"Làm trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chứ sao chịu bo bo làm đầy-tớ người!" ** Lê Lợi **

 

Mùa Thu và Sắc Màu Của Tiếng Việt

 

MuaThuMauSac HVH

Mùa thu là mùa của những thay đổi tinh tế trong thiên nhiên, khi tán lá cây xanh chuyển dần sang vàng rực rỡ và đỏ rực. Ở Việt Nam, dù màu vàng là màu thường gặp trong đời sống như màu hoa mai, hoa cúc, màu lúa chín, màu nước lụt, nhưng tiếng Việt bản địa không có từ thuần túy chỉ màu vàng mà phải mượn tiếng Hán (chữ 黃 - hoàng, huỳnh ở miền nam vì kiêng tên chúa Nguyễn) để gọi tên. Người Eskimo tuy sống cô lập từ lâu lại có từ ngữ riêng như “esirliq” để mô tả màu vàng phổ biến như màu lá cây phong (maple) trong thiên nhiên gần Bắc Cực, trong khi người Việt không biết tại sao lâu nay vẫn mượn chữ Hán để biểu đạt màu vàng. Một câu có chữ vàng tưởng là ca dao truyền khẩu lâu đời thì thật ra không xưa lắm:
Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?
Đây là thơ của Bàng Bá Lân viết năm 1934 trong tập thơ Tiếng thông reo và nguyên văn như sau:
Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi? (1)

Trong văn chương Hán Nôm và Nôm truyền thống, màu vàng (hoàng) hiếm khi được nhắc đến nhiều như trắng (bạch), xanh (thanh), hay đỏ (hồng), và điều này có lẽ không phải là ngẫu nhiên.
Từ thời Lý Cao Tông trở đi, chỉ có vua mới được mặc áo màu vàng; triều Nguyễn cũng cấm trang phục sử dụng màu vàng (và hình ảnh rồng năm móng). Trong các văn bản Hán Nôm Huế, màu vàng được sử dụng rộng rãi trong thơ văn, các nghi lễ cung đình để biểu đạt sự uy nghiêm và sự cao quý của hoàng gia (皇家, chữ hoàng 皇 này khác chữ hoàng 黃 của màu vàng).

Màu vàng trong quan niệm Đông phương là màu của Thiên tử, đại diện cho Hoàng quyền tối thượng, sự uy nghiêm và trung tâm của vũ trụ. Vì bị tầng lớp cai trị dành độc quyền, màu vàng có lẽ trở thành màu cấm kỵ (hoặc ít nhất là cần kiêng tránh) trong sinh hoạt và sáng tác của giới bình dân cũng như văn sỹ . Do đó, trong khi các màu khác tự nhiên đi vào thi ca để miêu tả cảnh vật và tâm trạng (như thanh thủy, bạch mã, hồng nhan), màu vàng bị hạn chế, dành riêng cho những đề tài mang tính chất cung đình hoặc những hình ảnh tượng trưng cao quý như trong Phật giáo, khiến nó trở nên thầm lặng hơn trong dòng chảy văn học.

Ở vùng ôn đới như Virginia nước Mỹ sự thay đổi của màu sắc của lá không chỉ là phản ánh sự biến đổi sinh lý của cỏ cây mà còn gợi lên trong tâm hồn những cảm xúc bâng khuâng, man mác của mùa thu. "Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô" trong thi ca Lưu Trọng Lư cũng thường thấy ở Virginia là hình ảnh lãng mạn, biểu trưng cho sức sống và sắc màu riêng của mùa thu miền Bắc Việt Nam, khó tìm thấy ở miền Trung hay miền Nam. Nai thay lông để chuẩn bị cho khí hậu lạnh và chỉ trở nên "vàng" dưới cái nắng hanh hao của thu chứ không phải quanh năm. (2)(3)

Ở từng vùng miền Việt Nam, cách gọi màu sắc cũng có khác biệt. Ở Huế, từ lục (綠) viết với dấu nặng và âm thanh cũng nặng hơn, dùng để chỉ màu xanh lá cây có âm điệu trầm tĩnh và trang nhã, thể hiện nét văn hóa cung đình và trí thức. Người Việt trong thế kỷ XIX–XX (đặc biệt ở vùng kinh đô Huế) thừa hưởng truyền thống ngôn ngữ Hán học nên vẫn dùng lục trong văn chương hoặc nghi lễ, ví dụ “áo lục,” “vải lục,” “lụa biếc lục.” Dân gian cũng thường gọi cây bèo trôi trên sông là “lục bình”.

Trong thơ ca Huế cổ, lục vẫn ít phổ biến hơn xanh, vì xanh (thanh, 青) mang âm điệu mềm mại, thân thuộc với đời sống và dễ dùng hơn. Ở miền Bắc và miền Nam, xanh được dùng phổ biến để chỉ các sắc thái xanh lá cây (green), xanh trời (blue).

Ngoài ra, lam (藍), có thể là xanh đậm pha sắc tím của thuốc nhuộm “chàm” hay còn gọi là indigo, hoặc pha màu xanh lá cây như “lục lam” hay cyan, hoặc “ngọc lam” hay turquoise chứa nhiều màu lục hơn cyan. Tím (chữ Hán 紫, đọc là tử, là màu giữa đỏ và lam) mặc dù phổ biến trong thơ nhạc hiện nay ít được dùng trong thi văn xưa. Các nhà nghiên cứu cho rằng trong ngữ cảnh cổ điển, sắc tía không nhất thiết mang nghĩa màu tím như ngày nay, mà thiên về ý nghĩa màu đỏ tươi hoặc đỏ pha tím, thường được dùng để chỉ vẻ đẹp lộng lẫy, sang trọng hoặc rực rỡ của cảnh vật và trang phục. Lam, tím (hay tía) hay đen, đỏ tuy có nguồn gốc khác nhau nhưng đều mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc trong văn hóa Việt:(4)(5).
Sự đa dạng về từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt là kết quả của quá trình tiếp biến văn hóa sâu sắc giữa từ ngữ bản địa Vietic trong nhóm ngôn ngữ Nam Á (6) và từ mượn Hán Việt (7) đồng thời phản ánh sự khác biệt về sắc tộc, văn hóa, vùng miền và điều kiện địa lý – những yếu tố góp phần hình thành nên cái "hồn" đặc trưng trong cái nhìn của người Việt về thế giới sắc màu.

Trên đây chỉ là một cuộc dạo chơi ngắn vào thế giới mênh mông của kiến thức ngôn ngữ, văn hóa và tự nhiên, lượm lặt vài nét thú vị về cách người Việt chúng ta trải nghiệm và diễn đạt sắc màu mùa thu – một bản hòa ca giữa thiên nhiên và tâm hồn, giữa ngôn ngữ và văn hóa, pha trộn những yếu tố đa dạng và độc đáo làm nên diện mạo riêng biệt của kho tàng ngôn ngữ màu sắc Việt Nam.

Hồ Văn Hiền
Thị trấn Thác Lớn
Virginia
Ngày 23 tháng 10 năm 2025

Chú thích:

1)https://www.thivien.net/B%C3%A0ng-B%C3%A1-L%C3%A2n/Ti%E1%BA%BFng-h%C3%A1t-trong-tr%C4%83ng/poem-KnKq-C_gJZPPK74hLZVuew

2)Hươu nai có thay đổi màu lông theo mùa: hè lông mỏng, ngắn hơn và có màu đỏ nâu hoặc hạt dẻ, tản nhiệt tốt hơn trong thời tiết ấm áp; qua thu, khi ngày bắt đầu ngắn lại, hươu/nai sẽ bắt đầu thay lớp lông hè bằng lớp lông cho mùa đông; mùa đông lông mới mọc dày hơn, dài hơn, nâu xám hoặc tro xám để hấp thụ năng lượng tốt hơn, giúp chúng hòa lẫn tốt hơn với môi trường cây trơ trụi và lá rụng. Lông mùa đông cũng có các sợi rỗng bên trong, giúp giữ nhiệt tốt hơn trước. Màu đỏ nâu của bộ lông hè đôi khi có thể mang sắc thái vàng nhạt hoặc nâu vàng ở một số cá thể hoặc vùng địa lý.
Hươu sao ở Việt Nam được ghi nhận là có bộ lông vàng tươi và mượt mà sau khi thay lông vào mùa xuân, nhưng sau đó cũng chuyển sang màu tro sẫm hoặc sẫm hẳn vào cuối mùa thu và đông.

3) Con người có thị giác màu tam sắc (trichromatic), nghĩa là võng mạc (retina) chúng ta có 3 loại tế bào hình nón (cones) giúp nhận biết màu xanh dương (blue), xanh lục (green) và đỏ (red), cho phép chúng ta nhìn thấy một phạm vi màu sắc phong phú. Hươu/nai và chó đều có thị giác màu lưỡng sắc (dichromatic), nghĩa là chúng chỉ có 2 loại tế bào hình nón. Hươu/nai kém nhạy cảm với các bước sóng/wave length dài (như màu đỏ và cam), nên chúng chủ yếu thấy màu sắc trong phạm vi xanh dương (blue) và xanh vàng-lục (blue-yellow-green), giống như người bị mù màu (color blind) thường không cảm nhận màu đỏ hay màu xanh lá cây. Ví dụ người mù màu sẽ mô tả một trái táo đỏ trên một cây táo xanh tươi như là màu vàng và máu nâu xám.
Nai cũng vậy, không thấy màu cam của thợ săn (hunter orange) nên mặc áo màu cam người thợ săn dễ nhận ra nhau nhưng con nai thì nó khó nhận ra. Ngược lại, mắt nai không bị lọc tia cực tím (ultraviolet, UV light) nên nhìn thấy tia này, khác với chúng ta. Một số thuốc tẩy giặt (brighteners) làm áo quần phát tia UV và dưới mắt con nai người mặc áo quần có tia UV là những điểm sáng dù họ ở trong tối. Chó cũng là lưỡng sắc, và thường được cho là cũng gặp khó khăn trong việc phân biệt màu đỏ và xanh lá, thấy thế giới chủ yếu bằng màu xanh dương và vàng. Một con chó sẽ không thấy rõ trái banh màu đỏ nằm trên cỏ xanh vì dưới mắt nó chỉ là những vật mờ màu vàng-nâu-xám.

4)Từ lam trong cụm khói lam chiều là Hán-Việt, có gốc từ chữ 藍 trong tiếng Hán, nghĩa là “màu xanh lam, xanh đậm”. Từ lam xuất phát từ nghĩa nguyên thủy là “chàm”, tức cây chàm (Indigofera tinctoria), dùng để nhuộm màu xanh đậm. Vì vậy trong tiếng Hán, chữ 藍 vừa chỉ cây chàm, vừa chỉ màu xanh lam trầm. Khi du nhập vào tiếng Việt, lam được giữ nguyên sắc thái đó trong tầng từ Hán-Việt. Ngày nay nó xuất hiện trong các từ Hán-Việt mang ý nghĩa màu sắc: thanh lam, lam ngọc, tía lam , v.v..
Trong cụm “khói lam chiều”, nghĩa của lam chỉ sắc khói xanh nhạt hoặc xanh xám bốc lên khi đốt rơm rạ lúc hoàng hôn, không hoàn toàn xanh trời, cũng không phải xám tro, mà là màu trung gian — nên từ lam rất thích hợp về mặt thi vị, biểu cảm.

5) Theo Huỳnh Văn Hoa: “Trong văn học Việt Nam, có những màu sắc thơ ca cổ điển dùng đến như tía, thắm (Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Truyện Kiều) thì thơ ca hiện đại ít dùng. Ngược lại có những màu dễ tìm thấy trong thơ ca hiện đại như hồng, đỏ, vàng, thì chỉ có rải rác đó đây trong thơ ca cổ điển. Trong Chinh phụ ngâm, màu vàng: xuất hiện 5 lần, màu đỏ: 2 lần, màu hồng: 2 lần và trong Cung oán ngâm khúc, màu vàng: 4 lần, màu đỏ: không có, màu hồng: 6 lần. Thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận sau 1945 thì đậm đặc các màu này.”
https://leminhquoc.vn/the-loai-khac/tac-pham-cua-ban-be/1059-huynh-van-hoa-mau-sac-trong-van-chuong.html
6)Vietic là một nhóm ngôn ngữ thuộc hệ Môn-Khmer ( Nam Á, Austroasiatic), được nói bởi các dân tộc Vietic ở khu vực Lào và Việt Nam. Nhóm tiếng này bao gồm các ngôn ngữ như tiếng Việt, Mường và một số dân tộc thiểu số khác. Vietic được xem là có nguồn gốc cổ xưa, ước tính từ khoảng 2.500 đến 3.500 năm trước, với vùng xuất phát có thể nằm ở khu vực đồng bằng sông Hồng và một phần ở các tỉnh miền Trung của Việt Nam cũng như tỉnh Bolikhamsai và Khammouane ở Lào.
Những màu cơ bản sớm nhất trong tiếng Việt — đen , trắng , đỏ — có nguồn gốc thẳng từ ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic), đặc biệt là nhánh Vietic.

  • đen (đen, tối) liên hệ rõ với gốc Proto-Vietic “ɗaːn”, tương đương với tiếng Thái dahm nghĩa là “đen”.
  • đỏ xuất phát từ từ gốc Vietic hoặc có quan hệ xa với nhóm ngôn ngữ Nam Đảo và Đông Nam Á lục địa, đều mang nghĩa “máu” hay “cháy đỏ”.
  • trắng có thể liên hệ với trăng (mặt trăng) do ánh sáng và màu sắc tượng trưng.[scribd] Các từ bản địa này phản ánh logic “ẩn dụ tự nhiên” — màu gọi theo vật thể quen thuộc: trắng như trăng, đen như đêm, đỏ như máu.

Những "thuật ngữ màu cơ bản" này tương ứng với các tập hợp ban đầu phổ biến được tìm thấy trong ngôn ngữ học nhân chủng học (anthropological linguistics);"màu vàng" thường xuất hiện sau này trong quá trình tiến hóa văn hóa, một khi các xã hội cần mô tả kim loại (vàng), cây trồng (lúa chín) hoặc sắc tố nghi lễ.
Trong khi hầu hết các thuật ngữ màu cơ bản đều có nguồn gốc từ tiếng Việt, hệ thống thuật ngữ màu tổng thể của tiếng Việt trong thời kỳ Việt (tức là trước khi xuất hiện tiếng Việt-Mường) đã đạt được một số lượng đáng kể các từ về màu và được tái cấu trúc bằng cách tiếp xúc ngôn ngữ với ngôn ngữ Sinitic trong thiên niên kỷ đầu tiên sau Công nguyên (Từ Sinitic là một thuật ngữ ngôn ngữ áp dụng cho toàn bộ ngữ hệ Trung Hoa, bao gồm tất cả các ngôn ngữ và phương ngữ Trung Hoa lịch sử và hiện đại, như Quan thoại, Quảng Đông, Mân Nam, và dùng chữ Nho (Hán tự) để viết . Nó không giới hạn ở một giai đoạn cụ thể của lịch sử Trung Quốc và nhất là không giới hạn vào tiếng Trung hiện nay dùng ở Trung Quốc, mà là đề cập đến toàn bộ nhánh của ngữ hệ Trung-Tây Tạng.)
Alves, M. Chinese Loanwords in the Vietnamese System of Color Terms. https://doi.org/10.13140/RG.2.2.24707.81449

7)Từ thời Bắc thuộc, tiếng Việt hấp thu nhiều từ chỉ màu có gốc Hán, đặc biệt trong giai tầng triết học, quy phạm và văn chương :

  • vàng (< 黃 huáng): “vàng, vàng kim” – du nhập sớm nhất, gắn với màu hoàng bào vua chúa.
  • xanh /thanh (< 青 qīng): “xanh, lam” – ban đầu chỉ màu xanh nước biển hay xanh trời, sau hòa nhập thành lớp từ Việt hóa.
  • lam (< 藍 lán): “chàm, lam thẫm” – chỉ màu xanh khói hoặc xanh đậm dùng trong văn thơ.
  • tía /tím (< 紫 zǐ): “tía, tím” – màu giữa đỏ và xanh, Việt hóa mạnh thành từ thuần Việt trong khẩu ngữ.

 

 

Thống-Kê Vào Làng

Viet Nam 43.6% Viet Nam
United States of America 19.0% United States of America
China 14.9% China
Italy 8.4% Italy
Germany 6.4% Germany
Canada 2.1% Canada
Australia 1.1% Australia

Total:

85

Countries