân Tông nhập niết bàn (tượng nằm), tượng Trúc Lâm Tam Tổ, một số tượng Phật rất đẹp. Trên đại hồng chung của chùa có khắc bản văn “Phổ Minh đỉnh tự” đúc năm 1796. Chung quanh có các cây cổ thụ, cây muỗn từ năm 1697 ghi dấu đến nay 328 năm.
***
Di tích Đền Trần Nam Định không rộng lắm nên khoảng hơn 2 giờ chúng tôi tham quan hầu hết các nơi, ghi hình làm tư liệu, tìm hiểu bổ túc thêm chi tiết lịch sử mà từ trước chưa biết. Cô Út Ngọc Ruby tỏ ra thích thú:
- Ba, chuyến đi này mình xui xẻo gặp nồm và mưa nên không đi được nhiều và hình chụp không đẹp, nhưng bây giờ con đi tham quan di tích đền miếu không thấy khô khan như trước. Khi mình tìm hiểu qua từng triều đại, qua những bước thăng trầm lịch sử con bắt đầu hứng thú đi thực tế học bài sử học.
- Viếng Đền Trần Nam Định, con thấy sự kiện lịch sử nào ấn tượng nhất?
- Ừm, … Nhà Trần 3 lần oanh liệt chiến thắng quân Nguyên, một đế chế hùng mạnh nhất chinh phục các nước từ Á sang Âu.
- Cũng đúng, còn một chi tiết nữa trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng năm 1288 làm chùn vó ngựa quân Mông Cổ và trận Bạch Đằng đã đi vào quân sử thế giới! Mà nhắc đến Bạch Đằng Giang con còn nhớ thêm gì khi mình đã mấy kỳ ra Bắc trãi nghiệm những di tích trăm năm ngàn năm?
Có chút do dự suy nghĩ, cô Bé chợt nghiệm ra nhìn ba của cô mỉm cười hãnh diện:
- Con nhớ rồi “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” sứ thần ta Giang Văn Minh đốp chát với vua nhà Minh (1638) ra vế “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục” khi thể diện dân tộc bị thách thức sĩ nhục. Đề tài câu đối nó liên quan đến thời Hai Bà Trưng và đáp lời là trận Bạch Đằng đời nhà Trần.
(Vua Minh là Sùng Trinh ra câu đối:
"Đồng trụ chí kim đài dĩ lục""
Nghĩa là:
"Đồng trụ đến giờ rêu vẫn mọc."
Ý nhắc đến Mã Viện tiêu diệt Hai Bà Trưng rồi dựng cột đồng khắc mấy chữ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”. Sứ thần ta Giang Văn Minh không chịu khuất phục, hiên ngang đối lại bằng câu:
"Đằng Giang tự cổ huyết do hồng"
Nghĩa là:
“Bạch Đằng thuở trước máu còn loang”
Hàm ý nói rằng với trận chiến trên sông Bạch Đằng máu quân Bắc phương vẫn còn nhuộm đỏ sông Bạch Đằng. Như bị tát nước vào mặt vua Sùng Trinh trước triều đình, nhà vua nổi giận ra lệnh bắt sứ thần nước ta mổ bụng để xem “cái gan dân Nam to lớn bao nhiêu”!)
Lê Hữu Uy
Phoenix, Arizona – June 03, 2025.
(Viết tặng Ngọc Ruby cô con gái Út của ba, đã tiến bộ vượt bậc trong môn sử. Cũng xin chia sẻ đến quý đọc giả theo dõi đề tài “Tìm về dòng lịch sử cội nguồn”).