THAM QUAN ĐỀN HÙNG, PHÚ THỌ
A-ĐI LÊN PHÚ THỌ
Nghi môn đền Hùng – Đường lên đền Trung và đền Thượng.
Đến tham quan và chiêm bái Đền Hùng (Phú Thọ) là để tìm về cội nguồn, qua các bài sử học cũng có đầy đủ nhưng đến tận nơi tham khảo tài liệu trên văn bia hay các tư liệu lưu trử trong nhà bảo tang, được đến tận nơi chiêm ngưỡng di tích khơi nguồn lịch sử ấy sẽ cho chúng ta niềm cảm xúc sâu sắc của một dân tộc có hơn 4000 năm dựng nước, có một nền văn hóa riêng biệt luôn phát triển mặc dù từng trải qua hàng ngàn năm bị giặc phương Bắc đô hộ nhưng vẫn tồn tại không bị đồng hóa.
Sau khi điểm tâm ở quán phở Lý Quốc Sư trên đường Võ Chí Công, phường Xuân La, quận Tây Hồ, chúng tôi lên đường đi lên Phú Thọ vùng đất tổ của dòng giống Tiên Rồng. Đền Hùng Phú Thọ cách Hà Nội khoảng 90 km, thuộc thôn Lạc Hồng, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, cách trung tâm thành phố Việt Trì khoảng 07 km.
Đền Hùng được xây dựng trên núi Nghĩa Lĩnh vào thế kỷ 17 dưới triều nhà Hậu Lê làm nơi thờ 18 vị vua Hùng, là vùng đất thiêng gắn liền với nguồn gốc và lịch sử dân tộc Việt. Phía trước có ngã 3 sông Bạch Hạc là hợp lưu của các dòng sông lớn quan trọng nhất miền Bắc gồm sông Hồng, sông Lô và sông Đà; Chung quanh có các dãy núi trùng điệp, phía đông có Tam Đảo phía nam có Ba Vì cảnh sắc hùng vĩ ngoạn mục. Vua Hùng chọn Phong Châu nơi đây làm kinh đô nước Văn Lang là một địa thế phong thủy tốt: có nguồn nước dồi dào từ các sông đem phù sa màu mỡ đó là ưu điểm để phát triển nông nghiệp trồng lúa nước, có đường thủy thuận tiện giao thông, những dãy núi chung quanh là bức tường thành bảo vệ kinh thành.
Ngành khảo cổ học ngày nay tìm thấy nhiều dấu vết cư trú của cư dân khai quật được từ thời đại Hùng Vương khắp nơi từ huyện Lâm Thao đến ngả ba sông Bạch Hạc (Việt Trì), cho thấy một thời kỳ rực rỡ với nghề luyện kim đồng thau, trồng lúa nước của nền văn minh nông nghiệp từ trước đây hàng mấy ngàn năm.
B-VIẾNG ĐỀN HÙNG
Hai bố con nhà tui đến khu vực Đền Hùng trời đã trưa, xe chạy quanh cung đường một bên là vách núi, một bên có hồ nước quan cảnh khá đẹp, yên tỉnh. Không vào dịp cuối tuần ít du khách nên dịch vụ xe điện đưa rước do ban quản lý Đền thì phải chờ đợi mất thời gian, chọn cách đi riêng lẻ là thích hợp nhất. Sau khi được giới thiệu tổng quát mới biết rằng khu vực Đền Hùng Phú Thọ rộng lớn gồm nhiều đền miếu chia làm 2 khu vực:
Khu di tích Đền Hùng núi Nghĩa Lĩnh có diện tích khá rộng lên đến 10,30 ha, riêng khu vực Trung tâm Lễ Hội và đền thờ Lạc Long Quân trên núi Sim vừa mới xây dựng năm 2007 rộng 13,79 ha.
Đến Phú Thọ với 4 địa điểm quan trọng để tham quan: đền thờ Tổ Mẫu Âu Cơ trên núi Vặn, Bảo tàng Hùng Vương và đền thờ các vua Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh, đền thờ Lạc Long Quân trên núi Sim.
Tương truyền núi Nghĩa Lĩnh là chiếc đầu rồng hướng về phía Nam (cao 175 m), có các núi uốn lượn thành thân rồng với các dãy núi Trọc (cao 145 m) và núi Vặn (cao 170 m). Người dân coi như đó là 3 ngọn núi thiêng liêng được gọi là “Tam sơn cấm địa”.
1B- Đền Hùng (Núi Nghĩa Lĩnh)
Đền Hùng núi Nghĩa Lĩnh gồm các đền Hạ, đền Trung và đền Thượng được xây dựng từ đời nhà Lê khoảng giửa thế kỷ 17, cổ kính, đường lên đền nhỏ hẹp và nhiều bậc thang rất trở ngại khi ngày nay cử hành lễ hội Đền Hùng.
Trước đền có bức đại tự khắc 4 chữ Hán “Cao Sơn Cảnh Hành” có nghĩa là “Núi cao đường lớn”. Hai bên cổng có tượng hai vị thần trấn giử đền rồi đi lên đến khuôn viên bên trên Đền Hùng.
Người viết bài dâng hương bái kiến tại Đền Hạ.
+ Đền Hạ nằm ven chân núi theo con đường râm bóng cây rừng, leo lên mấy chục bậc thang đến sân đền. Đền Hạ gồm 2 tòa nhà tiền tế và hậu cung. Nơi chánh điện có bàn thờ đặt long ngai, bài vị thần núi, đồng thời cũng có thờ vua Hùng và hai công chúa Tiên Dung (phu nhân Thánh Chữ Đồng Tử) và công chúa Ngọc Hoa (phu nhân Tản Viên Sơn Thánh).
Theo tương truyền nơi đây mẹ Âu Cơ đã hạ sinh một bọc trăm trứng, nở thành trăm người con, 50 con theo cha xuống biển, 50 con theo mẹ lên núi.
+ Đền Trung nằm lưng chừng núi, cần phải leo lên 159 bậc thang mới lên đến “Hùng Vương Tổ Miếu” là nơi dành riêng các vua Hùng cùng các Lạc Hầu, Lạc Tướng ngoạn cảnh và họp bàn việc nước nên khu vực này gọi là núi Cấm.
Đời vua Hùng thứ 6, tại đây nhà vua đã mở cuộc thi tuyển chọn người tài để nối nghiệp trị vì đất nước. Người con út tên Lang Liêu được vua Hùng chọn nối nghiệp bởi thành tích đã sáng tạo ra bánh chưng (vuông) tượng trưng cho đất, bánh dày (tròn) tượng trưng cho trời. Một ý nghĩa khác trong cách gói bánh chưng là dây buộc chia mặt bánh thành 9 phần, chỉ sự phân chia ruộng đất trồng lúa: Ô chính giửa thuộc về nhà vua (thuế), 8 phần còn lại sẽ luân canh xoay vòng đồng đều chia ra trong dân chúng đó là chính sách công xã nông nghiệp tiên tiến nhất thời bấy giờ. Sự sáng tạo bánh dày bánh chưng còn mang ý nghĩa là tượng trưng cho người lãnh đạo tìm ra cách đem lại cơm no áo ấm, hạnh phúc cho dân.
+ Đền Thượng có tên chính thức là “Kính Thiên Lĩnh Điện” nghĩa là “Điện thờ trời trên đĩnh núi Nghĩa Lĩnh”. Muốn đi lên Đền Thượng cũng cần leo lên khoảng 100 bậc thang nữa. Đền Thượng là nơi các vua Hùng lập đàn tế trời cầu cho quốc thái dân an, đất nước thái bình thạnh trị.
Phía trước có bức nghi môn ghi 4 chữ “Nam Việt Triệu Tổ” nghĩa là tổ tiên của người Việt phương Nam. Đền được xây thành 3 cấp: Ngoài Nghi môn có Tiền tế, Đại bái và Hậu cung kiến trúc theo hình chữ vương, ngoài ra còn có lầu chuông.
Trong khu vực đền có lăng Hùng Vương, tương truyền nơi đây là nơi an táng của vua Hùng thứ 6, hình lập phương, lăng xây 2 tầng mái, 8 góc cong lên tạo thành 8 đầu rồng. Trên các mặt tường đều có đắp nổi mặt hổ phù, kỳ lân. Cửa chính có 2 câu đối chữ Nôm bày tỏ lòng thành kính biết ơn của con cháu đối với tổ tiên:
“Lăng tẩm tự năm nào, núi Tản sông Đà non nước vẫn quay về đất tổ”
“Văn minh đương buổi mới, con Hồng cháu Lạc giống nòi còn biết nhớ mồ ông”.
+ Đền Quốc Mẫu Âu Cơ tọa lạc tại xã Hiền Lương, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ, cách Hà Nội 150 km, cách đền Hùng Phú Thọ 65 km. Trong Đền Tổ Mẫu Âu Cơ thờ Mẹ Âu Cơ, Lạc Hầu, Lạc Tướng. Tương truyền trong hành trình mở đất, Bà dừng chân nơi vùng đất này khai hoang, dạy dân canh tác gắn bó với cuộc đất ở đó cho đến cuối đời. Sau khi mất người dân lập miếu thờ, đến đời Nhà Lê chính thức xây dựng đền vào năm 1465 và sắc phong là đền Quốc Mẫu. Đến đời nhà Nguyễn, đền tiếp tục được sắc phong và gìn giữ. Năm 1991, Đền được công nhận là di tích lịch sử quốc gia.
Năm 2005, lần nữa đền được tôn tạo lại theo kiểu kiến trúc cổ, với các hạng mục gồm: Đền chính, hữu vu, tả vu, nhà bia, trụ biểu, cổng tam quan, … Muốn lên thắp nén nhang bái kiến Quốc Mẫu phải leo lên 553 bậc đá, là một trở ngại không nhỏ cho nhiều người cao tuổi muốn lên viếng Đền.
Lễ Hội đền Mẫu Âu Cơ vào ngày mùng 07 tháng Giêng đông đảo đồng bào đến viếng, cúng bái, cầu Quốc Mẫu Âu Cơ ban ơn phước may mắn.
2B- Đền Thờ Lạc Long Quân,
Đền Quốc Tổ Lạc Long Quân xây dựng trên núi Sim từ năm 2007, trên ngọn núi thấp như ngọn đồi hình con rùa cách đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh khoảng 1 km, thuộc xã Chu Hóa, thành phố Việt Trì. Quần thể có nhiều hạng mục, với diện tích khá rộng khoảng 13,79 ha, chia làm 3 khu: Khu A, gồm đền chính, cổng, trụ biểu, cổng biểu tượng, phương đình, nhà tả vu, hữu vu, ... Khu B, khu nhà văn phòng ban quản lý và đón tiếp. Khu C, cảnh quan và các công trình phụ, bải đậu xe, v.v...
Đền chính kiến trúc theo chữ đinh, nội thất, hoành phi sơn son thếp vàng, mái lợp mủi hài, … Tòa Hậu cung có tượng Quốc Tổ Lạc Long Quân cao 1,98 m bằng đồng ngồi trên ngai vàng đặt trên bệ đá chạm khắc hoa văn tinh vi.
Nghi môn đền thờ Lạc Long Quân trên đồi Sim.
Chính điện đền thờ Lạc Long Quân.
Việc thực hiện công trình Trung tâm Lễ Hội Đền Hùng là do nhu cầu cấp thiết vì mỗi năm có đến cả vạn đồng bào tham dự Lễ Giổ Tổ mùng 10 tháng 3, vị trí củ chật hẹp quá tải không đáp ứng được nhu cầu cho Lễ Hội.
· Đền thờ Hùng Vương tại các nơi khác:
+ Đền Hùng Cần Thơ,
Tại miền Nam, Đồng bằng sông Cửu Long, đền thờ Hùng Vương tọa lạc tại Quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ, trên khung viên rộng lớn gần 4 hecta. Đền chính được bao bọc chung quanh hồ nước tròn và có nền vuông trượng trưng cho trời đất, quanh hồ nước có 54 trụ đá biểu tượng của 54 dân tộc anh em, khánh thành năm 2021.
Nơi đền chính, tầng trên thờ Quốc tổ Hùng Vương, Tổ phụ Lạc Long Quân, Tổ mẫu Âu Cơ, Lạc Hầu, Lạc Tướng. Tầng dưới có 9 trống đồng, chung quanh tường chưng bày nhiều hiện vật và các biểu tượng văn hóa thời đại Vua Hùng. Từ ngoài vào gồm Nghi môn, nhà bia, phần chính đền thờ là hình Trống Đồng cách điệu, chung quanh chạm khắc tinh vi theo ý tưởng các hoa văn trên mặt trống đồng Đông Sơn.
Ngoài ra tại Sài Gòn thời Việt Nam Cộng Hòa cũng có Đền Hùng thờ Quốc Tổ Hùng Vương trong khuôn viên vườn Tao Đàn, hàng năm đều có tổ chức Tế Lễ với các nghi thức trang trọng, nhớ ơn Quốc Tổ Hùng Vương:
“Nhớ thuở Hùng Vương xưa dựng nước,
Tiếp nối nghìn sau đấp cỏi bờ”.
C-TRUYỀN THUYẾT THỜI ĐẠI HÙNG VƯƠNG
Vua Hùng là dòng dõi vua Thần Nông Đế Minh, vua Đế Minh sinh ra Lộc Tục là người tài đức vua cha định truyền ngôi nhưng Lộc Tục không vâng mệnh. Đế Minh lập Đế Nghi (anh Lộc Tục) lên ngôi nối nghiệp cai quản phương Bắc là nước Xích Thần, phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai quản các bộ tộc Bách Việt phương Nam là nước Xích Quỷ. Kinh Dương Vương khi xuống Thủy phủ lấy con gái Long Vương Động Đình Quân tên là Thần Long Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân.
Theo truyền thuyết, vua Hùng Vương thứ nhất là con Lạc Long Quân và bà Âu Cơ lên ngôi năm 2524 trước công nguyên (TCN), truyền được 18 đời vua. Do đó về sau dân tộc Việt Nam được cho thuộc “Dòng giống Tiên Rồng” là vậy. Lấy quốc hiệu là Văn Lang, chia lãnh thổ làm 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức; đóng đô ở Phong Châu bộ Văn Lang. Đến năm 258 TCN, vua Hùng thứ 18 không có con trai nối dõi bị buộc phải nhường ngôi cho cháu họ là Thục Phán của tộc Âu Việt.
Truyền thuyết về Hùng Vương được ghi chép lại lần đầu tiên vào cuối đời Trần tại Hồng Bàng Thị Truyện trong sách Lĩnh Nam Chích quái; tiếp theo được sử gia Ngô Sĩ Liên đưa vào Đại Việt Sử kí Toàn thư ở cuối thế kỉ XV.
Cũng theo truyền thuyết, Lạc Long Quân sống với bà Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nở thành 100 người con trai khôi ngô tuấn kiệt, tuy nhiên có lẽ do không hợp phong thổ hai người bàn bạc chia 50 con theo cha xuống vùng biển và 50 con theo mẹ lên núi trên vùng đất cao, chia nước để cai trị.
“Lạc Long Quân bảo rằng: Ta là loài rồng, sinh trưởng ở Thủy tộc; nàng là giống Tiên, người trên đất, vốn chẳng như nhau, tuy rằng khí âm dương hợp mà lại có con nhưng phương viên bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó mà ở cùng nhau trường cửu. Bây giờ phải ly biệt, ta đem năm mươi con về Thủy phủ, phân trị các xứ, năm mươi con theo nàng ở trên đất, chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc thì cùng nghe không được bỏ nhau. (Wikipedia).
Âu Cơ cùng 50 người con ở lại Phong Châu, suy tôn người con trưởng lên làm vua lấy hiệu là Hùng Vương, triều đại 18 đời vua Hùng bắt đầu từ đó.
(Còn về phía Lạc Long Quân về sau chưa thấy có tài liệu nào nhắc đến chỉ nói là xuống biển, không rõ Lạc Long Quân cụ thể đi về đâu? Có lẽ do người viết bài hiểu biết hạn hẹp, xin quí vị nào kiến thức sâu rộng về lịch sử xin được nêu lên vấn đề để chúng tôi mở mang thêm kiến thức).
Trải qua hơn 4000 năm vùng đất Tam Đảo, Ba Vì các nhà khảo cổ tìm thấy nhiều di chỉ của cư dân cổ xưa đã phát sinh nền văn minh lúa nước và đồng thau của tộc Việt ở Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn. Những phát minh luyện kim đúc trống đồng và chế tạo dụng cụ đồng thau, phát triển nền văn minh trồng lúa nước, tạo ra đời sống định canh định cư, bên cạnh kỷ năng chế tạo nghề gốm, dệt, chài lưới, săn bắt, v.v…
Từ hơn 4 thiên niên kỷ trước, bắt đầu từ bộ lạc Văn Lang, một dân tộc, một xã hội qui củ, một nhà nước thành tựu rực rỡ xa xưa: Thời đại các vua Hùng dựng nước đầu tiên.
Đến đời vua Hùng thứ 18 truyền ngôi cho Thục Phán là cháu họ, khi lên ngôi vua Thục Phán dựng cột đá với lời thề tại đền Thượng:
“Nước Nam sẽ mãi trường tồn, miếu thờ Hùng Vương sẽ còn mãi mãi”.
Thục Phán lấy hiệu là An Dương Vương, đặt tên nước là Âu Lạc, dời đô về thành Cổ Loa.
Thời đại Hùng Vương bắt đầu từ năm 2524 TCN đến năm 258 TCN trải qua 18 đời vua, từ vua Hùng thứ nhất đến đời vua Hùng thứ 18 thì tính trung bình mỗi đời vua đến 145 năm, là một điều làm ngày nay đặt nghi vấn?
Trong cuốn Việt Sử tiêu án viết năm 1775, tác giả Ngô Thì Sĩ tỏ ra băn khoăn: "Người ta không phải là vàng đá, sao lại sống lâu được như thế? Điều ấy càng không thể hiểu được?”
Tác giả Nguyễn Khắc Thuần trong “Thế thứ các triều vua Việt Nam” thì đưa ra quan điểm được các nhà sử học tạm chấp nhận: 18 vị vua Hùng không phải là 18 cá nhân mà là 18 chi, mỗi chi gồm nhiều vị vua thay phiên nhay trị vì và dùng chung vương hiệu. Và số 18 có thể chỉ là con số ước lệ, vì nó là bội số của 9, theo quan niệm của người Việt là số thiêng. (Wikipedia).
D-LỄ HỘI ĐỀN HÙNG
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giổ Tổ mùng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà nghìn năm.
(Ca dao)
Lễ Hội Đền Hùng là dịp để cả dân tộc Việt Nam hướng về Quốc Tổ Hùng Vương, thể hiện lòng thành kính nhớ ơn đối với Vua Hùng có công dựng nước. Cùng với đó nhắc nhở mỗi chúng ta về truyền thống yêu nước, truyền thống tiếp nối những nét văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Trong chương trình lễ hội gồm biểu diễn các tiết mục văn hóa đặc sắc như đánh trống đồng, hát xoan, trò chơi dân gian, v.v…
Ngày 6/12/2012, văn hóa tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Lễ hội Đền Hùng có 2 phần: Nghi Lễ thờ cúng các Vua Hùng và Hội là ngày dân chúng cùng nhau tổ chức vui chơi tưởng nhớ thời tổ tiên lập quốc.
Nghi thức lễ Tế Tổ tại đền Hùng, Phú Thọ. (Ảnh Internet).
Hàng năm Lễ Hội Đền Hùng được cử hành trọng thể nơi núi Nghĩa Lĩnh Phú Thọ, là ngày giổ Quốc Tổ Hùng Vương vào ngày mùng 10 tháng 3 Âm lịch. Nghi lễ Dâng Hương tại đền Thượng là nơi các Vua Hùng làm lễ Tế Trời Đất. Đồ cúng tế ngoài mâm ngũ quả, bông hoa tươi theo tục lệ còn có bánh dày bánh chưng để nhớ đến sự tích Hoàng tử Lang Liêu con vua Hùng dạy dân ta trồng lúa nước cung cấp nguồn thực phẩm chính cho dân.
Tại đền thờ Lạc Long Quân, nghi lễ rước có nhiều hạng mục như: rước Thần, rước voi, rước kiệu, … của các làng trong vùng. Người Chủ Tế sẽ đọc lời nguyện dâng lên thành tích dân gian và cầu sự bình an, thịnh vượng theo nhịp điệu trống chiêng.
Phần Hội trong Lễ hội Đền Hùng được rất nhiều dân quanh vùng và du khách khắp nơi tham dự có đến vạn người. Tại đền Thượng có trình diễn hát Xoan, ở đền Hạ có hát Ca Trù.
Quanh sân đền có nhiều trò chơi dân gian vui nhộn hấp dẫn như: đánh trống đồng, bịt mắt bắt vịt, đập niêu, đấu vật, đi cầu tre, thi gói bánh dày bánh chưng, chọi gà (đá gà), đua thuyền, v.v…
E-ĐẶC SẢN NÚI TẢN SÔNG ĐÀ
Trời đã xế trưa, chúng tôi ra thành phố Việt Trì thủ phủ của Phú Thọ tìm quán để ăn trưa, cô Út đề nghị đãi Ba món đặc sản nỗi tiếng “Cá lăng vàng sông Đà”. Loài cá quý hiếm thịt ngọt săn chắc thơm ngon ít xương, tương truyền khi xưa đây là loại cá tiến vua. Chúng tôi chọn nhà hàng hải sản Long Gia Quán bên đường Hoa Vương, Việt Trì. May mắn trong hồ chỉ còn duy nhất một con nhưng đến gần 2 kg. Lúc đầu hơi do dự với con cá khá lớn nhưng nghĩ lại không thành vấn đề, vượt gần 2000 km đến đây là cơ hội thưởng thức món canh chua rau sắn nấu cá lăng vàng sông Đà, làm sao có thể bỏ qua được!
Nhà hàng đề nghị sẽ làm 4 món: Nướng riềng mẻ, nấu canh chua với rau sắn (đọt khoai mì muối chua), xào hoa chuối (bắp chuối), nấu thêm tô cháo. Có điều đặc biệt các món ăn trong nhà hàng miền Bắc mà chúng tôi đi qua (Phú Thọ, Bắc Ninh, Sơn Tây, Ninh Bình, …) luôn đều kèm theo có món rau cải luộc+ cái trứng ngan (vịt) luộc dầm trong chén nước tương.
Đặc sản “Núi Tản, sông Đà” khá Phong Phú: ngoài cá lăng vàng còn có cá Anh Vũ cũng là loài quý hiếm. Thịt lợn bản, gà đồi, thịt dê, … Các món từ quả (trái cây): quả trám kho cá, cọ ỏm, xáo chuối, v.v… đặc sản của người Mường có món thịt heo chua Thanh Sơn (thịt heo ướp gia vị rồi cho lên men tự nhiên).
D-CHUYỆN CỔ TÍCH THỜI HÙNG VƯƠNG
Khi tham quan đền Hạ dưới chân núi Nghĩa Lĩnh thờ thần núi, vua Hùng và hai vị công chúa Ngọc Hoa và Tiên Dung có liên quan đến chuyện cổ tích Sơn Thần Tản Viên chồng công chúa Ngọc Hoa, và công chúa Tiên Dung là vợ của Thánh Chữ Đồng Tử (trong sử sách gọi Mỵ Nương, không dùng từ công chúa). Chúng tôi đem các câu chuyện cổ tích xưa ra chiêm nghiệm lại, cô Út trình bày ý kiến của mình:
-Ba, từ trước con nghĩ các câu chuyện cổ tích đều là hư cấu nhưng khi viếng đền Hạ (tại Đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh) mới biết được sự tích “Sơn Tinh- Thủy Tinh” với công chúa Ngọc Hoa và “Chữ Đồng Tử và nàng Tiên Dung” là dựa vào câu chuyện có thật.
-Ừ, trong “Tản Viên Tam Thánh” gồm Tản Viên Sơn Thần trong chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh, chuyện Chữ Đồng Tử và nàng Tiên Dung, và Phù Đổng Thiên Vương thì chỉ có chuyện Phù Đổng Thiên Vương có thể là hoàn toàn hư cấu.
1-Sơn thần Tản Viên, Công chúa Ngọc Hoa - Truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh.
Chuyện cổ tích Sơn Tinh và Thủy Tinh, hai người vì tranh nhau cưới công chúa Ngọc Hoa con vua Hùng kết cuộc Thủy Tinh là kẻ thất bại đem lòng oán hận nên hàng năm vào mùa dâng nước đánh Sơn Tinh, tuy nhiên nước lên tới đâu thì Sơn Tinh triển khai pháp thuật làm núi cao lên hóa giải được nước gây hại.
Đây là câu chuyện cổ tích về Tản Viên Sơn Thánh, có thể đó là người phát triển hệ thống thủy lợi giúp dân chống ngập lụt bảo vệ mùa màng, đề cao tinh thần giúp nước, giúp dân.
Theo Ngọc phả Đền Lăng Xương do Tiến sĩ Nguyễn Hữu Công, quan Đô Đốc Thượng Thư cùng với Nguyễn Công Chính và Nguyễn Minh Khai lập vào ngày 15 tháng 11 năm 1011 đời Lê Thái Tổ, thánh Tản Viên - Sơn Tinh tên thật là Nguyễn Tuấn, con ông Nguyễn Cao Hành và bà Đinh Thị Đen (còn gọi là bà Thái Vĩ), làm nghề đốt than sinh sống ở động Lăng Xương, huyện Thanh Xuyên, phủ Gia Hưng, đạo Sơn Tây (nay là xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ). Khi Tuấn lên 6 tuổi cha mất, vì quá cơ cực hai mẹ con nương nhờ gia đình khá giã họ Ma người tù trưởng tộc Mường dưới chân núi Ba Vì. Trước khi bà Ma qua đời bà trăn trối giao lại sản nghiệp cho Tuấn cai quản. Sau khi mai táng mẹ nuôi Tuấn trở thành tù trưởng, được Thái Bạch Kim Tinh truyền dạy về võ nghệ và phép thuật cao cường. Ông được Hùng Vương kén chọn làm rể, gả cho công chúa Ngọc Hoa.
Như vậy, điển tích này có vẻ phù hợp với những truyền thuyết chung đã có về các thánh bất tử trong tâm thức dân gian.
Khu đền thờ Tản Viên Sơn Thánh được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 21/2/2008. Đền Thượng nằm trong khu vực Vườn quốc gia Ba Vì.
2- Chữ Đồng Tử và Công chúa Tiên Dung.
Chữ Đồng Tử là chàng trai nghèo ở làng Chử Xá, làm nghề chài lưới rất hiếu thảo với cha mẹ. Khi công chúa Tiên Dung con vua Hùng thứ 18 không thích ở kinh thành muốn thong dong ngao du sơn thủy, khi thuyền rồng của công chúa đến làng Chử Xá gặp Chữ Đồng Tử đang tắm sông do đó công chúa Tiên Dung cho là duyên tiền định nên kết duyên vợ chồng.
Nhờ Tiên Dung giúp Chữ Đồng Tử học được phép thuật rồi hai người chu du khắp nơi cứu giúp dân lành. Về sau Chữ Đồng Tử được tôn Thần, ngày nay dân chúng lập đền thờ ở đền Đa Hòa và Dạ Trạch tại Hưng Yên.
Câu chuyện cổ tích được kể hàm ý đề cao tình yêu chân thật vượt lên mọi thường tình, sự bình đẳng và lòng vị tha với mọi người.
3-Phù Đổng Thiên Vương, núi Sóc Sơn.
Đền Gióng Sóc Sơn nằm trên núi Vệ Linh, thuộc thôn Phù Linh, xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội, cách trung tâm thành phố khoảng 30km về phía Bắc. Nơi đây còn được gọi là Đền Sóc, nổi tiếng là một quần thể di tích lịch sử – văn hóa linh thiêng, gắn liền với chuyện kể Thánh Gióng đánh giặc cứu nước.
Truyền thuyết cậu bé làng Phù Đổng còn rất trẻ yếu đuối, khi nghe lời hiệu triệu toàn dân chống quân xâm lược giặc Ân phương Bắc, cậu xung phong lên đường đánh giặc.
Được sự hỗ trợ và khích lệ của các bô lão và phụ nữ dân làng cậu vươn vai trở thành thanh niên cường tráng, dũng mãnh! Cởi ngựa sắt vua ban, nhổ bụi tre làm vũ khí (tre là loại cây thực dụng có khắp nơi trong làng quê) đánh đuổi giặc, chiến thắng đem lại yên bình cho quê hương.
Sau đó người anh hùng tuổi trẻ ấy cỡi ngựa sắt lên đĩnh núi Sóc Sơn bay về trời. Các đời sau tôn vinh người là "Phù Đổng Thiên Vương "!
Đến chiêm ngưỡng tượng đài của vị anh hùng dân tộc năm xưa, chúng ta còn lĩnh hội được gì mà người xưa gởi gắm trong câu chuyện kể?
- Sức mạnh chống quân xâm lược là sự ý thức và đoàn kết của toàn dân.
- Vận dụng mọi phương tiện có sẵn trong dân gian (chiến lược "chiến tranh nhân dân" và chiến thuật "chiến tranh phi đối xứng ").
- Người dân ta thấm nhuần truyền thống vì nước quên mình, như người anh hùng làng Phù Đổng!
***
Trên đường trở về Hà Nội, thấy ông già có vẻ mệt mỏi nên cô con gái Ngọc Ruby đề nghị dừng chân ở Vĩnh Phúc để giải khát và nghỉ ngơi một lát. Chúng tôi trao đổi nhau ôn lại lịch sử về Quốc Tổ Hùng Vương. Cô bé cũng nhắc đến đã từng biết qua nhiều chuyện cổ tích từ thời đại vua Hùng, lần này đến viếng đền Quốc Tổ khám phá ra vài câu chuyện không phải là hoàn toàn hư cấu mà dựa vào sự kiện có thật nhưng được thần thánh hóa lên cho hấp dẫn trí tưởng tượng của các em thiếu nhi.
Khi được trải nghiệm tại nơi phát tích những chuyện cổ tích ấy từng được nghe mẹ kể từ thuở bé bên bếp lửa hồng thức canh nồi bánh tét mỗi khi có giổ hoặc chuẩn bị đón xuân sang thì còn gì bằng.
Đi lên Phú Thọ viếng đền Hùng nơi vùng Đất Tổ bởi vì “Chim có tổ, người có tông” đến chiêm bái Quốc Tổ là thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”. Đến viếng Đền Hùng, từ đó hiểu biết thêm về cội nguồn và hình như chúng ta còn cảm nhận được có sự kết nối gần gủi với ngàn xưa.
Lê Hữu Uy
(Phoenix, Arizona – Mùa Thu 2025).