Nguyền Xưa
Mát lòng,
nhờ những giọt không
Bỗng đâu thuyền đã
sang sông...
tới bờ!
Cát mềm, bãi vắng —
Nguyền xưa...
(Thiền sư Thích Nhất Hạnh)
“Những giọt không” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh hay quá, khiến Sao Khuê cũng muốn… đắc đạo:
Mọi sự vốn không
mát mát lòng
Gió không
thuyền nhẹ,
lướt lướt sông
Bát Nhã theo cùng về bến giác
Nguyền xưa, bốn nguyện cũng vừa xong.
Trần cư sĩ, một bạn đạo của Sao Khuê, cũng cảm ứng mà viết nên thơ:
BUÔNG –
Nhẹ một chữ mà sâu như biển
Có một chiều, khi gió lặng sau cơn bão,
Tôi nghe tiếng đời thở ra một nhịp dài,
Không còn bon chen, không còn giữ lấy,
Chỉ còn một chữ “buông” rơi xuống — nhẹ như chiếc lá cuối mùa.
Tôi từng tưởng hạnh phúc là những gì mình gom góp:
Kiến thức chồng chất như núi,
Tình yêu đắp thành lâu đài,
Tiếng vỗ tay, lời ca tụng, ánh đèn sân khấu...
Nhưng đêm về, vẫn có điều gì nặng trĩu nơi tim.
Cho đến một ngày, tôi thử “không cần nữa”,
Thử không nói lý, không chứng minh, không tranh hơn thua.
Lạ thay, cái trống không ấy lại đầy ắp ánh sáng.
Tâm tĩnh, như hồ thu không gợn.
Có đấy rồi không, không rồi lại có,
Vòng sinh diệt như nhịp sóng vỗ bờ.
Nhưng chẳng còn ai ngồi đếm nữa,
Vì người ấy đã hóa thân thành… bờ.
Không là có, có là không — thấy vậy là đủ.
Tu mà không cần mang bảng hiệu “tu”,
Sống như nước chảy, mây trôi,
Gặp ai cũng mỉm cười như đã quen từ muôn thuở.
Thưa quý vị,
Khi buông hết rồi còn chăng chỉ là một chữ KHÔNG.
Ai trong chúng ta cũng từng nghe, từng hiểu về chữ Không.
Theo Phật giáo, “Không” có nghĩa là không có tự tánh, mọi vật, mọi việc… không tự hình thành hay tự tạo ra mà phải dựa vào vô số yếu tố khác nhau — gọi là duyên.
Ví như:
Nhờ gió đưa duyên nên hạt cải, hạt hoa bay đến vùng đất, duyên cho gặp nước, gặp nắng… mà nảy mầm thành cây. Từ cây làm ra gỗ. Gỗ làm ra bàn. Gỗ làm thành bột rồi thành giấy… Giấy để in sách, viết báo, tỏ tình, xin việc… hay cả… xin ly hôn!
Vì cần nhiều duyên, nên các pháp mới hiện hữu chứ không có cái gì tự nhiên mà có hay mất đi nên nhà Phật gọi đó là KHÔNG.
Cái bàn là không, giấy là không! Khó hiểu thật, nó sờ sờ ra đó mà lại bảo nó là không! Ủa lạ chưa? Nhưng cái bàn là không khác với không có cái bàn. Cái bàn vẫn có đó nhưng nó làm thành từ gỗ, đinh ốc, người thợ… nên nhà Phật nói cái bàn là không, cái bàn và tất cả mọi vật, mọi sự việc… quý vị nghĩ kỹ đi, chúng không thể tự có được.
Trong “Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật”, có câu: “Ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.”
Ngũ uẩn là 5 nhóm hợp lại thành người. Đó là Sắc – Thọ – Tưởng – Hành – Thức.
Khi thấy rõ Sắc – Thọ – Tưởng – Hành – Thức đều là Không, thì vượt qua được mọi khổ đau.
- Sắc: thân xác và thế giới vật chất
- Thọ: cảm giác (vui, buồn, hay không vui không buồn)
- Tưởng: nhận biết, ghi nhớ, hình dung
- Hành: hành động, tâm lý, ý chí (tạo ra nghiệp)
- Thức: nhận thức, phân biệt đúng sai
Như vậy, con người chỉ là sự kết hợp tạm thời của năm uẩn này nên gọi là vô ngã: không có cái ta vì không thế tự hình thành.
Khi đủ duyên thì 5 uẩn hợp lại thành người, khi duyên tan thì người rã tan. Có rồi không còn nữa nên gọi là Vô thường.
Mọi sự, mọi vật chỉ tạm có nhưng người ta tưởng nó tồn tại hoài hoài nên giữ nó khư khư. Thân thể tôi, nhà của tôi, vợ con tôi, xe của tôi… và ai động đến hay khi mất đi những cái của tôi thì tôi đau khổ… Muốn hết khổ cần biết chấp nhận.
Tuỳ duyên
Bớt chấp ngã cho đời bớt khổ
Thấy Vô thường, tâm ý sẽ thảnh thơi
Tướng-Tánh— ngoài hay trong cũng vậy thôi
Do Duyên mà có, rồi biến chuyển…
Không rồi Có, liên miên bất tận
Không tự sinh tự diệt — chỉ do duyên
Không có gì của Ta — mà mất hay còn…
Cứ buông xuống, để tùy duyên cho nhẹ.
(Tướng là hình thể bên ngoài, Tánh là đặc tính bên trong)
Trở lại bài thơ của thiền sư Nhất Hạnh:
Giọt không ví như giọt cam lồ từ tịnh bình Quán Thế Âm – làm mát lòng.
Thuyền mê đã rời bến, sang sông, tới bờ giác là giác ngộ.
Nhưng giác ngộ cái gì?
Sao Khuê nghiệm ra rằng:
Đời là bể khổ, mà chúng sinh thì không biết bơi.
Nhưng chúng ta không cần biết bơi mà chỉ cần thả nổi như bèo nghĩa là việc gì đến hay đi, vui hay buồn… ta đều chấp nhận với tâm trạng không vui, không buồn rầu.
Khi nó đến, không hoàn hỉ hay khổ sở và không thở phào, tiếc nuối khi nó đi. Không phải chúng ta dửng dưng mà chúng ta bình thản, thảnh thơi tiếp khi nó đến, tiễn khi nó đi.
Bị lừa gạt mất tiền hay trúng số; con cái chăm sóc hay bỏ bê, người chê bai hay khen ngợi… việc qua thì không nghĩ lại, chỉ “Buông” như thể vừa đi qua một tấm gương. Gương không giữ lại hình ảnh nào cả, lúc nào cũng trong sáng. Tu tập không phải để lượm vào mà để buông ra.
Buông ra những phiền não, lo âu, sợ hãi…
Trong thiền tập có bốn cấp là sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền tương ứng với bốn Thánh quả là sơ quả Tu-đà-hoàn, Nhị quả Tư-đà-hàm, Tam quả A-na-hàm và Tứ quả A-la-hán. Thành tựu Thánh quả A-la-hán là mục tiêu tối hậu, giải thoát hoàn toàn mọi chi phối của phiền não sanh tử, chứng đắc Niết-bàn.*
Bốn Thánh quả, kết quả của tu tập chính là kết quả sau khi đã buông ra được. Thí dụ Sơ thiền là trạng thái hỷ lạc nhờ sự xả ly (Ly sanh hỷ lạc). Đạt sơ thiền khi hành giả xả (buông ) được 5 triền cái . 5 triền cái là 5 màn che gồm Trạo cử, Hôn trầm, Dục, Sân và Nghi, chúng không cho ta thấy rõ tâm ta.
Buông ra – như lau sạch tấm màn vô minh, để cái Biết, cái Thấy vốn có sẵn trong ta được lộ ra.
Khi có bất cứ ý tưởng (niệm) nào vừa xuất hiện thì buông ra liền:
Vô niệm, vô tâm, thấy rồi buông
Bờ đến, rời đi, bỏ lại xuồng
Lưu luyến làm chi, sông rồi nước
Trùng trùng duyên khởi, việc đến luôn…
Sao Khuê
Vô niệm, vô tâm: không dính mắc, không khởi tâm tham – sân – si.
Nhờ kiến thức của người đi trước, như chiếc thuyền, làm phương tiện qua sông để tới bờ giác ngộ… qua rồi thì rời thuyền, không ôm giữ mãi kiến thức vì khi này kiến thức và ta đã thành một ví như bây giờ nhìn vào trang sách là đọc vanh vách, không cần đánh vần từng chữ nữa, nhìn bài kinh là đọc làu làu mà không cần có quyển kinh đó nữa.
Giọt không làm mát lòng Thiền sư Nhất Hạnh và thuyền mê bỗng chốc tới bờ. Mà tới bờ rồi thì thiền sư thấy Cát mềm, bãi vắng… Nguyền xưa.
Sao Khuê suy ngẫm:
Cát mềm - là hết chông gai, hết khó khăn.
Bãi vắng- là vô ưu, tĩnh lặng.
Nhưng Nguyền xưa?
Có lẽ thiền sư ngụ ý bốn nguyện của các vị Thượng tọa, Thiền sư:
- Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
- Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
- Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
- Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành
Sao Khuê, duyên may gặp Pháp Phật, bắt đầu TU
Tu một chút là buông đi một chút.
Chút tham, chút sân, chút si.
Một ngày kia bờ giác quay về
…Và chợt nhận ra đời chỉ là ảo mộng.
Về bến giác, quý vị thấy gì thì Sao Khuê không biết, riêng Sao Khuê đến giờ này thấy:
Bên này, bên nớ, giống y nhau,
Chỉ lòng thanh thản, bớt niềm đau.
Mây trôi, gió thổi, thôi thắc mắc,
“Có sao, nhận vậy”.
Trước khác sau...
Đúng vậy, hai bờ vẫn giống nhau, chỉ khác là khi qua sông, mình đã thả rơi, buông bỏ được khá nhiều nhờ hiểu ra mọi sự vốn không
Mọi sự vốn không, mát mát lòng,
Gió không thuyền nhẹ lướt trên sông.
Không bờ, không bến, không thuyền, sóng,
Mọi sự trên đời vốn tánh “không”…
Nhưng quý vị ơi, không phải vậy đâu. Nãy giờ Sao Khuê thấy bài thơ quá hay, bèn mạn phép bàn ngang, rồi tưởng rằng mình đã ở bờ Giác, hóa ra:
Vẫn ở thuyền không, chưa tới bờ,
Gió hiu hiu mát khiến nằm mơ.
Cứ tưởng như mình đã giác ngộ,
Hóa ra tu tập vẫn sơ cơ...
Sao Khuê
30 tháng 7, 2025