Vườn Nhà
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
(Hàn Mặc Tử)
Ngọn gió nào đưa bác đến đây, cũng lâu rồi bác nhỉ, nhớ năm nào cũng vào dịp cuối xuân sang hạ. Đường xa vời vợi mệt không bác, cứ ngồi đây nghỉ một chút, tôi đi pha ấm trà. Thú thật tôi mới biết uống trà gần đây sau khi đọc “Những chiếc ấm đất” cuả Nguyễn Tuân, tính tôi vẫn lẩn thẩn về những ngày tháng cũ. Sau đó, tôi đưa bác dạo một vòng sau vườn, nghề chơi cây cảnh cũng có đạo của nó, không biết đến nó không ai chết, cũng như không đọc văn cũng không ai chết nhưng cuộc sống sẽ nghèo đi, buồn chán hơn.
Cái vườn của cụ Nguyễn văn Vĩnh ngày trước là khuôn mẫu cho tao nhân mặc khách, trở thành mực thước cổ điển. Cây cỏ có sự sống, tuy rút nhỏ gạn lọc trong miếng vườn, chậu kiểng, vẫn biểu lộ cái đẹp toàn vẹn góp lại của hội họa, điêu khắc và thi ca. Nó là tác phẩm hỗn hợp tuyệt bích của người tạo ra với tâm hồn và bao nhiêu công sức, đem tâm nhỏ bé của mình hòa với bao la trời đất. Vừa hiện thực vừa siêu thực, là cuộc sống trong hiện tại và những mộng mơ của tương lai. Là hòn non bộ với ngôi chùa nhỏ trong hẻm núi, mảnh tường cũ loang lổ, mái ngói rêu xanh, là ngư ông trên chiếc thuyền bé tẻo teo, ẩn hiện dưới vòm hang nhủ đá. Nhìn gốc Tùng già chênh vênh mỏm núi như thơ Đỗ Phủ “Minh minh cô cao, đa liệt phong”. Cảnh nhập vào thơ vào hồn gợi lắm nỗi bâng khuâng khó tả. Thời xưa đã phân chia cây kiểng ra nhiều thứ bậc: Cây Trắc bá dành cho Vua, các quan đại thần có loại cây Loan, nho sĩ chuộng cây Si và bậc phong lưu thì trồng Liễu. Lão tử bảo “Đại khối trầm tĩnh vô ngôn” , một cây kiểng lâu năm giống như ông già minh triết trầm tư với thế cuộc thăng trầm giữa trời đất bao la.
Nhìn cây Mai trắng, trời càng rét mai nở càng nhiều, ngạo nghễ với gió bấc, tên gọi là Hàn mai. Loại Cúc tầu cánh to cánh ruỗi, người đã mê cúc thì công danh như bỏ ngoài tai, mãi mê với nó suốt năm tháng. Cộng thêm mùi thơm thoang thoảng của mấy chậu Địa Lan mà Khổng Tử đặt tên là Vương Giả Chi Hương. Rải rác đây đó mấy hòn đá vân xanh trừu tượng, quả là siêu thực. Thật ra các cụ đã siêu thực tự thuở nào không phải đợi đến bây giờ. Ngày nay nhìn những cây thế cắt tỉa vụng về dáng con hạc, con lân; những chậu cúc, chậu quất bán đầy đường trong mấy ngày xuân tha hương mới thấy thấm thía buồn chán. Đó là vườn cảnh của trọc phú khoe danh khoe của, không còn chút gì nghệ thuật, thâm trầm thi vị. Rồi thú chơi cá cảnh, người xưa xem đuôi cá, xem vẩy, màu sắc để tìm ra cá qúi. Ngày nay thì nhốt cá trong hồ kiếng, bụng trắng nhợt nhờ, lượn qua lại lờ đờ, phóng uế bừa bãi !
Chơi cây cảnh để di dưỡng tính tình, phải tự mình chăm sóc, không nhờ cậy ai. Chơi hoa thì theo mùa: Xuân có Hoàng lan. Hạ có Bạch lan, Ngân biên. Thu thì Trần mộng. Đông thì có Mặc lan. Cũng có loại hoa lan tứ thời, hương thơm, lá cứng dài dễ trồng. Nhưng các cụ khinh miệt, liệt vào loại hoa hèn cỏ nội. Vì sao? Vì thời nào nó cũng sống, cũng thơm, loại hoa nịnh đời, nịnh người, thì trồng làm gì.
Ông Nguyễn Tuân không chơi được lan, tính vốn lười, chỉ đi xin đem về, cây nào chết cây đó. Ông quen được vợ con hầu hạ, nhưng Lan không chịu hầu ai bao giờ. Có người chơi lan rất công phu, phong cách như không chơi gì cả, cái thú chơi và nếp sống hòa nhập làm một. Trong Kiếm đạo, kiếm với người là một, không còn chiêu số, là đạt đến “Đạo” . Đó là trường hợp của ông Trần Huyền Trân, chỉ có mảnh vườn nhỏ và cái ao con. Ông trồng vài bụi trúc trước nhà, mấy hòn đá xếp quanh bờ ao, dưới dàn thiên lý là chậu hoa lan…Ông Trần chỉ chơi lan Hạc Đính vì là tên vợ ông, thêm mấy chậu cây thế và bể cá nhỏ. Bước vào nhà ông thấy ngay cái nghèo nhưng thanh cao, phảng phất mùi thơm của hoa, thỉnh thỏang có tiếng chim gáy gù xa xôi ở góc vườn. Trong thế giới nho nhỏ, riêng biệt này, người và trời đất thoáng chốc là một. Bỗng nhiên ta thấy nực cười, bao túi bụi ngược xuôi một đời người trước cái thong dong thảnh thơi cuả cây cảnh thiên nhiên.
Mảnh vườn nhà tôi thì thanh cảnh, trầm mặc nhưng được cái rộng nhiều đất. Bây giờ mời bác quá bộ ra vườn sau cho thoáng. Này nhé, ta quẹo trái, bước qua chiếc cầu tre. Bác lắc đầu nhìn tôi. Vâng, tôi ôm đồm nhiều qúa, thêm cái cầu Nhật. Phẳng lặng quá cũng nhàm chán, tôi muốn bước cao bước thấp như Văn Cao “lên non tìm động hoa vàng”. Hình như bác đang đọc thơ, “Ta đi thơ thẩn bên vườn mộng, em nấp sau hoa khúc khích cười” . Bác ơi, gìa rồi tìm đâu ra “em nấp sau hoa” , bây giờ chỉ còn lại bạn bè xa gần, khóm trúc, cầu ao…
Xin bác nói to một chút, dạo này tôi hơi nghễnh ngãng. Bác hỏi vườn nhà tôi là vườn Nhật? Vâng, cũng đúng thôi, là hình thức làm dáng, không còn bon chen màu mè. Lý do: vườn Tàu hơi nặng nề, tại quê ta thường là vườn cây ăn trái. Vườn Nhật dáng vẻ nhẹ nhàng, lãng đãng một chút Thiền quán. Qua mảnh vườn này, tôi lõm bõm góp nhặt một vài ý nghĩa như sau:
Bước trên lối nhỏ (roji) như lang thang của tâm thức, góp nhặt sỏi đá trên nẻo đường trần, lác đác những chiếc lá vàng, qúa khứ bỏ lại sau lưng. Ảnh hưởng Thiền học, vườn Nhật là sự hài hoà giữa giao động và tĩnh lặng, bác ạ.
Giao động là bố cục tại góc vườn bên phải, tay Hổ, có cây Tùng bách, thác nước róc rách, bụi trần tan loãng cùng tiếng thở dài của gió thoảng qua cành cây nhánh cỏ.
Tĩnh lặng là khoảng đất bên trái, tay Long, trống trải, một chút rêu phong rải rác đây đó những viên sỏi, vài ba hòn đá lớn nhỏ. Chiếc cầu Nhật bắc qua con suối khô, thoáng trông chơi vơi lạc lõng, nhưng thật sự được sắp xếp theo khuôn mẫu có tan có hợp. Cuối cùng cuộc đời chỉ là giấc mộng kê vàng. Tôi sắp xếp thêm ngôi chùa bằng đá nho nhỏ (ishidoro) mua tại phố Nhật năm nào, đang thầm lặng ẩn nấp dưới tàng cây, ẩn hiện, thấp thoáng sự giác ngộ.
Bác lắc đầu nhăn mặt nhìn tôi “vườn tược gì mà khó khăn qúa vậy” . Vâng, trăm sự tại tôi, lụy vào chữ nghĩa, sách vở, phiền bác phải nghe. Bằng tuổi này, tôi mơ ước những ngày còn lại “lơ thơ tơ liễu” cùng mảnh vườn nhỏ trong những ngày dịu nắng mùa thu. “Trèo lên cây bưởi hái hoa, bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân” . Chúng ta ly hương nhưng không quên mang theo quê hương, khắp nơi chốn trên xứ người.
Bây giờ mời bác quẹo mặt , trước đây là mảnh vườn Thiền một màu sỏi trắng, lẻ loi hòn đá to giữa sân. Nơi đây, tôi tập tành thiền định, đi tìm bản ngã cùa mình. Nhức đầu chóng mặt, tìm mãi không thấy, chỉ thấy một màu trắng phẳng lặng buồn nẫu người. Năm ngoái, tôi hì hục phá bỏ, thay vào đó cái hồ nước, chỉ thiếu vài viên gạch Bát Tràng. Tôi làm cái cầu Nhật chênh vênh, trồng mấy bụi cây xanh, cây mai Nhật “Toyo Nishiky” la đà trên mặt hồ. Chạnh nhớ đến Đỗ Phủ:
Giang Mai, mai ở bờ sông
Trong thơ Đỗ Phủ, ngàn năm vẫn buồn…
Lý do tôi đặt bức tượng thiền sư vào đấy, vì thân phận ông cũng lưu lạc như tôi, nay ngồi không, về hưu, chỉ tay qua bên kia thác nước, như thầm hỏi:
Ai ra bến nước trông về Bắc
Chỉ thấy mây trôi, chẳng thấy làng
Làng nước tôi được gói ghém, gởi gấm trong mảnh vườn này đây. Bác đi vài bước sẽ là ngõ trúc và lối mòn nho nhỏ…Đường quê tôi đấy, những khóm trúc, nhớ tre trồng trúc, nghiêng ngả trong những ngày có gió, mây thấp chút âm u, thanh tịnh xa vắng, âm hưởng rặng chuối sau hè. Bác chịu khó khom người, bước dưới vòm trúc, nghĩ rằng từng bước ngõ hẹp ao sâu, chỉ còn thiếu chút mưa phùn. Vào tuổi này, chúng ta chẳng còn gì để bám víu ngoài quê nhà, con đò, cây đa bến cũ. Bác đang ngắm nhìn cái thác nước, hòn non bộ, chiếc cầu tre ọp ẹp. Tôi đã dung hòa hòn non bộ với âm hưởng miền bắc và nghệ thuật xếp đá của Nhật, và đặt cho nó cái tên “hòn non nước”. Ngang mặt hồ, kê phiến đá mỏng, bên trên sắp xếp ba hòn đá to nhỏ khác nhau theo thế “thiên-địa-nhân”, hòn gần hòn xa, có cao có thấp…Làm xong ngắm đi ngắm lại, ô hô, chẳng khác gì “Cái Giếng” của bà Hồ xuân Hương:
Cầu trắng phau phau đôi ván ép
Nước trong leo lẻo một dòng thông...
Hòn đá được khoét trũng để chứa nước rửa tay trước khi bước vào trà thất. Nước chảy qua đốt tre khẳng khiu (kakeki), vắt ngang hòn đá, lõm bõm không ngừng. Tôi vừa ý hòn đá này lắm, đứng trơ trọi trên mặt hồ, thêm cái lỗ làm thác nước róc rách trên cao, len lỏi chẩy xuống mấy tàn cây nhỏ…
Bác hơi choáng váng à? Mình tạm ngồi xuống cái ghế này. Tôi thường ngồi đây, nhớ cái quán nhỏ bên đường tại Định Quán, Đà-Lạt, “đường xa choáng váng núi và mây” . Phóng mắt nhìn hai hòn đá chồng, hồ nước, chiếc cầu, xa xa là quãng vườn um tùm, rồi nhớ bạn bè xưa cũ. Bác mỉm cười vu vơ, chắc bác cũng nhớ ngày xưa thân ái, mấy cô mắt sáng, má đỏ môi hồng, ở tuổi còn cắp sách đến trường.
Cuối vườn xa xa, mấy khóm trúc Nhật Bản, bây giờ lưa thưa còm cõi, hai ba năm sau, thân trúc sẽ to bằng ngón tay, ngả nghiêng theo gió chiều. Bác nghĩ xem, quê ta mà thiếu rặng tre đầu làng cuối ngõ, bên bờ ao, thì ta cũng mất mát nhiều thứ lắm. Và ta đã chẳng có Võ Phiến với “Quê Ngoại” , Bàng Bá Lân với “ Hỡi cô tát nước bên đàng, sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi” . Gần đây, tôi có về thăm lại cánh đồng cò bên kia Thủ Đức. Giữa buổi trưa hè hiu hiu, nằm trên võng, đắm chìm trong tiếng kẽo kẹt của bụi tre gìa lá reo xào xạc, quán “con nai vàng ngơ ngác” của buổi hoàng hôn hẹn hò …Bây giờ chỉ còn lại hoài niệm vời vợi.
Hòn non bộ này là hoài bão tang bồng thu nhỏ, như ốc mượn hồn, cũng đủ cả sông núi nước non, ngư tiều canh độc. Chẳng dấu gì bác, những chậu trồng cây trong vườn đều được mang sang từ Hà Tiên. Mấy tảng đá đẹp mê hồn nhưng nặng khiếp. Được cái điểm son là sườn đá chênh vênh, hóc hẻm nên tôi dấm dúi ông tiều ông canh vào hốc này, mỏm kia, “Lom khom dưới núi tiều vài chú” . Ngang ngang đỉnh núi phất phơ, ông tiên đánh cờ với bình rượu túi thơ. Tôi làm thêm cái cầu cho mấy ông xuống núi ngắm trời đất đâu đây. “Gác mái ngư ông về viễn phố”, “Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo, sóng biếc theo làn hơi gợn tí” Viễn Phố là tên bà Võ Phiến, ông mê vợ, dùng ngay làm bút hiệu cho mình. Nghe đến đây bác có vẻ ngậm ngùi, nhớ đất nước làng mạc. Thôi bác ạ, sông có khúc, người có lúc, vận nước đã vậy, thở than u hoài cũng thế thôi. Tất cả là giấc mộng Nam Kha, có tan có tụ, sắc sắc không không. Bác hãy nhìn góc vườn đằng xa, dưới bóng cây Tùng có mặt Phật Chàm bằng đá đen. Nghĩ mà xem, dân tộc Chàm mất nước, cuối cùng cũng có mặt nơi đây, dãi dầu sương gió trên đất lạ quê người. Tháp Chàm cùng Thăng Long hoài cổ sẽ chìm dần trong quên lãng, vang bóng một thời. Trên đất khách quê người, những ngày lưu lạc, ta tìm được đến nhau vì vấn vương tri giao là quí hóa lắm rồi, bác ạ.
Bác trông khật khừ rồi đấy, mời bác về “trà thất” dùng tách trà đầu ngày. Tôi gọi trà thất cho văn vẻ, thực ra chỉ là dàn cây gỗ, kèo này cột kia, gác ngang gác dọc. Được mấy cây leo rậm rạp um tùm bóng mát, rũ ngang tầm mắt, xem ra vẻ âm u, cô tịch như cái thảo am. Nào mời bác dùng trà. Tôi chợt nhớ, một trà nhân, sư ông Nhất Hạnh thì phải: “Từ tốn ngồi xuống trong tĩnh lặng của chân không, qua làn khói trà nhẹ tênh, tan loãng, và đi tìm những giây phút lắng đọng của tâm thức” .
Bây giờ ta đi thăm thú mấy cây Bonsai của tôi. Từ đời Hán, đời Đường, người Trung Hoa đã tận thu tứ hải sơn hà vào cái ao con, hòn non bộ…Sau này đến cả bonsai, cây cối, rừng rậm cũng được thu gọn trong chậu “ Cây thế ”. Riêng tôi chỉ chú tâm vào hai loại là tùng bách và cây si. Bác hỏi tôi gửi gắm gì ở vườn nhà này? Tôi gói ghém qua mấy chậu trồng cây vô tri vô giác, sản phẩm của quê hương. Mỗi khi lững thững trong vườn, có gió và mây, tôi bâng khuâng nhìn những chậu gốm mầu gạch cua, con rồng uốn khúc đầy hồn tính, chậu men sành mầu ngọc bích, đường nét hoa văn thanh nhã dung dị. Bác tặc lưỡi “hình tượng chỉ là cục đất sét, sau đó là nung với nướng, thành cái chậu cái chum, nghĩ ngợi mệt quá” . Này bác ạ, nghệ thuật đồ gốm của ta chân truyền qua bao đời, Bát Tràng, Thanh Hóa không gò bó như đời Tống của Tàu. Đồ gốm Lái thiêu, Hà Tiên không nặng nề như đời Minh. Ta có nét đặc thù. Nét vẽ phóng khoáng đơn sơ một vài cọng lau, đan thanh dăm ba ngọn cỏ, thăng trầm qua bao thời đại, mà vẫn giữ được đường nét hoa văn cổ truyền, chan chứa tình tự dân tộc.
À, cũng trưa rồi. Kỳ trước bác đã nếm qua món chả cá. Hôm nay thì có tiết canh vịt với bánh đa vừng. Nếu răng cỏ bác móm mém thì tôi bảo mẹ cháu xào xáo nồi ốc giả ba ba mời bác xơi. Mẹ cháu múa bát múa đũa một chút là xong thôi. Có trái chuối xanh, hai lát đậu rán, ít sườn non, rau tía tô, thêm tí ti mắm tôm mới đậm đà. Tôi dạo này bụng dạ hay chộn rộn, phải làm cút rượu mới xong. Bác đừng khách sáo, bác cứ dùng trà nếu cữ rượu. Tại sao bác lại tặc lưỡi bảo tôi sướng. Sướng ở cái chỗ nào? Không dấu gì bác, chẳng qua cũng trong cái vòng luẩn quẩn:
Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu
Trầm tư bách kế bất như nhàn
Trung Đạo